Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn truyền dạy đờn ca tài tử ở các cơ sở ngoài nhà trường tại thành phố hồ chí minh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 122 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................4
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu ................................................................................7
3.1. Mục đích ...................................................................................................7
3.2. Mục tiêu ....................................................................................................7
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu...................................................................................8
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.................................................................................8
4.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..............................................................................................8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ................................................................8
6.1. Ý nghĩa khoa học .......................................................................................8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn .......................................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn....................................................................................................9
Chƣơng 1 ......................................................................................................................... 10
CÁC KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU VÀ TỔNG QUAN TP. HỒ CHÍ MINH ................ 10
1.1. Các khái niệm liên quan đề tài ................................................................................ 10
1.1.1. Âm nhạc truyền thống ...........................................................................10
1.1.2. Đờn ca tài tử .........................................................................................12
1.1.3. Giáo dục, đào tạo ..................................................................................14
1.1.4. Truyền dạy, nghệ nhân ..........................................................................16
1.1.5. Cơ sở ngồi nhà trƣờng, thiết chế văn hóa ..............................................19
1.2. Đặc trƣng, giá trị và các dạng thức Đờn ca tài tử Nam Bộ ở Tp. Hồ Chí Minh . 22
1.2.1. Đặc trƣng, giá trị của Đờn ca tài tử .........................................................23
1.2.2. Các dạng thức Đờn ca tài tử ...................................................................29
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................................ 36



2

Chƣơng 2 ......................................................................................................................... 38
TRUYỀN DẠY ĐỜN CA TÀI TỬ TRONG BỐI CẢNH VĂN HĨA CỦA TP. HỒ CHÍ
MINH ................................................................................................................................... 38
2.1. Đơi nét về hoạt động văn hóa của Tp. Hồ Chí Minh ............................................. 38
2.1.1. Diện mạo chung của các thiết chế văn hóa ở TP.Hồ Chí Minh .................38
2.1.2. Các hoạt động nghệ thuật.......................................................................39
2.2. Sinh hoạt và truyền dạy Đờn ca tài tử ở Tp. Hồ Chí Minh ................................... 42
2.2.1. Sinh hoạt câu lạc bộ Đờn ca tài tử tại các Trung tâm văn hóa ...................42
2.2.2. Truyền dạy Đờn ca tài tử tại các thiết chế văn hóa ...................................47
2.2.3. Truyền dạy Đờn ca tài tử tại tƣ gia và các câu lạc bộ ...............................54
2.3. Những thành tựu và hạn chế từ hoạt động truyền dạy Đờn ca tài tử .................... 59
2.3.1. Những thành tựu ...................................................................................59
2.3.2. Những hạn chế ......................................................................................60
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng...................................................................62
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................................ 67
Chƣơng 3 ......................................................................................................................... 69
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRUYỀN DẠY ĐỜN CA TÀI TỬ ................ 69
3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp ..................................................................................... 69
3.1.1. Những quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về văn
hóa-nghệ thuật ....................................................................................................69
3.1.2. Nhu cầu hoạt động và thƣởng thức Đờn ca tài tử của cƣ dân TP. Hồ Chí
Minh ..................................................................................................................72
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc truyền dạy Đờn ca tài tử ............ 74
3.2.1. Nhóm giải pháp chung nhằm duy trì và phát triển Đờn ca tài tử ...............74
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả truyền dạy Đờn ca tài tử ở
các cơ sở ngoài nhà trƣờng tại TP.Hồ Chí Minh....................................................80
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................................ 87
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 93
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 99


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đờn ca tài tử Nam Bộ tuy mới ra đời vào đầu thế kỷ XX, muộn hơn rất
nhiều so với Ca trù hay Nhã nhạc cung đình Huế, nhƣng đã trở thành một bộ
phận quan trọng của nền âm nhạc truyền thống dân tộc và có vị trí vững chắc
trong tâm hồn ngƣời Việt Nam. Ngày 5 tháng 12 năm 2013, Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã chính thức
vinh danh nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là Di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại, mở ra nhiều tiềm năng, cơ hội cho sự phát triển đất nƣớc
về văn hóa và du lịch. Các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân, nghệ sĩ và ngƣời
yêu nghệ thuật Đờn ca tài tử vui mừng và tự hào bao nhiêu vì đã đƣa đƣợc
loại hình nghệ thuật truyền thống của cha ơng vào kho tàng di sản văn hóa vơ
giá của nhân loại, thì cũng lo lắng bấy nhiêu trƣớc thực trạng Đờn ca tài tử
đang bị mờ dần bản sắc, ngày càng thƣa vắng cơng chúng trẻ. Chính vì vậy,
việc bảo tồn, phát triển loại hình nghệ thuật này dựa trên quan điểm, chủ
trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về khôi phục, kế thừa có chọn lọc và truyền
dạy cho các thế hệ nối tiếp là một việc làm vô cùng cấp thiết, cần đƣợc coi
trọng hàng đầu.
Hiện nay Đờn ca tài tử đang đƣợc bảo lƣu dƣới nhiều hình thức: từ
những cá nhân riêng lẻ trong cộng đồng cƣ dân đến các ban nhóm, các câu lạc
bộ; từ mỗi gia đình đến các đội văn nghệ cấp phƣờng, huyện, thị trấn; từ
những miệt vƣờn xa xôi đến các thành phố sầm uất... Nhƣng điều khơng khó
nhận thấy là hoạt động Đờn ca tài tử đang đứng trƣớc tình trạng coi trọng số
lƣợng mà ít quan tâm đến chất lƣợng. Số nghệ nhân Đờn ca tài tử lớn tuổi

đang có chiều hƣớng mai một, trong khi những nhân tố trẻ kế thừa còn q ít,
rất dễ có nguy cơ khơng cịn ngƣời “giữ lửa” và nối nghiệp xứng đáng. Hơn


