Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quản lý nhân lực khoa học ở học viện chính trị hành chính quốc gia hồ chí minh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gần 60 năm xây dựng và trưởng thành từ Trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương…, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và hiện nay là
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã có những đóng
góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng: đã
đào tạo hàng vạn cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của Đảng, Nhà
nước, đoàn thể nhân dân và cán bộ lý luận chính trị; nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học có giá trị cho
việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, phản bác lại những quan điểm sai trái của các thế lực phản
đơng, thù địch, góp phần quan trọng bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nghiên cứu,
phát triển khoa học chính trị, xây dựng Đảng, về nhà nước pháp luật và các
chuyên ngành khoa học khác và đã hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm
vụ được giao.Với những đóng góp đó, Học viện đã được Đảng và Nhà
nước tặng thưởng những phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Sao Vàng và danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi
mới. Đạt được thành quả to lớn đó trước hết sự quan tâm cảu Đảng, Nhà
nước, sự lãnh đạo sát sao hiệu quả Ban Cán sự Đảng, của Ban Giám đốc và
lãnh đạo các đơnv ị trực thuộc qua các thời kỳ. Trong đó yếu tố quan trọng,
quyết định là do sự nỗ lực, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ,
cơng chức nói chung, đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện nói riêng.
Nhận thức rõ vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ khoa học đối với sự
phát triển của Học viện, Ban Cán sự đảng, Ban Giám đốc, Đảng uỷ Học
viện luôn quan tâm chăm lo đến công tác xây dựng, quản lý nhân lực và tạo
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ này hoạt động có hiệu quả. Nhờ vậy,
trong những năm qua, đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện ngày càng
trưởng thành về số lượng và chất lượng không ngừng được nâng cao.


Thực tiễn trong những năm qua, đội ngũ cán bộ khoa học Học viện


đã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý trung, cao cấp của Đảng, nhà nước và các đồn thể nhân dân, đào
tạo cán bộ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học lý luận chính trị,
khoa học xã hội và nhân văn của đất nước và nước bạn Lào, chủ trì và tham
gia nhiều chương trình, đề tài khoa học cấp bộ, cấp nhà nước, đóng góp
tích cực cho cơng tác lý luận, góp phần vào việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện cũng còn những
hạn chế, bất cập chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trịc ảu Họcv iện
trong giai đoạn mới. Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ “Chất lượng
đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu còn một số mặt hạn chế, nhất là về
khả năng cập nhật kiến thức khoa học hiện đại, hiểu biết thực tiễn đất nước
và thế giới, về khả năng ngoại ngữ, tin học và sử dụng những phương pháp
giảng dạy hiện đại”. Đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện đơng, trình độ
cao, nhưng việc phát huy khả năng của đội ngũ này còn hạn chế. Trong
thời kỳ đổi mới đất nước, Học viện chưa có nhiều cơng trình khoa học tầm
cỡ, gây được tiếng vang lớn trong xã hội, rất ít cán bộ khoa học đạt giải
thưởng quốc gia, quốc tế chưa có đóng góp nhiều trong việc hoạch định,
biên soạn hiện thực đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Đây là điều trăn trở lớn nhất của Ban Giám đốc Học viện trong nhiều
năm qua nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu khắc phục. Thực trọng trên do
nhiều nguyên nhân, trong đó một ngun nhân quan trọng là cơng tác quản
lý nguồn nhân lực khoa học của Học viện chua được đổi mới.
Trên thực tế, Học viện đã quan tâm đến cơng tác này, đã có một số
biện pháp quản lý cán bộ khoa học, như ban hành Quy chế nghiên cứu
viên, Quy chế giảng viên, quy định phân cấp quản lý cán bộ trong các đơn
vị trong Học viện, quy định về tiêu chuẩn thi đua đối với cán bộ nghiên
cứu, giảng dạy, vv…Tuy nhiên, các qui định trên còn nhiều điểm chưa cụ
thể, việc chấp hành các quy định trên ở các đơn vị chưa nghiêm túc, chưa
quan tâm thực hiện nên việc phát huy tác dụng cịn hạn chế, chưa thật sự

trở thành cơng cụ quản lý hiệu quả đối với cán bộ khoa học. Bên cạnh đó,
việc kiểm tra, đơn đốc, phân cơng cơng việc chưa chặt chẽ, thường xuyên,
2


dẫn đến một số cán bộ khoa học chưa thật sự tập trung cao độ vào nhiệm
vụ chính của mình. Một số cán bộ khoa học được Học viện tạo điều kiện
cho đi đào tạo trong thời gian dài, nhưng khi đã trưởng thành do nhiều yếu
tố chi phối nên có biểu hiện “chân trong, chân ngồi” quan tâm nhiều hơn
tới các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở ngoài Học viện vv…
Để phát huy mạnh mẽ vai trò và khả năng của đội ngũ cán bộ khoa
học Học viện trong giai đoạn hiện nay, vấn đề quan trọng cần tập trung giải
quyết là cùng với việc tích cực đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ
khoa học thật sự có chất lượng cao cũng như vận dụng chế độ chính sách
đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ khoa học, cần tăng cường quản lý nhân lực
khoa học, nhằm khai thác và phát huy mạnh mẽ nguồn nhân lực này, nhằm
thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của Học viện ,đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bởi vậy, nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhân lực khoa học của Học
viện là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Vấn đề xây dựng nguồn nhân lực đã được Đảng ta đề cập tới trong
nhiều nghị quyết, như: Nghị Quyết Trung ương ba khóa VIII, Nghị quyết
Trung ương bảy khóa VIII, Nghị quyết Trung ương Năm Khóa IX,…Nhà
nước ta đã thể chế hóa quan điểm, chính sách cán bộ của Đảng trong Pháp
lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi, bổ sung năm 2003) và trong các Nghị định
về tuyển dụng, quản lý, sử dụng, ..cán bộ, công chức. Các văn kiện của
Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước chính là những căn
cứ để đề tài tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các giải pháp.
Vấn đề quản lý và quản lý nguồn nhân lực cũng đã được các nhà

nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn, về quản lý, có
giáo trình “Khoa học quản lý” của Trường Đại học kinh tế quốc dân; tập
bài giảng “Khoa học quản lý” dành cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính
trị do Viện Quản lý kinh tế - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh biên soạn; sách “Khoa học tổ chức và quản lý, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999),…. Về quản lý nguồn
3


