Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu khoa học " KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG CỦA GIỔI XANH VÀ RE GỪNG TRÊN CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.68 MB, 6 trang )

KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG CỦA GIỔI XANH VÀ RE GỪNG TRÊN CÁC MÔ HÌNH RỪNG
TRỒNG

Nguyễn Đức Kiên, Ngô Văn Chính
Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt nam

TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các phương thức trồng rừng phù hợp cho trồng rừng Giổi xanh
và Re gừng ở Việt Nam. Nghiên cứu được tiến hành trên các thí nghiệm và mô hình lâm sinh của hai
loài cây này tại Phú Thọ, Thanh Hóa và Gia Lai. Kết quả đánh giá cho thấy ở giai đoạn 6 – 10 tuổi
không có sự khác biệt về sinh trưởng của Giổi xanh và Re gừng giữa hai phương thức trồng thuần loài
và hỗn loài với các loài cây bản địa hoặc cây mọc nhanh. Re gừng có sinh trưởng kém trong các mô
hình trồng hỗn giao theo hàng với Keo tai tượng hoặc hỗn giao theo cây trên hàng với Sồi phảng do bị
chèn ép mạnh. Trong phương thức trồng hỗn giao theo băng với Keo tai tượng với kích thước băng
chặt/băng chừa khác nhau cho thấy Sinh trưởng của Giổi xanh và Re gừng ở giai đoạn 6 tuổi ở băng
chặt/băng chừa theo tỷ lệ 20m/20m tốt hơn rõ rệt ở băng chặt/băng chừa theo theo tỷ lệ 10m/10m. Các
kết quả đánh giá góp phần bổ sung cơ sở khoa học cho trồng rừng kinh tế của hai loài cây này.
Từ khóa: Giổi xanh, Re gừng, Thuần loài, Hỗn loài

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, các nước nhiệt đới đặc biệt là các nước ở vùng Đông Nam Á và Mỹ
Latinh dành nhiều quan tâm đến việc sử dụng cây bản địa cho trồng rừng cung cấp gỗ và các sản
phẩm khác. Ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu sử dụng các loại gỗ lớn cho làm đồ mộc phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu là rất cao. Đồng thời, việc sử dụng các loài cây bản địa vào trồng rừng để
cung cấp gỗ cũng đang được quan tâm rất nhiều.
Giổi xanh (Michelia mediocris Dandy) và Re gừng (Cinnamomum obtusifolium (Roxb) Nees) là
hai loài cây cung cấp gỗ lớn, có giá trị kinh tế cao, có sinh trưởng khá nhanh và có phạm vi phân bố
rộng ở Việt Nam. Chính vì vậy đã có một số nghiên cứu về đặc tính sinh vật học, sinh thái học và các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho trồng rừng của hai loài cây này. Cho đến nay, một số thí nghiệm các
biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho hai loài cây này đã được thực hiện. (Hoàng Văn Thắng, 2005; Võ Đại


Hải và cộng sự, 2006). Tuy nhiên, các thí nghiệm này mới chỉ được đánh giá ở giai đoạn tuổi nhỏ (3-4
tuổi). Để có thể rút ra những kết luận khoa học về ảnh hưởng của các phương thức và biện pháp kỹ
thuật lâm sinh đến sinh trưởng của các loài cây nghiên cứu, cần có những nghiên cứu đánh giá ở giai
đoạn tuổi lớn hơn.
Trong khuôn khổ của đề tài “Nghiên cứu chọn, nhân giống và kỹ thuật gây trồng Giổi xanh và
Re gừng”, chúng tôi đã tiến hành đánh giá sinh trưởng của Giổi xanh và Re gừng trong các mô hình đã
được xây dựng, từ đó đề xuất các phương thức và biện pháp lâm sinh phù hợp cho hai loài cây này.

VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiên cứu
Qua điều tra thống kê các mô hình Giổi xanh và Re gừng đã xây dựng, chúng tôi đã tiến hành
thu thập số liệu trên các thí nghiệm và mô hình tại các địa điểm Trạm Thực nghiệm Kon Hà Nừng (Gia
Lai), Xí nghiệp nguyên liệu giấy Ngọc Lặc (Thanh Hoá), Trung tâm Thực nghiệm Lâm sinh Cầu Hai
(Phú Thọ) và vườn quốc gia Xuân Sơn.

2


Phương pháp nghiên cứu
Năm 2008, chúng tôi đã tiến hành thu thập số liệu về các chỉ tiêu sinh trưởng của các mô hình.
Đường kính ngang ngực (D1.3) được đo bằng thước dây đo đường kính, chiều cao vút ngọn (Hvn)
được đo bằng thước đo cao. Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel 2003.

Bảng 1. Các thí nghiệm và mô hình rừng trồng Giổi xanh và Re gừng đã thu thập số liệu
Loài cây Địa điểm Tuổi Phương thức trồng
Ngọc Lặc 6 Trồng thuần loài theo băng, băng chặt/chừa 10/10m và
20/20m, cự ly trồng: 3 m x 3 m
Xuân Sơn 9 Trồng thuần loài theo đám không có cây phù trợ, mật độ
trung bình 440 cây/ha
Kon Hà Nừng 20 Trồng làm giàu dưới tán rừng tự nhiên, phát rạch 5 m,

trồng 1 hàng, cây cách cây 2 m
Giổi xanh
Kon Hà Nừng 3 Trồng hỗn giao theo hàng với Giổi nhung theo tỷ lệ 1 hàng
Giổi xanh + 2 hàng Giổi nhung, cự ly trồng: 3 m x2 m
Ngọc Lặc 6 Trồng thuần loài theo băng, băng chặt/băng chừa 10/10m
và 20/20m, cự ly trồng : 3 x 3 m
Ngọc Lặc 6 Re gừng trồng hỗn giao theo hàng với Lim xanh và Trám
trắng, không có cây phù trợ, cự ly trồng: 3 m x 3 m
Ngọc Lặc 6 Trồng thuần loài theo ô không có cây phù trợ
Cầu Hai 6 Trồng hỗn giao với Sồi phảng, Vạng trứng và Trám trắng
theo cây trên hàng, giữa 2 hàng bản địa xen 1 hàng cốt khí,
cự ly trồng: 4 m x 2 m
Cầu Hai 6 Trồng hỗn giao với Sồi phảng, Vạng trứng và Trám trắng
theo cây trên hàng, 2 hàng bản địa + 1 hàng Keo tai tượng,
cự ly trồng: 4 m x 2 m
Re gừng
Cầu Hai 6 Re gừng trồng hỗn giao với Sồi phảng, Vạng trứng và Trám
trắng theo cây trên hàng, 1 hàng bản địa + 1 hàng Keo tai
tượng, cự ly trồng: 4 m x 2 m

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả đánh giá cây Giổi xanh
Kết quả ở bảng 2 cho thấy Giổi xanh là loài cây sinh trưởng tương đối nhanh, tăng trưởng bình
quân chung về đường kính đạt 1,0 - 1,9 m/năm và chiều cao là 1,0 - 1,4m/năm. Kết quả này cũng phù
hợp với các đánh giá trước đây theo đó sinh trưởng của Giổi xanh ở giai đoạn dưới 10 tuổi có tăng
trưởng trung bình đạt 1,1cm đường kính và 1,0m chiều cao (Hoàng Văn Thắng, 2005).
Tại Ngọc Lặc ở cùng tuổi 6, Giổi xanh trồng thuần theo băng dưới tán keo tai tượng có sinh
trưởng nhanh, trong đó mô hình trồng theo băng rộng 2 m có sinh trưởng tốt hơn mô hình trồng theo
băng rộng 10m. Kết quả đánh giá sinh trưởng của Giổi xanh trong hai công thức băng chặt băng chừa