4

lúc nào hết, vấn đề truyền dạy Đờn ca tài tử, đào tạo, nuôi dƣỡng và phát triển
lực lƣợng kế thừa bộ môn nghệ thuật này cũng cần đƣợc đặt ra nhƣ một giải
pháp có tính chiến lƣợc.
Với mục đích nghiên cứu thực trạng truyền dạy Đờn ca tài tử tại các
ban, nhóm, gia đình, nhà văn hóa và câu lạc bộ; trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật truyền
thống đặc sắc này, ngƣời viết lựa chọn đề tài: “Truyền dạy Đờn ca tài tử ở
các cơ sở ngồi nhà trường tại Thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và
giải pháp” làm luận văn thạc sĩ cho chƣơng trình học cao học, do Trƣờng Đại
học Văn hóa TP.Hồ Chí Minh đào tạo.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trƣớc đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sự ra đời và phát
triển của nghệ thuật Đờn ca tài tử, nhƣ:
- Sách Hồi ký năm mươi năm mê hát của Vƣơng Hồng Sển, xuất bản năm
1968: Tác giả đề cập đến năm ra đời và nguồn gốc của nghệ thuật sân khấu
Cải lƣơng và tình hình hoạt động của các gánh hát, những câu chuyện về cuộc
đời và sự nghiệp sân khấu của các nghệ sĩ tài danh mà ông đã từng xem, từng
gặp gỡ. Cuốn sách chứa đựng nhiều tƣ liệu có giá trị cao về bối cảnh xã hội,
ngƣời nghệ sĩ và các hoạt động nghệ thuật sân khấu ở Nam Bộ vào nửa đầu
thế kỷ XX; là một tƣ liệu đầy đủ và chi tiết nhất hiện có về lịch sử hình thành
và phát triển nghệ thuật sân khấu Cải lƣơng từ những ngày đầu sơ khai đến
những năm 60 của thế kỷ XX.
- Sách Nghệ thuật sân khấu Việt Nam của Trần Văn Khải, xuất bản năm
1970, đƣợc viết thành ba chƣơng, mỗi chƣơng trình bày một thể loại nghệ

thuật sân khấu nƣớc nhà, là Hát bội, Cải lƣơng và Kịch. Chƣơng hai đề cập
đến lịch sử Cải lƣơng, những đặc điểm của Cải lƣơng, các giọng Cải lƣơng,
văn Cải lƣơng và việc soạn bài ca, âm nhạc Cải lƣơng và vị trí các nhạc khí.


5

Cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo quý về đặc điểm của các hình thức
nghệ thuật sân khấu Hát bội, Cải lƣơng và Kịch trong giai đoạn hình thành và
phát triển.
- Sách Tìm hiểu âm nhạc Cải lương của Đắc Nhẫn, xuất bản năm 1987:
cuốn sách này tác giả chủ yếu dựa vào "Cầm Ca Tân Điệu", gồm phần nhạc
do ông Lê Văn Tiến soạn và phần lời do ông Trần Phong Sắc soạn, có bổ
sung thêm và sắp xếp lại. Đây là quyển sách đầy đủ bài bản nhạc tài tử nhất;
hơn thế, còn là một quyển sách hƣớng dẫn nâng cao nhạc tài tử mẫu mực.
- Sách Tài liệu âm nhạc cung đình Việt Nam của Tơ Ngọc Thanh, xuất bản
năm 1999: cơng trình thể hiện rất nhiều tƣ liệu quý hiếm về âm nhạc cung
đình Việt Nam, cho thấy những tƣơng đồng và dị biệt của âm nhạc cung đình
Việt Nam so với các nƣớc khác, xem xét các bài bản của Nhã nhạc gồm cả
Tiểu nhạc, Đại nhạc và nhạc múa, và đặc biệt có tƣ liệu quý về Mƣời bản
Ngự…
- Luận án tiến sĩ của Mai Mỹ Duyên: Đờn ca tài tử trong đời sống văn
hóa cư dân Tây Nam Bộ năm 2007: là những tìm tịi, nghiên cứu, khảo sát và
đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc về nghệ thuật Đờn ca tài tử ở Miền
Tây Nam Bộ. Mai Mỹ Duyên cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu về Đờn ca
tài tử khác nhƣ: Giá trị văn hóa của Đờn ca tài tử Nam Bộ (tham luận Hội
thảo khoa học "Tìm hiểu đặc trƣng di sản văn hóa - văn nghệ dân gian Tây
Nam Bộ"); Về việc bảo tồn và phát huy Đờn ca tài tử Nam Bộ (Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật số 11, 2003); Quản lý văn hóa trong bảo tồn và phát huy đờn
ca tài tử Nam Bộ (Thông báo khoa học số 5 - 7, Viện Nghiên cứu Văn hóa

Nghệ thuật, 2002). Từ đờn ca tài tử đến nghệ thuật Cải lương (Tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật, số 11, 2000).
- Sách Góp phần nghiên cứu Đờn ca tài tử của Nguyễn Thị Mỹ Liêm,
xuất bản năm 2011: là một cơng trình nghiên cứu khá đầy đủ về Đờn ca tài tử,