nhân lực, có Giáo trình Quản lý lao động do Trường Đại học kinh tế quốc
dân biên soạn (2003); Giáo trình Quản lý lao động do Trường Đại học Lao
động xã hội biên soạn (2005); sách “Quản lý nguồn nhân lực” của Paul
Hersey và Ken Blanc Hard (Nxb CTQG, Hà Nội, 1995); sách “Lý luận và
nghiệp vụ công tác tổ chức cán bộ” (Nxb CTQG, Hà Nội, 1997), sách
“Kinh nghiệm khai thác các nguồn lực trong cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”(Nxb CTQG, Hà Nội, 2000)vv..
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức
một số hội thảo quốc tế, trong đó, các mơ hình quản lý nhân lực của một số
nước tiên tiến đã được giới thiệu. Ở Học viện cũng đã có nhiều đề tài khoa
học nghiên cứu, khảo sát, tổng kết công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ của Học viện, trong đó một số đề tài đã nghiên cứu về đội ngũ cán bộ
khoa học và đề cập một số mặt, khía cạnh của cơng tác quản lý nhân lực
khoa học. Mặc dù, chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu một cách tồn
diện về cơng tác này, nhưng đó là những nguồn tư liệu có giá trị tham khảo
trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu công tác quản lý nhân lực khoa học của các đơn vị
làm công tác giảng dạy, nghiên cứu và các cơ quan chức năng liên quan
trực tiếp đến công tác quản lý nhân lực khoa học của Học viện. Ngoài ra,
đề tài còn tham khảo hoạt động này ở một số cơ sở đào tạo và nghiên cứu

khoa học khác như: Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà
Nội v.v.. để đối chiếu, so sánh, phục vụ cho việc nghiên cứu đưa ra những
kết luận và các giải pháp.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
4.1 Mục tiêu
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của công tác
quản lý nhân lực khoa học ở Học viện hiện nay, đề tài đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý nhân lực
khoa học ở Học viện, góp phần xây dựng, phát triển và sử dụng có hiệu quả
đội ngũ cán bộ khoa học Học viện trong những năm tới.
4


4.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ sự cần thiết của việc tăng cường công tác quản lý nhân lực
khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng cơng tác quản lý nhân lực khoa học của
các đơn vị ở Học viện, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân kinh nghiệm.
- Xác định những quan điểm cơ bản cần quán triệt và một số giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản
lý nhân lực khoa học ở Học viện trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh về những vấn đề mà đề tài đặt ra, trao đổi, tọa đàm với cán bộ khoa
học, cán bộ lãnh đạo quản lý của Học viện và một số cán bộ ngồi Học viện.
- Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng các phương pháp thực nghiệm, như:
khảo sát, điều tra xã hội học.
6. Kết cấu của tổng quan khoa học
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, báo
cáo tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài được kết cấu thành hai phần:

Phần thứ nhất: Quản lý nguồn nhân lực khoa học ở Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
Phần thứ hai: Quan điểm và một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý nhân lực khoa học ở Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Lùc l−ỵng nghiên cứu
Để thực hiện đợc mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, chủ nhiệm
đề tài đà huy động lực lợng chủ yếu nh sau:
- Một số cán bộ chuyên nghiên cứu về lĩnh vực cán bộ và một số cán bộ
lÃnh đạo của các Vụ, Viện trong Học viện.
- Các đồng chí lÃnh đạo, chuyên viên của Vụ Tổ chức - Cán bộ .
8. Qúa trình tổ chức thực hiÖn:

5


- Sau khi ký hợp đồng nghiên cứu với Vụ Quản lý khoa học, Chủ nhiệm
đề tài đà tiến hành xây dựng đề cơng tổng quát của đề tài, mời cộng tác viên
tham gia nghiên cứu và viết các chuyên luận, tiến hành khảo sát thực tế, thu
thập t liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xử lý thông tin và cung cấp
cho cộng tác viên.
- Sau khi các cộng tác viên tiến hành xây dựng đề cơng chi tiết các
chuyên đề đợc phân công, tiến hành hội thảo theo nhóm đóng góp ý kiến
hoàn thiện đề cơng chi tiết.
- Cộng tác viên viết bản thảo các chuyên ®Ị gưi cho Chđ nhiƯm ®äc,
gãp ý ®Ĩ c¸c t¸c giả tự chỉnh sửa. Các bản thảo sau khi đà chỉnh sửa, đợc sắp
xếp theo hệ thống lôgíc của đề tài. Sau đó, Chủ nhiệm đề tài tiến hành viết báo
cáo tổng quan, hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu theo quy định của Học viện.
9. Sản phẩm đạt đợc:
- Một bản kỷ yếu bao gồm các chuyên luận đợc sắp xếp theo logíc về

những khía cạnh trọng yếu của đề tài.
- Một bản báo cáo tổng quan, một bản báo cáo tóm tắt kết quả nghiên
cứu và kiến nghị của đề tài.
Đề tài nghiên cứu về một vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm, liên quan
đến lợi ích và cơ hội phát triển của từng cá nhân cán bộ khoa học nói riêng,
đến sự phát triển của cả đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện nói chung.
Hơn nữa, phạm vi nghiên cứu của đề tài là cả hệ thống Học viện gồm nhiều bộ
phận, đơn vị với nhiều chuyên ngành có những nét đặc thù khác nhau. Do đó,
đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Rất mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và
của tất cả các đồng chí.