3

cho thấy ở giai đoạn 6 tuổi, sinh trưởng của Giổi xanh ở băng chặt rộng 20m có sinh trưởng đường
kính (D1,3 = 11,2cm) nhanh hơn rõ rệt so với sinh trưởng của Giổi xanh ở băng chặt rộng 10m (D1,3 =
8,2m) (Fpr <0.01). Kết quả đánh giá ở giai đoạn 3 năm tuổi (Hoàng Văn Thắng, 2005) cho thấy không
có sự sai khác rõ rệt về sinh trưởng của Giổi xanh ở các băng chặt băng chừa có độ rộng khác nhau.
Điều này cho thấy ở giai đoạn sau 3 tuổi, Giổi xanh có yêu cầu rất lớn về ánh sáng, do đó tùy theo độ
cao của cây phù trợ mà có độ rộng của băng chặt băng chừa phù hợp.
Kết quả đánh giá mô hình trồng Giổi xanh thuần loài theo đám tại vườn quốc gia Xuân Sơn cho
thấy rừng trồng Giổi xanh thuần loài không có cây phù trợ tại đây có sinh trưởng khá tốt với lượng tăng
trưởng bình quân hàng năm đạt 1,7cm đường kính và 1,3m chiều cao. Nghiên cứu của Nguyễn Bá
Chất (số liệu không công bố) trên các mô hình trồng Giổi xanh thuần loài không có cây phù trợ tại một
số điểm ở miền Bắc Việt Nam có lượng tăng trưởng bình quân hàng năm về đường kính đạt khoảng
1,0cm tương đương với lượng tăng trưởng bình quân của Giổi xanh trên các mô hình hỗn giao tại các
địa điểm đó (0,96cm) (Bảng 3). Những kết quả trên cho thấy không có sự khác biệt về sinh trưởng của
Giổi xanh trồng thuần loài và trồng hỗn loài với các loài cây bản địa khác.
Tại Kon Hà Nừng, trong mô hình Giổi xanh trồng hỗn giao với Giổi nhung thì sinh trưởng của
Giổi xanh cũng khá tốt, tăng trưởng bình quân đường kính đạt 1,2cm/ năm, chiều cao đạt 1,0m/năm.
Bên cạnh đó cây trồng hỗn giao với Giổi xanh là Giổi nhung cũng có sinh trưởng rất tốt, cây 7 tuổi có
D1.3

= 9,4cm, Hvn = 8,3m, tăng trưởng về đường kính đạt 1,3cm/ năm, chiều cao đạt 1,2m/năm. Giổi
xanh trồng làm giàu theo rạch dưới tán rừng tự nhiên tại Kon Hà Nừng có đường kính và chiều cao khá
lớn (D1.3 = 20m, Hvn = 20m) nhưng tăng trưởng thấp (  D1.3 = 1,0cm/năm,  Hvn = 1,0m/năm). Với
việc mở rạch trồng ban đầu 5m cho tới thời điểm hiện tại thì tán cây của cây chừa lại đã lấn át cây
trồng xen, vì thế cây Giổi xanh đang bị cạnh tranh rất mạnh.

Bảng 2. Sinh trưởng của Giổi xanh trong các mô hình rừng trồng
Mô hình Địa điểm Tuổi D1.3
(cm)

DD1.3
(cm/năm)
Hvn
(m)
DHvn
(m/năm)
Trồng thuần theo băng, băng
chặt 20m, băng chừa 20m
Ngọc Lặc 6 11,2 1,9 8,5 1,4
Trồng thuần theo băng, băng
chặt 10m, băng chừa 10m
Ngọc Lặc 6 8,2 1,4 7,1 1,2
Trồng thuần loài theo đám Xuân Sơn 9 15,3 1,7 11,4 1,3
Trồng làm giàu dưới tán rừng
tự nhiên
Kon Hà
Nừng
20 20,0 1,0 20,0 1,0
Trồng hỗn giao theo hàng với
Giổi nhung
Kon Hà
Nừng
3 3,6 1,2 3,0 1,0






4


Bảng 3. Sinh trưởng của Giổi xanh trên một số mô hình rừng trồng
Mô hình thuần loài