6

giúp ngƣời đọc hiểu rõ hơn về bức tranh nghệ thuật đặc sắc của phƣơng Nam
ở cả góc độ đời sống sinh hoạt lẫn chun mơn. Tác giả đã tìm hiểu đầy đủ về
mặt nguồn gốc của bộ môn nghệ thuật Đờn ca tài tử. Ngồi ra, tác giả cịn tìm
hiểu, sƣu tầm, ghi lại tiểu sử và phác hoạ những nét đặc biệt trong đời sống
của các nghệ nhân, nghệ sĩ Đờn ca tài tử.
- Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Nghệ thuật Đờn ca tài tử và những lối hòa
đàn ngẫu hứng” do Viện Âm nhạc, Bộ VHTT&DL, Sở VHTT&DL TP.Hồ
Chí Minh phối hợp tổ chức từ 9/1/2011 đến 11/1/2011. Các tham luận khoa
học tập trung vào năm nội dung chính: Lịch sử hình thành, phát triển của nghệ
thuật Đờn ca tài tử; Những phát hiện về giá trị nghệ thuật Đờn ca tài tử qua
các góc nhìn đa diện hay chuyên sâu; Những quan niệm, khái niệm, thuật ngữ
và những vấn đề khác liên quan đến Đờn ca tài tử; Những phát hiện mới,
những so sánh, đối chiếu trong phạm vi âm nhạc học...; Vấn đề thực trạng,
sức sống cũng nhƣ những đề xuất về kế hoạch hành động mang tính chiến
lƣợc hoặc biện pháp cụ thể để bảo tồn, phát huy nghệ thuật Đờn ca tài tử
trong cuộc sống đƣơng đại.
- Kỷ yếu Hội thảo “Đờn ca tài tử Nam Bộ với việc nâng cao đời sống văn
hóa cộng đồng” do Bộ VHTT&DL phối hợp với các Sở VHTT&DL khu vực
phía Nam tổ chức tháng 11/2012 tổ chức tại Bến Tre. Hội thảo là sự kiện
nhằm thể hiện và tiếp tục tìm kiếm các giải pháp để phát triển, nâng cao sự
lan tỏa của sinh hoạt Đờn ca tài tử, mở ra những hƣớng mới để duy trì và phát
huy di sản văn hóa này trong thời kỳ phát triển và hội nhập mạnh mẽ nhƣ

ngày nay. Các nhà nghiên cứu, nghệ nhân dân gian, các nghệ sĩ và những
ngƣời yêu thích, quan tâm đến Đờn ca tài tử đã tập trung phân tích vấn đề:
Làm thế nào để phát huy, phát triển loại hình nghệ thuật đầy bản sắc của
ngƣời xƣa trong đời sống hôm nay và mai sau?


7

- Sách Hát bội, đờn ca tài tử, cải lương cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20
của hai nhà nghiên cứu ngƣời Úc gốc Việt Nguyễn Lê Tuyên và Nguyễn Đức
Hiệp do Phƣơng Nam Book và Nxb Văn nghệ TP.HCM xuất bản năm 2013:
ngoài sự kế thừa các cơng trình nghiên cứu trong nƣớc, hai tác giả cịn tiếp
cận đƣợc một nguồn tài liệu đáng tin cậy hiện đƣợc lƣu trữ tại Bảo tàng và
Thƣ viện ở Pa-ri (Pháp). Chính nhờ nguồn tài liệu này mà các thời điểm lịch
sử quan trọng đánh dấu sự định hình và phát triển của Hát bội, Đờn ca tài tử
và Cải lƣơng dần đƣợc hé mở bởi những bằng chứng xác thực. Sự đóng góp
của hai tác giả thật có ý nghĩa và rất đáng trân trọng.
Có thể nói, hầu hết các cơng trình trên tuy có đề cập nhƣng chƣa đi sâu
nghiên cứu vấn đề truyền dạy nghệ thuật Đờn ca tài tử ở các cơ sở ngồi nhà
trƣờng nói chung, tại TP.Hồ Chí Minh nói riêng.
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động của các ban, nhóm, gia
đình, nhà văn hóa và câu lạc bộ Đờn ca tài tử tại TP.Hồ Chí Minh, đề xuất
một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả việc truyền dạy Đờn ca tài tử ở các
cơ sở ngồi nhà trƣờng, góp phần bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật
độc đáo của dân tộc.
3.2. Mục tiêu
Xác định đƣợc những nguyên nhân dẫn đến thực trạng hoạt động truyền dạy
Đờn ca tài tử, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm phát huy hiệu

quả việc truyền dạy Đờn ca tài tử ở các cơ sở ngoài nhà trƣờng tại TP.Hồ Chí
Minh.


8

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các phƣơng pháp truyền dạy nghệ thuật Đờn ca tài tử ở các cơ sở ngồi
nhà trƣờng tại TP.Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các ban, nhóm, gia đình, câu lạc bộ Đờn ca tài tử đang hoạt động trên
địa bàn TP.Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin, đƣờng lối văn hoá văn nghệ của Đảng làm phƣơng pháp
luận để nghiên cứu ở góc độ quản lý văn hóa.
Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: dân tộc học, sử
học, văn hố học,… để nghiên cứu đối tƣợng thơng qua các phƣơng pháp cụ
thể nhƣ: so sánh, phân loại, thống kê, phân tích tổng hợp tài liệu, số liệu liên
quan đề tài; quan sát tham dự, phỏng vấn, chụp ảnh, hệ thống hoá tƣ liệu điền
dã…để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Dẫn giải những cơ sở có tính lý luận về ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc truyền dạy Đờn ca tài tử, từ đó đề xuất việc xây dựng và ứng dụng các
giải pháp có hiệu quả trong thực tế hoạt động truyền dạy bộ môn nghệ thuật
này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo giúp các nhà quản lý văn hóa ở

TP.Hồ Chí Minh trong việc xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát huy và phát triển
Đờn ca tài tử thông qua việc truyền nghề; đồng thời, giúp đội ngũ cán bộ làm
công tác quản hoạt động văn hóa có thêm những kiến thức và kỹ năng cơ bản