6


Phần thứ nhất
QUẢN LÝ NHÂN LỰC KHOA HỌC Ở HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề về quản lý nhân lực khoa học ở Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
1.1.1. Quan niệm về quản lý nhân lực khoa học ở Học viện
- Nhân lực và nhân lực khoa học.
Nhân lực thường gắn liền với một tổ chức. Nhân lực của một tổ chức
được hiểu là tổng thể những tiềm năng lao động của các thành viên phù hợp
với kế hoạch và chiến lược phát triển của tổ chức trong một thời kỳ nhất định.
Khái niệm “tiềm năng” ở đây là sự tổng hòa các yếu tố hoạt động về thể lực,
trí lực và tâm lực của người lao động trong một cơ cấu hợp lý đảm bảo phát
triển của tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định. Việc xem tiềm năng
lao động của con người trong các tổ chức là “nguồn nhân lực” là một cách

tiếp cận “mở”, thay thế cho quan niệm truyền thống, xem con người trong tổ
chức chỉ là “lực lượng lao động” hay “nhân sự” của tổ chức với sự nhấn mạnh
vào số lượng hiện có với những yêu cầu nhất định nhằm đáp ứng nhiệm vụ
trước mắt của tổ chức.
Tư duy mới về quản lý nguồn nhân lực (human resources management)
ra đời trong bối cảnh kinh tế thị trường phát triển với sự gia tăng cạnh tranh
địi hỏi các tổ chức phải có tầm nhìn chiến lược lâu dài và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực. Sự phát triển và năng động của thị trường lao động đã thực
sự tạo ra cơ hội việc làm cho lực lượng lao động chất lượng cao. Vì vậy, các
tổ chức, cả trong khu vực cơng và tư, đều đứng trước những thử thách lớn
trong việc thu hút, duy trì và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Xuất phát từ
những yêu cầu đó, “quản lý nguồn nhân lực” ra đời như một sự lựa chọn thay
thế quản lý nhân sự truyền thống và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với
quản lý và phát triển tổ chức.

7


Quản lý nhân sự thịnh hành vào những thập kỷ 70-80 của thế kỷ trước
với sự chú trọng các hoạt động nhằm đảm bảo số lao động cần thiết cho tổ
chức. Vì vậy, mục tiêu của quản lý nhân sự thường ngắn hạn và tập trung các
khía cạnh kỹ thuật của cung lao động như: bố trí, sử dụng, thực hiện chế độ
chính sách và giải quyết dư thừa lao động. Theo cách này, hoạt động kế hoạch
hóa nhân sự thường được thực hiện từ trên xuống và chỉ dựa vào sự ưu tiên
đối với nhu cầu của tổ chức mà gần như bỏ qua các nhu cầu phát triển của
người lao động. Cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, trong bối cảnh phát triển
như vũ bão của kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và hội nhập, quản lý nguồn
nhân lực ra đời với sự chú trọng cao độ đến quyền lợi, giá trị và tâm tư
nguyện vọng của người lao động nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa quyền lợi của
người lao động với nhu cầu phát triển của tổ chức. Đó là sự lựa chọn mới của

các tổ chức ở cả khu vực công và tư của nhiều nước. Khác với quản lý nhân
sự truyền thống, quản lý nguồn nhân lực địi hỏi một q trình từ dưới lên với
sự chú trọng vào những cam kết của người lao động trong việc thực hiện các
chiến lược của tổ chức thông qua việc mở rộng và tăng cường sự tham gia của
họ vào quá trình hình thành và thực hiện các mục tiêu phát triển của tổ chức.
Vì vậy, quản lý nguồn nhân lực được xem là một sự thay đổi lớn trong quản
lý khi lồng ghép các hoạt động kế hoạch hóa nguồn nhân lực với kế hoạch
phát triển của tổ chức.
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất
lượng phát triển bền vững của mỗi tổ chức nói riêng và của mỗi quốc gia nói
chung. Trong đó, nguồn nhân lực khoa học có vai trị to lớn trong q trình
phát triển của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực khoa học và quản lý
nguồn nhân lực này đang từng bước được các cấp uỷ và các ban lãnh đạo
quan tâm đầu tư với những hình thức và phương pháp phù hợp; những biện
pháp vừa mang tính tổng thể lại vừa phải chi tiết, cụ thể, nhằm đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ mới của Học viện.

8


Để đánh giá được thực trạng nhân lực khoa học cũng như công tác quản
lý nguồn nhân lực này, cần làm rõ một số khái niệm có liên quan.
Nhân lực khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh về thực chất, đó là đội ngũ cán bộ khoa học, gồm những người làm
công tác nghiên cứu và giảng dạy ở các đơn vị, kể cả những người đang làm
công tác quản lý ở các đơn vị chức năng có kiêm nhiệm cơng tác nghiên cứu,
giảng dạy. Ở đây, cần nhấn mạnh một số điểm:
Một là, ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cán bộ
khoa học đồng thời tác nghiệp với hai tư cách: là nhà sư phạm khi người đó

làm công tác giảng dạy ở các hệ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; là người nghiên
cứu khoa học. Thật khó mà tách bạch hai tư cách này ở trong một con người
đó. Trên thực tế, thật khó chỉ ra một cán bộ giảng dạy mà lại không đồng thời
là người nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học, là chức năng, là nhiệm vụ của cán bộ giảng dạy
thông qua nghiên cứu khoa học để phục vụ cho giảng dạy - những vấn đề lý
luận và thực tiễn đưa vào bài giảng. Nhiệm vụ giảng dạy ở Học viện đòi hỏi
yêu cầu cao, phù hợp với đối tượng giảng dạy, cho nên, người cán bộ giảng
dạy phải kết hợp với nghiên cứu khoa học. Thực tế, trong nhiều năm qua ở
Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, khơng ít cán bộ vừa là
cán bộ chủ chốt trong giảng dạy lại vừa có năng lực nghiên cứu khoa học.
Trên thực tế những cán bộ nghiên cứu khoa học có năng lực còn phải dành
thời gian giảng dạy các lớp tại Trung tâm Học viện và các lớp tại chức ở các
địa phương. Đồng thời, có nhiều lúc, Giám đốc Học viện yêu cầu cán bộ phải
dành nhiều thời gian cho việc hoàn thành các đề tài khoa học, nhất là nghiên
cứu, biên soạn chương trình, giáo trình, nhưng trên thực tế khá nhiều đề tài,
chương trình, giáo trình ở nhiều đơn vị chưa được thực hiện đúng thời gian
quy định. Bởi vì nhiệm vụ giảng dạy ở các hệ lớp của nhiều đơn vị rất nặng
nề, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của cán bộ khoa học.
Hai là, không phải tất cả cán bộ nghiên cứu khoa học đều là cán bộ
giảng dạy. Do đặc thù của đối tượng đào tạo, cán bộ khoa học khi được tuyển
9