Mô hình hỗn loài
Địa điểm Tuổi
D1,3
(cm)
3,1D


(cm/năm)

Địa điểm Tuổi
D1,3
(cm)
3,1D


(cm/năm)
Yên Lập 10 10,6 1,1

Trạm Thản 6 5,3 0,9
Trạm Thản 10 14,3 1,4

Yên Hương 10 10,4 1,0
Trạm Thản 10 10,6 1,1


Đoan Hùng 6 4,6 0,8



Đoan Hùng 10 11,1 1,1


Đoan Hùng 6 4 0,7


Trung bình 1,0

1,0
(Nguồn: Nguyễn Bá Chất 2003)

Kết quả đánh giá sinh trưởng của Re gừng
Kết quả đánh giá cho thấy sinh trưởng của Re gừng tại Ngọc Lặc là nơi có đất tốt, còn tính chất
đất rừng là rất tốt, sau 6 năm có đường kính trung bình đạt 13cm, chiều cao đạt 8,7m (Bảng 4). Tại Cầu
Hai trong điều kiện đất xấu hơn, sinh trưởng của Re gừng chỉ đạt 8,7cm đường kính và 7,1m chiều cao
ở giai đoạn 6 năm tuổi (Bảng 4).

Bảng 4. Sinh trưởng của Re gừng trong các mô hình rừng trồng
Mô hình Địa
điểm
Tuổi D1,3

(cm)

D1,3
(cm/năm)
Hvn
(m)


Hvn
(cm/năm)
Trồng thuần loài theo băng,
băng chặt 20m, băng keo tai
tượng để lại 20m
Ngọc
Lặc
6 14,4 2,4 8,6 1,4
Trồng thuần loài theo băng,
băng chặt 10m, băng keo tai
tượng để lại 10m
Ngọc
Lặc
6 12,2 2,0 8,0 1,3
Trồng hỗn giao theo hàng với
Lim xanh, Trám trắng
Ngọc
Lặc
6 12,5 2,1 8,9 1,5
Trồng thuần theo ô không có
cây phù trợ
Ngọc
Lặc
6 13,1 2,2 9,2 1,5
Trồng hỗn giao theo cây trên
hàng, cây phù trợ là cốt khí
Cầu
Hai
6 9,5 1,6 7,8 1,3

Trồng hỗn giao theo cây trên
hàng, 2 hàng bản địa + 1 hàng
Keo tai tượng
Cầu
Hai
6 8,4 1,4 6,9 1,2

5

Trồng hỗn giao theo cây trên
hàng, 1 hàng bản địa + 1 hàng
Keo tai tượng
Cầu
Hai
6 7,9 1,3 6,7 1,1

Kết quả đánh giá sinh trưởng của Re gừng trong hai công thức băng chặt băng chừa tại Ngọc
Lặc cho thấy ở giai đoạn 6 tuổi sinh trưởng của Re gừng ở băng chặt rộng 20m có sinh trưởng đường
kính (D1,3 = 14,4cm) nhanh hơn rõ rệt so với sinh trưởng của Re gừng ở băng chặt rộng 10m (D1,3 =
12,2m) (Fpr <0.01). Kết quả đánh giá ở giai đoạn 3 năm tuổi (Hoàng Văn Thắng, 2005) cho thấy không
có sự sai khác rõ rệt về sinh trưởng của Re gừng ở các băng chặt băng chừa có độ rộng khác nhau.
Điều này cho thấy ở giai đoạn sau 3 tuổi, Re gừng có yêu cầu rất lớn về ánh sáng, do đó tùy theo độ
cao của cây phù trợ mà có độ rộng của băng chặt băng chừa phù hợp.
Kết quả đánh giá so sánh sinh trưởng của Re gừng theo phương thức trồng thuần loài theo ô
và phương thức trồng hỗn giao theo cây trên hàng với các loài cây bản địa khác cho thấy không có sự
sai khác rõ rệt về sinh trưởng của phương thức trồng này (Fpr > 0,05). Kết quả so sánh sinh trưởng
đường kính giữa mô hình trồng theo băng chặt băng chừa rộng 20 m với mô hình trồng rừng thuần loài
theo ô cũng cho thấy có sự khác biệt khá rõ rệt giữa hai phương thức trồng này (Fpr = 0.05).
Trong các mô hình Re gừng trồng hỗn giao theo cây trên hàng tại Cầu Hai, Phú Thọ thì Re
gừng trồng hỗn giao có cây phù trợ là cốt khí có đường kính là 9,5cm và chiều cao là 7,8m, tốt hơn so