9

trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức công tác truyền dạy Đờn ca tài tử
trong đơn vị mình.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm có 3 chƣơng:
- Chương 1. Các khái niệm nghiên cứu và tổng quan nghệ thuật Đờn ca
tài tử ở TP.Hồ Chí Minh
Luận văn giải thích các khái niệm liên quan đến đề tài; nêu một cách
khái lƣợc về nghệ thuật Đờn ca tài tử đã hình thành và phát triển ở một đơ thị
có tốc độ tăng trƣởng nhanh nhƣ TP.Hồ Chí Minh.
- Chương 2. Truyền dạy Đờn ca tài tử trong bối cảnh văn hóa của TP.Hồ
Chí Minh
Trình bày thực trạng truyền dạy Đờn ca tài tử ở các cơ sở ngồi nhà
trƣờng tại TP.Hồ Chí Minh nhƣ các thiết chế văn hóa, Cung văn hóa Lao
động thành phố, Trung tâm văn hóa thành phố và một số lị Đờn ca tài tử;
đánh giá hiệu quả của việc truyền dạy, xác định những nguyên nhân dẫn đến
thực trạng.
- Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền dạy Đờn ca tài tử
Trình bày cơ sở của việc bảo tồn nghệ thuật Đờn ca tài tử; đƣờng lối,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về văn hóa nghệ thuật và nhu cầu của cơng
chúng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp về chƣơng trình, về con ngƣời,
về quản lý... nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc truyền dạy Đờn ca tài
tử ở các cơ sở ngoài nhà trƣờng tại TP.Hồ Chí Minh.



10

Chương 1
CÁC KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU
VÀ TỔNG QUAN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Việc nghiên cứu về vấn đề truyền dạy nghệ thuật Đờn ca tài tử ở góc
độ quản lý văn hóa, theo thiển ý của ngƣời viết, rất cần có những định nghĩa
về các khái niệm liên quan đến đề tài. Những khái niệm này là cơ sở để xác
định nội dung nghiên cứu đề tài cho phù hợp. Dựa trên đối tƣợng và phạm vi
nghiên cứu, ngƣời viết nêu ra một số khái niệm sau đây:
1.1. Các khái niệm liên quan đề tài
1.1.1. Âm nhạc truyền thống
Âm nhạc truyền thống là nhạc của ngƣời Việt Nam từ thời lập quốc đến
hiện tại do chính ngƣời Việt sáng tác và lƣu giữ theo phƣơng pháp truyền
khẩu. Âm nhạc truyền thống giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng văn
hóa dân tộc Việt Nam. Đó là di sản vơ cùng q báu, tinh hoa sáng tạo nghệ
thuật của cha ông, là cơ sở cho sự phát triển nền văn hóa âm nhạc của đất
nƣớc.
Nhạc thính phịng theo định nghĩa của ngƣời châu Âu là một thể loại
nhạc gồm các bài hát hoặc bản đàn đƣợc biểu diễn trong phòng khách tại tƣ
gia hay trong một gian phòng nhỏ. Tại Việt Nam, từ xa xƣa đã xuất hiện các
buổi ca và múa trong cung đình, đền miếu, hoặc hội họp tại tƣ thất các quan
tƣớng. Chính hình thức ca múa này đã trở thành nền tảng cho âm nhạc thính
phịng Việt Nam ngày nay.
Theo các nhà nghiên cứu, các loại hình âm nhạc thính phịng dân gian
đặc thù của ba miền đất nƣớc là Ca trù ở miền Bắc, Ca Huế ở miền Trung và
Đờn ca tài tử Nam Bộ.
Ca trù nghĩa là hát thẻ hay còn gọi là Hát ả đào. Theo sách Việt Nam

ca trù biên khảo: "Ở cửa đền ngày xưa có lệ hát Thẻ gọi là Trù, làm bằng tre


11

ghi chữ đánh dấu, dùng để thưởng cho ả đào thay tiền mặt. Khi hát, quan viên
thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng, một bên đánh trống" [17,
tr.24]. Ca trù là một bộ mơn nghệ thuật trình diễn, có nét độc đáo là sự phối
hợp đa dạng, tinh tế, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đơi khi có cả
múa. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuật
lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của ngƣời Việt
Nam. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngƣỡng, văn chƣơng, âm nhạc,
tƣ tƣởng, triết lý sống của ngƣời Việt. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm
cùng với những biến cố của lịch sử, Ca trù đã đạt đến trình độ thẩm mỹ cao,
khẳng định đƣợc vị trí quan trọng khơng chỉ của Việt Nam mà còn của cả
nhân loại.
Nhã nhạc cung đình theo nghĩa thơng thƣờng đƣợc hiểu là các thể loại
ca nhạc, kể cả các thể loại ca nhạc đi kèm với múa và kịch hát, dùng trong các
lễ nghi cúng tế và triều chính, các ngày quốc lễ do triều đình tổ chức và sinh
hoạt vui chơi giải trí của vua và hồng tộc. Tên gọi Nhã nhạc đƣợc các triều
đại phong kiến Việt Nam sử dụng với những nội hàm khác nhau: khi để chỉ
âm nhạc cung đình nói chung, lễ nhạc cung đình nói riêng, khi để chỉ một tổ
chức âm nhạc, thậm chí một dàn nhạc cụ thể.
Nhã nhạc cung đình mang sắc thái địa phƣơng rõ rệt, nhƣng không
phải là một thứ âm nhạc địa phƣơng. Do hoàn cảnh lịch sử, Nhã nhạc đã một
thời gian khá dài đóng vai trị là "quốc nhạc" dƣới thời thuộc Pháp nhƣng vẫn
chinh phục đƣợc quần chúng hâm mộ rộng rãi, đƣợc sử dụng phổ biến ở các
tỉnh phía Bắc và phía Nam. Ở những nơi này, khơng phải chỉ có vấn đề
thƣởng thức Nhã nhạc nhƣ một đặc sản có hƣơng vị lạ từ nơi khác đem đến,
mà ngƣời ta còn thấy hiện tƣợng Nhạc cung đình thâm nhập, ảnh hƣởng trở