dụng chưa thể đảm nhiệm công tác giảng dạy, được xếp vào ngạch nghiên
cứu viên. Trong số đó, một số cán bộ có năng lực nghiên cứu nhưng do nhiều
yếu tố khác đảm nhiệm công tác giảng dạy. Sau một thời gian nghiên cứu, hội
đủ điều kiện đã được phân công giảng dạy và chuyển sang ngạch giảng viên.
Ba là, trong các viện (kể cả Viện Thông tin khoa học - nay là Trung
tâm Thông tin khoa học), các tạp chí và các Học viện trực thuộc, có một số

cán bộ làm công tác tư liệu, dịch thuật, biên tập. Sự phân biệt những cán bộ
này với cán bộ nghiên cứu khoa học còn chưa thật sự rạch ròi và cịn mang
tính tương đối. Những cán bộ này được xếp ngạch nghiên cứu viên và họ
cũng được quyền đăng ký nghiên cứu các đề tài khoa học.
Bốn là, một số cán bộ khoa học đang làm công tác quản lý là cấp
trưởng hay cấp phó đơn vị; trưởng, phó phịng hay các chun viên. Phần
đơng các đồng chí này có học vị thạc sĩ, tiến sĩ hoặc chức danh khoa học giáo
sư, phó giáo sư. Các cán bộ quản lý này ở các đơn vị chức năng, vốn là cán bộ
khoa học ở các đơn vị nghiên cứu, giảng dạy chuyển sang do yêu cầu công tác
của Học viện. Số cán bộ này là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy kiêm nhiệm.
Thực tế, khi chuyển sang làm công tác quản lý thì họ vẫn giữ ngạch cơng
chức cũ (nghiên cứu viên, giảng viên). Họ được xét tuyển làm chủ nhiệm đề
tài khoa học các cấp, từ cấp nhà nước đến cấp cơ sở. Số cán bộ này bao gồm
các đồng chí Giám đốc, Phó Giám đốc Học viện Chính trị-Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, các Học viện Chính trị-Hành chính khu vực và phần lớn
cấp trưởng, cấp phó của các đơn vị chức năng.
Điều đó cho thấy tính phong phú, đan xen của cán bộ khoa học và cơ
cấu đa dạng của đội ngũ cán bộ khoa học ở Học viện. Đó cũng là một đặc
điểm rất đặc thù của nhân lực khoa học ở Học viện cần được lưu ý trong công
tác quản lý.
- Quản lý nhân lực khoa học.
Quản lý cán bộ, đó là hoạt động có mục đích, tác động có định hướng
thường xun và chủ động của chủ thể quản lý đối với đối tượng bị quản lý
nhằm bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, phát huy khả năng, thế mạnh của cả đội
10


ngũ cán bộ và từng cán bộ, làm cho bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ không
ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong từng
giai đoạn. Trong đó, chủ thể quản lý là những tổ chức và cá nhân có trách

nhiệm trong công tác quản lý cán bộ, là các tổ chức đảng từ trung ương xuống
đến cơ sở, cụ thể: Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp
ủy đảng các cấp, đảng đoàn, ban cán sự đảng, lãnh đạo các ban và cơ quan
trực thuộc Trung ương. Những cá nhân có trách nhiệm trong cơng tác quản lý
cán bộ bao gồm: người đứng đầu các tổ chức đảng và thành viên trong các cơ
quan lãnh đạo của tổ chức đảng, người đứng đầu các cơ quan đơn vị, địa
phương trực tiếp sử dụng đội ngũ cán bộ thuộc quyền. Tổ chức và cá nhân
đều là chủ thể quản lý trong mối quan hệ biện chứng, song vẫn có sự khác
biệt rõ rệt, đó là: tổ chức có quyền quyết định những nội dung quản lý, đánh
giá chất lượng quản lý, cá nhân đóng vai trị tham mưu, đề xuất và tổ chức
thực hiện quản lý, chịu trách nhiệm trước tổ chức về quản lý cán bộ.
Quản lý được hiểu là: "Trơng coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất
định. Tổ chức và điều khiển theo những yêu cầu nhất định".
Quản lý nhân lực khoa học về thực chất là quản lý một loại cán bộ của
Đảng - cán bộ khoa học thuộc đội ngũ trí thức của đất nước, đây là hoạt động
chủ động thường xun có mục đích của các cơ quan chức năng có thẩm
quyền, tác động có định hướng vào đội ngũ cán bộ và từng cán bộ nhằm bồi
dưỡng, rèn luyện và phát huy khả năng của cả đội ngũ cũng như từng cán bộ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, chủ thể quản
lý nhân lực khoa học là Ban Giám đốc, Đảng ủy Học viện (mới thành lập),
Ban Giám đốc, Đảng ủy các Học viện trực thuộc, Lãnh đạo và cấp uỷ của các
đơn vị... quản lý nhân lực khoa học theo phân cấp quản lý cán bộ đã được quy
định; đối tượng của quản lý nhân lực khoa học chính là đội ngũ cán bộ cơng
chức, viên chức thuộc các đơn vị nghiên cứu giảng dạy, các đơn vị chức năng
có trình độ đại học trở lên tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

11



Nội dung quản lý: Theo Quyết định 49-QĐ/TW ngày 3-5-1999 và
Quyết định 67-QĐ/TW ngày 4-7-2007 của Bộ Chính trị, quản lý cán bộ nói
chung và quản lý nhân lực khoa học ở Học viên nói riêng bao gồm:
1. Tuyển chọn, bố trí, phân cơng, điều động và ln chuyển cán bộ,
phân cấp quản lý cán bộ.
2. Đánh giá cán bộ
3. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
4. Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ
5. Khen thưởng, kỷ luật cán bộ
6. Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
7. Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
cán bộ
Về nguyên tắc quản lý nhân lực khoa học cũng phải tuân thủ, vận dụng
đúng quan điểm của Đảng, quy định của Nhà nước về quản lý đội ngũ cán bộ,
cụ thể:
Một là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu
các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế,
quy định về công tác cán bộ, thông qua các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên
trong các cơ quan nhà nước, mặt trận, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, các đơn
vị sự nghiệp để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện các quyết định
của Đảng về cán bộ, công tác cán bộ.
- Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức của hệ thống chính
trị trên mọi lĩnh vực. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp các ngành, đi đôi với việc phát huy trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
- Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho cấp ủy và tổ chức đảng,
đồng thời kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp.