với mô hình trồng với cây phù trợ là Keo tai tượng. Mô hình trồng hỗn giao có cây phù trợ là Keo tai
tượng thì Keo tai tượng sinh trưởng nhanh hơn và vượt lên trên tán của cây trồng chính vì thế trong
thời gian tới ta có thể tiến hành chặt bỏ để tạo không gian dinh dưỡng cho cây bản địa bên dưới.
Bên cạnh đó trong các mô hình này có cây trồng hỗn giao là Sồi phảng sinh trưởng rất nhanh,
đường kính từ 13,8 - 16,4cm và chiều cao từ 9,9 - 11,5m, khoảng cách giữa các cây trên hàng ban đầu
trồng tương đối gần nhau vì thế Re gừng cũng như các loài cây trồng khác bị lấn át và sinh trưởng
kém.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Từ kết quả đánh giá ở trên, chúng tôi đưa ra một số kết luận ban đầu như sau:
- Không có sự sai khác rõ rệt về sinh trưởng của Giổi xanh và Re gừng giữa các phương thức
trồng thuần loài và hỗn loài.
- Sinh trưởng của Giổi xanh và Re gừng ở băng chặt/băng chừa theo tỷ lệ 20m/20m tốt hơn ở
băng chặt/băng chừa theo theo tỷ lệ 10m/10m.
- Trong các mô hình trồng làm giàu theo rạch dưới tán rừng tự nhiên, rạch trồng cần mở rộng
từ 10-15 m để mở rộng không gian dinh dưỡng của cây tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển
tốt hơn.
- Cần tiến hành chặt bỏ các hàng cây Keo tai tượng trồng phù trợ trong các thí nghiệm trồng
hỗn giao cây bản địa sau 6 năm để tạo điều kiện cho cây bản địa sinh trưởng và phát triển tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Võ Đại Hải, Nguyễn Xuân Quát, Trần Văn Con, Đặng Thịnh Triều, 2006. Trồng rừng sản xuất miền núi
phía Bắc, từ nghiên cứu đến phát triển. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 199 trang.
Hoàng Văn Thắng, 2005. Nghiên cứu xây dựng mô hình trồng rừng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng
bản địa trên đất rừng thoái hoá tại các tỉnh phía Bắc. Báo cáo tổng kết đề tài, Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam.


6


Results oF AN assessment of Michelia mediocris and
Cinnamomum obtusifolium in plantation models
Nguyen Đuc Kien, Ngo Van Chinh
Forest Tree Improvement Research Centre
Forest Science Institute of Vietnam
SUMMARY
The objective of the study was to determine suitable plantation establishment methods for planting
Michelia mediocris and Cinnamomum obtusifolium in Vietnam. The study was conducted in silvicultural
trials and plantations of these species in Phu Tho, Thanh Hoa and Gia Lai provinces. The results
showed non-significant differences in growth of the two species in pure stands and mixed stands either
with other native species or Acacia mangium. C. obtusifolium had poor performance in the line-mixed
stands with A. mangium or in individual-mixed stands with Lithocarpus fissus. In the band-mixed stand
with A. mangium, growth of these species in bands of 20 m wide was significantly better than those in
bands of 10 m wide. The findings from this study will contribute towards increasing knowledge for
successful plantation development of these two species.
Key words: Michelia mediocris, Cinnamomum obtusifolium, Pure stand, Mixed-stand

×