lại và làm giàu thêm cội nguồn miền Bắc; đồng thời góp những nhân tố quan


12

trọng làm nảy sinh và hình thành phong cách đặc thù của âm nhạc miền Nam
là Đờn ca tài tử và Cải lƣơng.
1.1.2. Đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử (cịn gọi là nhạc tài tử) hình thành và phát triển từ
cuối thế kỷ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân
gian, truyền vào vùng đất Nam Bộ, phát triển chủ yếu tại Nam Bộ và miền
Nam Việt Nam.
Đờn (đàn) là để chỉ âm nhạc của dàn nhạc và của từng bài ca cụ thể.
Ca (tiếng hát) là để chỉ lời ca, chất giọng, trình độ diễn xƣớng của
những ngƣời tham gia.
Tài tử đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, tài tử là những ngƣời
có tài. Trƣớc hết, những ngƣời tham gia soạn bài bản, đờn và ca diễn là những
ngƣời có tài. Đó là những ngƣời giỏi âm luật, có kiến thức về âm nhạc Nam
Bộ, những ngƣời có cảm thụ âm nhạc tốt, biết xử lý bản nhạc theo đúng quy
chuẩn âm nhạc và theo ngẫu hứng của chính mình, là những ngƣời có giọng
ca đẹp, có kiến thức về nhịp điệu, tiết tấu, tự tin trƣớc đám đông. Nghĩa thứ
hai, tài tử là những ngƣời không chuyên nghiệp. Họ xuất thân từ các ngành
nghề, giai cấp khác nhau trong xã hội, yêu đờn ca nhƣng họ không và chƣa
bao giờ là nghệ sĩ chuyên nghiệp trên sân khấu. Họ đến với âm nhạc vì yêu
âm nhạc, yêu nghệ thuật; muốn thể hiện cảm xúc của mình qua âm nhạc và
gửi niềm cảm xúc ấy đến mọi ngƣời. Tài tử đƣợc hiểu với cả hai nghĩa ấy và
nghĩa nào cũng phù hợp.
Xung quanh chữ Tài tử có những quan niệm khác nhau. Có ngƣời cho
rằng: Tài tử nghĩa là khơng chuyên nghiệp; là loại âm nhạc không chuyên
dùng để tiêu khiển, giải trí. GS.TS Shee Dae Cheol (Hàn Quốc) trong tham

luận đọc tại Hội thảo Nghệ thuật đờn ca tài tử và những lối hòa đàn ngẫu
hứng đã gọi Đờn ca tài tử là: “một hình thức âm nhạc nghiệp dư cao quý” [32,


13

tr.29]. Theo quan niệm này, ngƣời ta chỉ dựa trên biểu hiện nhất thời của các
sinh hoạt đờn ca mà khơng xem xét đến tính chất đặc trƣng của âm nhạc, quá
trình kế thừa, sáng tạo, cải biên, bảo lƣu và truyền dạy nhạc của các thế hệ
nghệ nhân - là những yếu tố cơ bản làm cho dòng nhạc Đờn ca tài tử ngày
càng hoàn thiện và phát triển.
Nhạc sĩ Vũy Chỗ lại khẳng định: Tài tử là chuyên nghiệp. “Nhạc tài tử
là dòng nhạc truyền thống bác học, trước kia dùng chơi trong thính phịng;
phong cách phong lưu, chững chạc” [10, tr.12]. Tài tử là ngƣời có tri thức và
tài năng, đƣợc công chúng yêu mến, ngƣỡng mộ.
GS.TS Trần Văn Khê dung hòa cả hai quan niệm trên, ông cho rằng:
Đờn ca Tài tử không phải để kiếm sống mà để giải trí, cùng với bạn
đồng điệu hịa đờn cho ngƣời mộ điệu thƣởng thức, đàn hát để vui chơi với nhau,
khác với những nhóm Nhạc lễ là các nhạc sĩ chuyên nghiệp dùng đờn ca làm kế
sinh nhai. Nhƣng khơng phải vì khơng chun nghiệp mà những ngƣời đờn ca tài tử
có trình độ nghệ thuật thấp [29, tr.37].

Quan niệm của GS.TS Trần Văn Khê hiện nay rất sát hợp với tính chất
đặc thù và thực tế sinh hoạt của Đờn ca tài tử. Tố chất “tài tử” trong mỗi nghệ
nhân đờn ca còn là phẩm chất tốt đẹp của ngƣời nghệ sĩ dân gian. Quan niệm
đúng đắn về Đờn ca tài tử sẽ có cách nhìn nhận chính xác về ngƣời tài tử và
nghệ thuật Đờn ca tài tử.
Đờn ca tài tử, từ trong bản thân tên gọi là một thể loại âm nhạc không
chuyên, nhƣng những quy ƣớc chặt chẽ từ bài bản đến phong cách biểu diễn
đã làm cho thể loại âm nhạc này hết sức chuyên nghiệp. Đờn ca tài tử là sự

đan xen giữa tính bác học bởi những khắt khe của hệ thống bài bản, làn điệu;
tính chuyên nghiệp bởi sự tinh xảo của kỹ thuật diễn tấu và cả sự tinh tế của
phong cách biểu diễn cùng với những ngẫu hứng trong diễn tấu, sự thể
nghiệm không ngừng ở nhiều phƣơng diện, cách chơi tri âm - tri kỷ giữa