12


Hai là, Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi
với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ.
- Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương, chính sách cán bộ phải
do tập thể cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số.
- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan đơn vị có trách nhiệm
đề xuất và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác
cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
- Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, tập thể quyết định về cán bộ
nhưng phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.
- Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết
định của cấp ủy, tổ chức đảng, cấp ủy cấp dưới phải chấp hành quyết định của
cấp ủy cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.
Từ những vấn đề chung về quản lý cán bộ, công tác quản lý nhân lực
khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh được hiểu
là hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, Đảng
ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Học viện thơng qua các quy định, quy
chế, chính sách.. của Đảng, Nhà nước và của Học viện nhằm phát huy mạnh
mẽ khả năng của đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, đồng thời tăng cường
trách nhiệm, thẩm quyền của các tổ chức đảng, của các cơ quan quản lý cán
bộ.
Công tác quản lý nhân lực khoa học địi hỏi tính tồn diện, quản lý cả
chun mơn, nghiệp vụ, theo chức trách, theo ngạch công chức, quản lý hành
chính về thời gian làm việc, chấp hành đầy đủ các quy định của Học viện.
Phương thức quản lý (cách quản lý) cũng rất phong phú: bằng phương thức
trực tiếp; bằng thông qua các đơn vị tham mưu, giúp việc (mà rõ nhất là cơ
quan tổ chức - cán bộ và cơ quan quản lý khoa học); bằng hồ sơ giấy tờ; bằng
đánh giá từng đợt, hằng năm, 5 năm…; bằng chế độ báo cáo; bằng quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, nâng ngạch, bậc công chức, v.v.

13


Hai là, Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi
với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ.
- Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương, chính sách cán bộ phải
do tập thể cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số.
- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan đơn vị có trách nhiệm
đề xuất và tổ chức thực hiện các quyết định của tập thể về cán bộ và công tác
cán bộ trong lĩnh vực được phân công phụ trách.
- Cá nhân đề xuất, cơ quan thẩm định, tập thể quyết định về cán bộ
nhưng phải chịu trách nhiệm về đề xuất, thẩm định, quyết định của mình.
- Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết
định của cấp ủy, tổ chức đảng, cấp ủy cấp dưới phải chấp hành quyết định của
cấp ủy cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.
Từ những vấn đề chung về quản lý cán bộ, công tác quản lý nhân lực
khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh được hiểu
là hoạt động lãnh đạo, quản lý của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện, Đảng
ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Học viện thơng qua các quy định, quy
chế, chính sách.. của Đảng, Nhà nước và của Học viện nhằm phát huy mạnh
mẽ khả năng của đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, đồng thời tăng cường
trách nhiệm, thẩm quyền của các tổ chức đảng, của các cơ quan quản lý cán
bộ.
Công tác quản lý nhân lực khoa học địi hỏi tính tồn diện, quản lý cả
chun mơn, nghiệp vụ, theo chức trách, theo ngạch công chức, quản lý hành
chính về thời gian làm việc, chấp hành đầy đủ các quy định của Học viện.
Phương thức quản lý (cách quản lý) cũng rất phong phú: bằng phương thức
trực tiếp; bằng thông qua các đơn vị tham mưu, giúp việc (mà rõ nhất là cơ

quan tổ chức - cán bộ và cơ quan quản lý khoa học); bằng hồ sơ giấy tờ; bằng
đánh giá từng đợt, hằng năm, 5 năm…; bằng chế độ báo cáo; bằng quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, nâng ngạch, bậc công chức, v.v.

13


1.1.2. Yêu cầu khách quan về đổi mới quản lý nhân lực khoa học ở
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của bất cứ quốc gia, dân tộc nào
trên thế giới cũng đều chịu sự chi phối, tác động ở những mức độ khác nhau
của tình hình thế giới. Bởi vậy, trong chiến lược phát triển của mình, các
nước, thậm chí tất cả các ngành sản xuất, các tập đoàn kinh tế, các cơ quan
khoa học ở mỗi nước đều phải tính đến những nhân tố tác động cả bên trong
và bên ngoài, những điều kiện chủ quan và khách quan.
Là một trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, trung tâm quốc
gia về nghiên cứu lý luận chính trị, hành chính, cung cấp những luận cứ cho
việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cũng phải coi trọng và
chú ý đến tác động của những yếu tố sau đây:
Biến đổi của tình hình thế giới và cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều biến động, chứa đựng cả thời cơ và thách thức. Đại hội X của Đảng
nhận định: Trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng,
thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt. Gần đây
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước tư bản, nhất là ở các nước tư

bản phát triển, tác động mạnh đến nước ta.
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng, xu thế hồ bình, hợp tác tiếp tục giữ vai trị chủ đạo, nhưng ln tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển
đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một
số nước có tác động, ảnh hưởng tới nhiều quốc gia... trong đó có Việt Nam.

14


Hiện tại, CNXH đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn, phong trào
XHCN thế giới chưa vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng sau sự kiện xảy ra ở
các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô trong thế kỷ trước. “Tuy nhiên, trên thế
giới hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn”. Điều này đã được Đại
hội X của Đảng khẳng định. Đi lên CNXH vẫn là một xu thế vận động tất yếu
của lịch sử nhân loại. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình cải cách,
đổi mới ở các nước XHCN, các đảng cánh tả ở nhiều nước có bước phát triển,
đặc biệt ở khu vực Mỹ la-tinh càng khẳng định xu hướng tất yếu đó.
Một trong những điểm nổi bật của tình hình thế giới hiện nay tác động
mạnh mẽ đến việc xây dựng và quản lý nguồn nhân lực khoa là sự phát triển
như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên nhiều lĩnh vực.
Khoa học công nghệ phát triển, con người được tách dần ra khỏi q trình sản
xuất trực tiếp. Trí năng - năng lực trí tuệ của con người đã trở thành nguồn
năng lượng mới cho quá trình sản xuất vật chất. Trong quá trình biến đổi đó,
đã hình thành những người lao động kiểu mới, có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
năng lực tồn diện. Q trình tồn cầu hóa cơng nghệ thơng tin (nối mạng Intơ-nét tồn cầu) là một kỳ tích vĩ đại trước đây chưa bao giờ con người có
được, đang góp phần quan trọng gắn liền các nước, các dân tộc trên thế giới,
thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập tồn cầu - một xu thế phát triển mới của
thời đại. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế, thơng qua nối mạng In-tơ-nét
tồn cầu, đang đặt ra nhiều thách thức mới, đặc biệt là lĩnh vực an ninh quốc

gia, bao gồm: an ninh quân sự; an ninh kinh tế; an ninh chính trị, tư tưởng; an
ninh xã hội; an ninh về chủ quyền độc lập quốc gia và cả an ninh về quyền tự
do cá nhân của mỗi con người.
Để khoa học phát triển đúng hướng, phục vụ đắc lực lồi người nói
chung, mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng địi hỏi phải có sự quản lý tốt các
nguồn lực, trong đó quản lý nguồn nhân lực khoa học có vai trị quyết định.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Học viện cần đổi mới
việc xây dựng và phát huy nguồn nhân lực khoa học nghiên cứu, nắm bắt tình
hình thế giới và thành tựu của khoa học công nghệ, ứng dụng những thành tựu
15


khoa học và công nghệ của thời đại, những lý thuyết mới tiến bộ nhằm thực
hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó.
Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh CNH, HĐH,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đơ thị hố, hiện
đại hố kết cấu hạ tầng diễn ra khá nhanh và mạnh, tạo bước phát triển và
diện mạo mới cho nhiều vùng, miền của đất nước. Việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đồn kết tồn dân tộc được phát huy.
Trình độ dân trí ngày càng được nâng lên, đời sống của các tầng lớp nhân dân
được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta tăng trưởng chưa tương xứng với khả
năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hố - xã hội chậm đổi
mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt, đời sống nhân dân
ở nhiều nơi cịn nghèo gặp nhiều khó khăn, số hộ nghèo cịn nhiều, nhất là ở
vùng sâu, vùng xa.

Trình độ đội ngũ cán bộ lý luận còn những mặt bất cập so với yêu cầu
mới, thiếu nhiều chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực trọng yếu, đội
ngũ cán bộ giảng dạy các bộ môn khoa học Mác-Lênin vừa thiếu lại vừa yếu,
trong giảng dạy nặng về lý thuyết, thiếu thực tiễn, chưa gắn học lý luận với
giáo dục đạo đức, giáo dục tồn diện cho người học. Cơng tác lãnh đạo, quản
lý các hoạt động lý luận còn nhiều bất cập, quy chế dân chủ chưa được thực
hiện tốt, cơ chế, chính sách đối với hoạt động lý luận còn nhiều bất hợp lý làm
hạn chế sự phát triển tiềm năng nghiên cứu, sáng tạo, cũng chưa phát huy và
tập hợp đông đảo đội ngũ nghiên cứu, giảng dạy lý luận và thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu trọng tâm.
Thực tế cho thấy, trong toàn bộ nguồn kinh phí đầu tư cho nghiên cứu
khoa học thì đầu tư cho nghiên cứu lý luận chiếm tỷ lệ rất thấp. Có nhiều ý
16


kiến cho rằng, các nhà lý luận Việt Nam đa số là lý luận sách vở, ít người am
hiểu sâu sắc thực tiễn, cho nên sức khám phá của lý luận rất hạn chế.
Từ thực tiễn hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta nhận
định: muốn đất nước thốt khỏi tình trạng một nước kém phát triển, trước hết
Đảng phải thốt ra khỏi tình trạng kém phát triển về lý luận. Là trung tâm
quốc gia về đào tạo và nghiên cứu lý luận của cả nước, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có vai trị và trách nhiệm quan trọng trước
u cầu, nhiệm vụ này.
Để có thể làm sáng tỏ và giải đáp một cách thuyết phục những vấn đề
do thực tiễn đặt ra về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta và nhiều
vấn đề khác phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học lý luận có đủ
năng lực, trình độ đáp ứng u cầu của thực tiễn trong tình hình mới. Các cơ
quan khoa học, trong đó trước hết là Học viện phải đi đầu trong việc đổi mới,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học và quản lý, phát huy có hiệu
quả nguồn nhân lực khoa học này.
Yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay.
Là trung tâm quốc gia về đào tạo và bồi dưỡng lý luận của đất nước,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay có vai trị to
lớn trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ đảm đương những cương vị quan trọng
trong hệ thống chính trị và những cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị, hành
chính của Đảng và Nhà nước. Do đó, Học viện phải đi đầu, tích cực, chủ
động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ do Đảng và Nhân dân giao phó.
Học viện, phải bằng kết quả nghiên cứu khoa học góp phần tham mưu cho
Đảng và Nhà nước về chủ trương, đường lối, đào tạo cán bộ, làm chuyển biến
nhận thức, nâng cao năng lực tư duy, trình độ tổ chức thực tiễn của đội ngũ
cán bộ chủ chốt để đủ sức đảm đương nhiệm vụ, giải quyết đúng đắn những
vấn đề trọng đại của đất nước đang đặt ra.
Những năm gần đây, để thực hiện ngày càng tốt hơn những yêu cầu,
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, Học viện đã có những tìm tịi, đổi
17


mới nhất định trên cả hai lĩnh vực là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu
khoa học. Thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30-7-2005 và Quyết
định số 149-QĐ/TW, ngày 02-8-2005 của Bộ Chính trị, Học viện đã đổi mới
hệ thống chương trình đào tạo cho các đối tượng học viên; đã xây dựng xong
10 khung chương trình mới và đang triển khai viết giáo trình mới, trong đó có
Chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính cho hệ đào tạo tập trung
tại Trung tâm Học viện đang áp dụng thí điểm.
Cùng với đổi mới nội dung chương trình, Học viện đã quan tâm đổi
mới phương pháp giảng dạy, thay đổi cách học ''thầy đọc, trị ghi'', đưa người
học từ thế hồn tồn thụ động chuyển sang phương pháp giảng dạy tích cực,
lấy học viên làm trung tâm, tăng cường đối thoại ngay trong quá trình lên lớp.
Việc sử dụng các thiết bị, phương tiện tiên tiến, hiện đại vào công tác giảng
dạy đã thực hiện khá phổ biến.