14

những ngƣời bạn. Đờn ca tài tử vừa thể hiện tính bác học của thể loại, đồng
thời mang đặc điểm dân gian trong hình thức tổ chức, phƣơng pháp sáng tạo,
đặc biệt là cách thức truyền dạy.
1.1.3. Giáo dục, đào tạo
Giáo dục: Theo Bách khoa toàn thƣ Wikipedia: “Giáo dục là một hình
thức học tập, trong đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm ngƣời từ
thế hệ này (ngƣời truyền đạt) đƣợc chuyển giao sang thế hệ kế tiếp (ngƣời thụ
huấn) thông qua giảng dạy, huấn luyện, nghiên cứu. Giáo dục thƣờng diễn ra
dƣới sự hƣớng dẫn của ngƣời khác, nhƣng cũng có thể tự học. Bất kỳ sự trải
nghiệm nào mà có tác dụng trên cách suy nghĩ, cảm nhận hay hành vi của một
ngƣời đều có thể đƣợc coi là giáo dục”. Nói cách khác: “Giáo dục là q trình
đƣợc tổ chức có ý thức hƣớng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức,
năng lực, tình cảm, thái độ của ngƣời học theo hƣớng tích cực. Nghĩa là góp
phần hồn thiện nhân cách ngƣời học bằng những tác động có ý thức từ bên
ngồi, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con ngƣời trong
xã hội đƣơng đại”. Mục tiêu của giáo dục là phát triển con ngƣời tồn diện,
nhất là khả năng tƣ duy, óc sáng tạo; tức là đào tạo con ngƣời biết phán đoán,
biết hành động và biết yêu thƣơng theo đúng phẩm giá của con ngƣời đã đƣợc
tạo hoá ban cho.
Đào tạo: Nghĩa gốc là chế tạo, nặn đúc cho thành. Nghĩa bóng là gầy
dựng lên, bồi dƣỡng rèn luyện, giáo hoá cho nên ngƣời: Đào tạo nhân tài. Đào
tạo cho đến thành tài trong một lĩnh vực đòi hỏi những tiêu chuẩn nào đó,

nghĩa là dạy ngƣời học kiến thức, kỹ năng và nghề nghiệp.
Đào tạo có nghĩa hẹp hơn giáo dục, thƣờng những ngƣời đã đƣợc giáo
dục cơ bản rồi, mới đƣợc đào tạo một ngành nghề chuyên môn sâu hơn. Giáo
dục mang ý nghĩa rộng hơn, không chỉ nhằm truyền đạt các kiến thức cơ bản


15

hay chun mơn hẹp, mà cịn xây dựng con ngƣời với nền tảng văn hoá, lối
sống, thể lực, cách suy nghĩ, giao tiếp, ý thức xã hội, v.v.
Hai khái niệm đào tạo và giáo dục có một số điểm khác biệt cụ thể sau:
+ Về nội dung: Giáo dục truyền dạy các nội dung kiến thức cơ bản, cơ sở
chung trong các lĩnh vực cơ bản, trong khi đào tạo tập trung vào từng lĩnh
vực chuyên sâu hơn, và ở các trình độ trung đến cao cấp cho hầu nhƣ mọi lĩnh
vực;
+ Về đối tƣợng: Giáo dục truyền dạy cho thế hệ trẻ, vị thành niên (từ
khoảng 5 đến 17 tuổi (giáo dục phổ cập), trong khi đào tạo tập trung cho từng
đối tƣợng thanh thiếu niên và cả ngƣời trƣởng thành có mong muốn hoặc khả
năng học chuyên sâu, sau khi đã qua cấp phổ thông phổ cập;
+ Về phạm vi: Giáo dục truyền dạy cho tất cả mọi ngƣời (giáo dục phổ
cập), trong khi đào tạo tập trung cho từng nhóm các nhân có mong muốn
hoặc khả năng học chuyên sâu;
+ Về phƣơng pháp: Giáo dục truyền dạy bằng phƣơng pháp giảng dạy là
chính, trong khi đào tạo tập trung vào phƣơng pháp hƣớng dẫn và thực hành;
+ Về cách tổ chức: Giáo dục truyền dạy theo cách tập trung tại các cơ sở
giáo dục (trƣờng học), trong khi đào tạo có thể tiến hành theo giai ngắn đoạn
trong các môi trƣờng thực tế hoặc mô phỏng thực tế cho từng chuyên ngành;
+ Về thời gian: Giáo dục truyền dạy trong thời gian khá dài, từ vài năm trở
lên tất cả mọi ngƣời (giáo dục phổ cập), trong khi đào tạo tập trung trong thời
gian ngắn hơn, vài năm trở lại;

+ Về nhu cầu huy động tiềm lực: Ở Việt Nam, Giáo dục đƣợc thực hiện
chủ yếu bằng vốn chung của tồn xã hội, thơng qua nhà nƣớc và bộ chủ
quản, trong khi đào tạo đƣợc thực hiện bằng cả vốn chung của xã hội và vốn
tự huy động và cân đối của các cơ sở đào tạo…


16

+ Về ngƣời thực hiện: Trong giáo dục những ngƣời truyền dạy (giáo
viên) là những ngƣời đã đƣợc học, chuẩn bị (nghiên cứu) về các nội dung
mình giảng dạy, nhƣng không bắt buộc và thƣờng không phải là chuyên gia
trong những lĩnh vực mình giảng, trong khi trong đào tạo, ngƣời hƣớng dẫn
trƣớc hết phải là chuyên gia trong lĩnh vực mình đào tạo, tức là đã có thành
cơng và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo đó;
+ Về mục tiêu cụ thể: Mục tiêu của giáo dục mang kiến thức đến và
truyền dạy chúng (ở cấp độ 1-2) cho thể hệ trẻ để chúng phát triển tiếp, trong
khi đào tạo tập trung tạo ra khả năng hành động thành công của thế hệ trẻ
trong lĩnh vực cụ thể nào đó;
+ Về cấp độ học tập: Giáo dục thƣờng đƣợc thực hiện ở cấp độ 1 và
2 (Học trị tham gia: nghe, nói, đọc, viết, suy nghĩ…), trong khi đào tạo phải
đƣợc thực hiện ở cấp độ 3 và 4 (thêm: quan sát, liên hệ, đƣợc hƣớng dẫn làm,
làm thử, làm thật trong thực tế để có kết quả, kiểm chứng, trải nghiệm nhiều
lần…).
Theo nghĩa tổng quát, giáo dục hay đào tạo đều là hình thức học tập,
trong đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của ngƣời thầy đƣợc chuyển giao
sang ngƣời học trị thơng qua giảng dạy, huấn luyện, nghiên cứu. Nhƣng xét
theo nghĩa ứng dụng cụ thể, thì giáo dục đƣợc sử dụng trong phạm vi rộng rãi
và lâu dài hơn, với mục tiêu là con ngƣời toàn diện hơn; so với đào tạo thuộc
lĩnh vực chuyên sâu hơn, hƣớng đến mục tiêu cụ thể hơn.
1.1.4. Truyền dạy, nghệ nhân