Cùng với đào tạo, công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
cũng đã có những đổi mới. Nhờ vậy, những năm gần đây, Học viện đã thực
hiện thành công nhiều đề tài cấp nhà nước, đề tài cấp bộ, hàng trăm đề tài cấp
cơ sở. Học viện đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống các cơ
quan nghiên cứu khoa học của Đảng, Nhà nước. Qua nghiên cứu khoa học,
đội ngũ cán bộ khoa học có bước trưởng thành đáng kể, chất lượng đào tạo
được nâng lên.
Tuy nhiên, hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện vẫn
còn nhiều hạn chế. Chất lượng giảng dạy tuy đã được nâng lên, nhưng chưa
đáp ứng tốt yêu cầu người học và sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Số cơng trình khoa học được nghiệm thu đưa ra những dự báo, những đề xuất
có giá trị cao cho Đảng, Nhà nước cịn ít, việc áp dụng vào thực tiễn còn hạn
chế. Số đề tài nghiên cứu khoa học xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của các
ngành, các địa phương yêu cầu Học viện trợ giúp chưa nhiều. Trong bài phát
biểu khai giảng năm học 2008-2009 tại Học viện, đồng chí Trương Tấn Sang,
Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nhấn

18


mạnh 5 nội dung, yêu cầu mới trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Học
viện hiện nay:
Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung chương trình đào tạo.
Việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo của Học viện là cấp thiết,
song nội dung chương trình phải bảo đảm tính hệ thống, tính cơ bản, tính hiện
đại và tính thực tiễn.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học.
Học viện cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học nhằm
cung cấp cơ sở lý luận cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện,

các học viện khu vực, các học viện chuyên ngành và các trường chính trị tỉnh,
thành phố. Tới đây, Học viện cần tăng số lượng đề tài nghiên cứu phục vụ cho
việc hoạch định các quyết sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng
dạy và cán bộ quản lý.
Học viện cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; có chính sách sử dụng có hiệu
quả đội ngũ cán bộ hiện có, mở rộng đội ngũ cán bộ kiêm chức, mạnh dạn
mời những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các bộ, ban, ngành, địa phương tham
gia giảng dạy cho các lớp của hệ thống Học viện. Đẩy mạnh quá trình đào tạo
đội ngũ cán bộ trẻ, cả đào tạo ở trong nước và đào tạo ở nước ngoài.
Bốn là, mở rộng và làm tốt hơn nữa các hoạt động giao lưu, hợp tác
quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Qua giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận chính trị
- hành chính, chúng ta có điều kiện tìm hiểu, kế thừa có phê phán, chọn lọc
những giá trị có thể có của các lý luận chính trị - hành chính được nghiên cứu,
sáng tạo ra ở các nước trên thế giới, nhất là trong những năm gần đây.
Năm là, sắp xếp lại tổ chức bộ máy và cán bộ theo Thơng báo số 162
của Ban Bí thư và Nghị định 129 của Chính phủ.

19


Vừa qua, Ban Bí thư đã có quyết định sắp xếp lại tổ chức bộ máy Học
viện cho hợp lý, hoạt động có hiệu quả hơn. Học viện cần triển khai thực hiện
việc sắp xếp lại tổ chức và cán bộ một cách khẩn trương, giữ vững đoàn kết.
Trong năm học 2008 - 2009, Học viện cần đẩy mạnh tiến độ xây dựng Học
viện Chính trị - Hành chính khu vực IV tại Cần Thơ để có điều kiện hoạt động
tốt hơn, thuận lợi hơn.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 129/NĐ-CP ngày 17

tháng 12 năm 2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
Học viện. Theo đó, Học viện thực hiện các chức năng: đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý trung cấp, cao cấp, cơng chức hành chính, cơng chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập, thành viên
hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc
doanh nghiệp nhà nước và các đối tượng khác theo quy định của cấp có thẩm
quyền, cán bộ khoa học chính trị và hành chính của hệ thống chính trị; nghiên
cứu khoa học lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị và khoa
học hành chính.
Về nghiên cứu khoa học, bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu được quy định
trước đây, Học viện có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học hành chính và quản lý
nhà nước; tham mưu, đề xuất, tư vấn cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch
định đường lối, xây dựng chính sách, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, cải cách nền hành chính nhà nước.
1.2. Quản lý nhân lực khoa học ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh hiện nay - Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
1.2.1. Quá trình phát triển nhân lực khoa học ở Học viện từ năm
1993 đến nay
Trải qua các giai đoạn cách mạng, với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ,
công chức Học viện ngày một trưởng thành lớn mạnh. Trong lịch sử xây dựng
và trưởng thành của Học viện từ năm 1949 đến năm 1993 Học viện có hai sự
kiện lớn:
20


Một là, chuyển Học viện Nguyễn Ái Quốc thành Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, có chức năng là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà
nước, các đồn thể chính trị - xã hội, đào tạo cán bộ khoa học lý luận.

Hai là, Học viện có một Trung tâm và bốn Phân viện (Quyết định số
61/QĐ-TW của Bộ Chính trị ngày 10/3/1993).
Theo các Quyết định trên, Trung tâm Học viện có 11 Khoa,1 Viện, 1
Trung tâm, 5 Vụ, 1 Tạp chí, 1 tổ Bộ môn ngoại ngữ.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy được tăng thêm về số lượng và
chất lượng ngày càng được nâng lên cả về trình độ khoa học và học hàm, học
vị. Đội ngũ cán bộ khoa học ở thời điểm năm 1993 đã có 25 đồng chí có chức
danh GS và PGS, 38 PTS, một số đồng chí trẻ được bổ sung trên cơ sở tuyển
chọn chặt chẽ từ các lớp chuyên tu, nghiên cứu sinh ở Học viện, cộng với một
số đồng chí tốt nghiệp loại giỏi các ngành lý luận ở nước ngoài bổ sung cho
đội ngũ cán bộ nghiên cứu giảng dạy.
Để nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và gắn cơng tác nghiên cứu khoa học lý luận với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ngày 30/10/1996 Bộ Chính trị đã ra Quyết định số
07-QĐ/TW "Hợp nhất Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh lấy tên là Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh". Thực hiện sự hợp nhất hai cơ quan,
Học viện đã khẩn trương sắp xếp ổn định về tổ chức bộ máy và biên chế cán
bộ, công chức. Các đơn vị chức năng như các Vụ, Văn phòng của hai cơ quan
nhanh chóng thống nhất về tổ chức. Các Viện nghiên cứu của Viện nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh hợp nhất với các Khoa
của Học viện thành đơn vị mới là các Viện với chức năng nhiệm vụ giảng dạy
và nghiên cứu khoa học. Bộ máy của Trung tâm Học viện gồm có 34 đơn vị
trực thuộc Ban Giám đốc.
Ngày 20 tháng 10 năm 1999 Bộ Chính trị có Quyết định số 67-QĐ/TW
về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia
21