Truyền dạy là bao hàm cả đào tạo và giáo dục, là một dạng hoạt động
đặc thù của xã hội, nhằm truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, trên cơ sở
đó hình thành và phát triển nhân cách cũng nhƣ trình độ nghề nghiệp của
ngƣời học. Đó là một hoạt động kép có chức năng khác nhau, đan xen và
tƣơng tác lẫn nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định. Kết quả


17

của quá trình truyền dạy là làm biến đổi ở ngƣời học những đặc tính nào đó đã
đƣợc xác định từ trƣớc.
Truyền dạy là hoạt động của giáo viên không chỉ là hoạt động truyền
thụ cho ngƣời học những nội dung đáp ứng đƣợc mục đích đề ra, mà cịn là
hoạt động giúp đỡ, chỉ đạo và hƣớng dẫn ngƣời học trong quá trình lĩnh hội.
Chỉ khi nào nắm bắt đƣợc các điều kiện bên trong (hiểu biết, năng lực, hứng
thú...) của ngƣời học thì giáo viên mới đƣa ra đƣợc những tác động sƣ phạm
phù hợp để hoạt động học đạt đƣợc kết quả mong muốn.
Hoạt động truyền dạy có các đặc trƣng sau:
- Thể hiện vai trị chủ đạo của giáo viên (nghệ nhân)
- Là hoạt động có mục đích rõ ràng
- Khơng nhất thiết phải có nội dung, chƣơng trình, kế hoạch cụ thể
- Diễn ra trong một môi trƣờng nhất định
- Sử dụng các phƣơng tiện đa dạng (ngôn ngữ, tài liệu, thiết bị, nhạc
cụ...)
- Kết quả hoạt động truyền dạy của giáo viên (nghệ nhân) đƣợc đánh giá
thông qua kết quả hoạt động học (lĩnh hội) của ngƣời học.
Truyền dạy Đờn ca tài tử
Mục đích truyền dạy: Ngƣời thầy truyền dạy cho ngƣời học nghệ thuật
Đờn ca tài tử, không chỉ biết đờn, biết ca để tham gia các buổi sinh hoạt Đờn
ca tài tử, mà còn phải đờn ca điêu luyện. Để đƣợc hiệu quả cao trong quá trình

truyền nghề, ngƣời thầy phải nắm rõ nguyện vọng, năng khiếu, năng lực
chuyên môn của ngƣời học, luôn uốn nắn nguyện vọng của ngƣời học trong
quá trình truyền nghề.
Phƣơng pháp truyền dạy: Cách truyền nghề mà các nghệ nhân, nhạc sĩ
Đờn ca tài tử từng vận dụng trong việc đào tạo thế hệ kế thừa là truyền khẩu,
truyền ngón, trên nền tảng lịng bản, cịn đƣợc gọi là phƣơng pháp trực truyền.


18

Đây là một trong các cách truyền dạy có hiệu quả cao trong truyền thống âm
nhạc Việt Nam. Phƣơng pháp truyền dạy này đƣợc áp dụng cả trong khí nhạc
và thanh nhạc.
Nghệ nhân là những ngƣời có tài năng đặc biệt về một lĩnh vực nào đó
trong dân gian đƣợc lƣu truyền từ nhiều đời để cho xã hội tƣơng lai. Nghệ
nhân thực chất có thể coi là nghệ sĩ, nhƣng có sự khác biệt là có tài năng nghệ
thuật ở mức cao. Phần lớn các nghệ nhân đƣợc truyền dạy từ những ngƣời đi
trƣớc theo phƣơng pháp dân gian.
Theo gốc tiếng Hán thì "nhân" có nghĩa là ngƣời, thế nhƣng ngƣời Việt
Nam không dùng từ này để chỉ ngƣời làm nghệ thuật nói chung nhƣ từ nghệ
sĩ. Trên thực tế, ngƣời Việt sử dụng từ này chủ yếu đối với ngƣời làm
nghề thủ công mỹ nghệ và một số hình thái nghệ thuật biểu diễn truyền thống.
Ngƣời Việt cũng rất ít khi dùng từ "nghệ sĩ" với những nghề thủ công mỹ
nghệ. Để chỉ những ngƣời chuyên làm những cơng việc này nhƣng trình độ
khơng cao nhƣ nghệ nhân, ngƣời ta dùng từ "thợ", nhƣ thợ gốm, thợ kim
hoàn,...; còn với Ca trù, Cải lƣơng, Đờn ca tài tử… ngƣời ta thƣờng dùng từ
“nghệ sĩ”.
Nghệ nhân giữ vai trò quan trọng trong việc lƣu giữ, trao truyền và
khai thác kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian đồ sộ của ơng cha để lại, trong
đó có những loại hình đã đƣợc UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật

thể của nhân loại cùng nhiều nghề thủ công truyền thống đã có từ hàng trăm
năm nay. Các nghệ nhân ln ln gắn bó cuộc sống của nhân dân, là chủ thể
của khơng gian văn hóa nghệ thuật dân gian. Trong số họ có những nghệ nhân
giàu kinh nghiệm, nhiều cống hiến đã trở thành báu vật sống của nền văn hóa
nghệ thuật dân tộc, xứng đáng đƣợc trân trọng, tôn vinh.
Sự tồn vong của các tác phẩm âm nhạc cổ truyền Việt Nam gắn bó chặt
chẽ với sự sống còn của nghệ nhân cổ nhạc. Các nghệ nhân cổ nhạc chính là