Hồ Chí Minh. Học viện trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và

Chính phủ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, là trung tâm quốc gia
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt trung cao cấp,
cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính
trị - xã hội; là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, nghiên cứu về khoa học chính trị đồng thời góp phần vào phát triển lý
luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tiếp theo Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30-7-2005 về đổi mới, nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định
149-QĐ/TW, ngày 02 tháng 8 năm 2005 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Điều 3 Quyết định 100,
quy định cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 32 đơn
vị trực thuộc Ban Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh trong đó có 5 Học viện Chính trị khu vực và chuyên ngành.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khố X về về đổi mới, kiện tồn tổ
chức bộ máy các cơ quan đảng và cơ quan nhà nước ngày 22-10-2007, Bộ
Chính trị ban hành Quyết định số 100-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy của Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, trong
đó, thực hiện chủ trương hợp nhất Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
và Học viện Hành chính quốc gia thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.
Ngày 17/12/2008, Nghị định số 129/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học
viện Hành chính quốc gia và các cơ quan có liên quan đã tiến hành các bước
hợp nhất dưới sự chỉ đạo của cấp trên. Cơ cấu Bộ máy tổ chức của Học viên
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh bao gồm: 29 đầu mối trực thuộc
22



Ban Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính gồm: 6 Học viện trực thuộc
trong đó có 4 Học viện Chính trị - Hành chính khu vực và 02 Học viện
chuyên ngành, 6 Vụ chức năng, 12 Viện nghiên cứu giảng dạy, 01 Ban Thanh
tra, 01 Tạp chí Lý luận chính trị, 01 Trung tâm Thơng tin khoa học, 01 Nhà
Xuất bản Chính trị - Hành chính và Văn phịng Học viện.
Theo Nghị định nêu trên, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
Chính phủ, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư và Thủ tướng Chính phủ. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh thực hiện các chức năng: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý trung cấp, cao cấp, cơng chức hành chính, cơng chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập, thành viên hội đồng quản trị,
tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp nhà
nước và các đối tượng khác theo quy định của cấp có thẩm quyền, cán bộ
khoa học chính trị và hành chính của hệ thống chính trị; nghiên cứu khoa học
lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, các khoa học chính trị và khoa học hành
chính.
Tính đến tháng 1 năm 2009, tổng số cán bộ, công chức, viên chức và
lao động hợp đồng của Học viện là 2672 người, trong đó có 1162 nam và
1510 nữ. Đội ngũ cán bộ khoa học của toàn Học viện có 1810 người, trong đó
có: 09 giáo sư tiến sĩ; 110 phó giáo sư, tiến sĩ, 390 tiến sĩ; 690 thạc sĩ và 611
cử nhân.
Tổng số cán bộ công chức, viên chức trong biên chế của Trung tâm
Học viện là 788 người, trong đó có 372 người là nữ, tổng số cán bộ khoa học
là 477 người, chiếm 60,53%. Xét về trình độ, số cán bộ khoa học có trình độ
từ thạc sĩ trở lên là 407 người, chiếm 85,32% tổng số cán bộ khoa học; trong
đó có 8 giáo sư, tiến sĩ; 65 phó giáo sư, tiến sĩ (trong đó có 9 nữ); cán bộ khoa

học có học vị tiến sĩ là 173 người, chiếm 36,26% (trong đó có 39 nữ); cán bộ
khoa học có học vị thạc sĩ là 161 người, chiếm 33,75% (trong đó có 77 nữ);
23


cán bộ khoa học có trình độ đại học là 70 người, chiếm 14,67 % (trong đó có
47 nữ) trong tổng số cán bộ khoa học của Trung tâm Học viện.
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng của sáu
Học viện trực thuộc là 1884 người, trong đó có 1356 biên chế và 528 lao động
hợp đồng; có 746 nam, chiếm 39,59%; có 832 nữ, chiếm 60,41%. Đội ngũ
cán bộ khoa học có 1333 người, chiếm tỷ lệ 70,75 tổng số cán bộ, công chức,
viên chức, trong đó có: 01 giáo sư, tiến sĩ; 45 phó giáo sư, tiến sĩ; 217 tiến sĩ,
529 thạc sĩ, 541 cử nhân. Cơ cấu ngạch viên chức của các Học viện trực thuộc
như sau: có 33 giảng viên cao cấp, 292 giảng viên chính, 497 giảng viên; 01
nghiên cứu viên cao cấp, 10 nghiên cứu viên chính và 88 nghiên cứu viên.
Với một đội ngũ cán bộ như trên, về số lượng có thể nói là mỏng so với
vị trí của Học viện, một trung tâm đào tạo và nghiên cứu lý luận lớn nhất của
Đảng và Nhà nước. Song, đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện có những
mặt mạnh rất cơ bản, cụ thể là:
- Tuyệt đại đa số cán bộ khoa học ở Học viện có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tuyệt đối trung thành với quan điểm và lý tưởng của Đảng, có tâm huyết
với nghề nghiệp. Nhiều đồng chí có năng lực tốt cả về giảng dạy và nghiên
cứu khoa học, có trách nhiệm với sự nghiệp chung của Đảng và nhân dân.
- Tuyệt đại đa số cán bộ khoa học chủ chốt của Học viện là những
người đã được đào tạo, lựa chọn, có q trình thử thách trong hoạt động thực
tiễn cách mạng và trong giảng dạy, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng. Ở tuổi 40 trở lên, nhiều đồng
chí được đào tạo cơ bản đã nhanh chóng tiếp cận được các vấn đề kinh tế - xã
hội của đất nước, có cách luận giải và trình bày một cách khoa học về những
vấn đề thực tiễn đặt ra. Hiện nay, Học viện cịn có một đội ngũ cán bộ khoa

học trẻ mới được tuyển dụng và đang trong quá trình đào tạo giàu tiềm năng,
nếu được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện chắc chắn sẽ phát huy tốt
vai trò trong tương lai.

24


×