19

những di sản sống vơ cùng q giá, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
bảo tồn và phát huy vốn di sản âm nhạc cổ truyền của dân tộc. Trải qua hàng
ngàn năm, việc trao truyền văn hóa dân gian nhằm gìn giữ nghề truyền thống
của ơng bà đƣợc thực hiện một cách bền bỉ. Những ngƣời thợ dân gian đƣơng
nhiên đƣợc truyền dạy theo phƣơng cách dân gian mà không phải qua một
trƣờng lớp đào tạo bài bản, chính quy nào. Tất cả đƣợc tiến hành một cách tự
giác và tự phát, vì lợi ích thiết thân của họ. Việc trao truyền văn hóa dân gian
giữa các thế hệ vẫn diễn ra không chỉ ở lĩnh vực truyền dạy nghề truyền thống
mà còn thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác, trong đó có âm nhạc dân tộc cổ truyền
và đặc biệt là Đờn ca tài tử…
1.1.5. Cơ sở ngồi nhà trường, thiết chế văn hóa
Cơ sở giáo dục trong nhà trường bao gồm:
+ Giáo dục cơ bản: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông.
+ Giáo dục chuyên biệt: Trung học phổ thông chuyên, năng khiếu; Trung
tâm
Giáo dục thƣờng xuyên; Trƣờng phổ thông dân tộc nội trú; Trƣờng giáo
dƣỡng.
+ Giáo dục sau phổ thông: Dự bị đại học; Trung cấp, dạy nghề; Cao đẳng;
Đại học.

+ Giáo dục sau đại học: Cao học; Nghiên cứu sinh.
Hệ thống giáo dục Việt Nam do Luật giáo dục quy định, đƣợc Nhà
nƣớc thống nhất quản lý về mục tiêu, chƣơng trình, nội dung, kế hoạch giáo
dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.
Cơ sở giáo dục ngoài nhà trường: Hoạt động giáo dục và đào tạo tại
các cơ sở không thuộc hệ thống trƣờng học nêu trên thuộc về hoạt động ngoài
nhà trường. Các cơ sở ngoài nhà trƣờng đƣợc thành lập và tổ chức hoạt động
bởi các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và cả các gia đình,


20

bao gồm: Nhà văn hóa; Trung tâm văn hóa Thành phố; Trung tâm văn hóa
các quận, huyện; Câu lạc bộ độc lập hoặc trực thuộc các Trung tâm văn hóa,
Nhà văn hóa; tƣ gia của một số nghệ nhân, nghệ sĩ. Các cơ sở giáo dục ngồi
nhà trƣờng tuy khơng đƣợc Nhà nƣớc quản lý về mục tiêu, chƣơng trình, nội
dung, kế hoạch, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng...
nhƣng vẫn đƣợc khuyến khích, ƣu tiên, tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động
và phát triển.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam:“Thiết chế văn hoá là chỉnh thể văn
hoá hội tụ đầy đủ các yếu tố: cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống biện
pháp hoạt động và kinh phí hoạt động cho thiết chế đó” [63, tr.412]. Các thiết
chế văn hóa ở Việt Nam đang góp phần phát triển xã hội một cách bền vững.
Một xã hội muốn phát triển bền vững địi hỏi khơng chỉ có kinh tế vững mạnh
mà cịn phải đặc biệt quan tâm đến văn hóa. Con ngƣời khơng chỉ có nhu cầu
ăn, mặc, đi lại,... mà luôn hƣớng tới lối sống lành mạnh, chất lƣợng cuộc sống
tốt hơn. Trong hệ thống thiết chế văn hóa, tổ chức và hoạt động của NVH,
TTVH và CLB là tiêu biểu và phổ biến nhất.
Nhà văn hóa là một cơ sở giáo dục ngoài nhà trƣờng, là trung tâm tổ
chức hoạt động văn hóa xã hội có nhiệm vụ chuyển tải những giá trị tinh hoa

nghệ thuật của dân tộc và nhân loại cho nhân dân hƣởng thụ, đồng thời tạo mọi
điều kiện thuận lợi để quần chúng nhân dân tạo ra các giá trị văn hóa nghệ
thuật; để gìn giữ bảo lƣu và xây dựng nền văn hóa mới, đáp ứng và thỏa mãn
nhu cầu tinh thần trong thời gian nhàn rỗi. NVH là một thiết chế đa chức năng
đƣợc xã hội thiết lập tổ chức, đáp ứng nhu cầu giao lƣu văn hố, tiếp nhận
thơng tin, nâng cao hiểu biết, hƣởng thu, sáng tạo giá trị văn hoá-nghệ thuật,
nghỉ ngơi, giải trí lành mạnh… cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu
giáo dục phát triển con ngƣời tồn diện. Nhà văn hóa là đơn vị sự nghiệp có
thu, thực hiện cơ chế “lấy thu bù chi”. Phát huy ƣu thế chuyên môn, khai


21

thác triệt để nguồn nhân lực và cơ sở vật chất hiện có. Tổ chức các hoạt
động kinh doanh ấn phẩm văn hóa, các hoạt động dịch vụ văn hóa nghệ
thuật, thể dục thể thao, theo đúng đƣờng lối, chính sách và pháp luật, quy
định của Đảng, nhà nƣớc đã ban hành.
Đặc điểm của Nhà văn hóa: NVH có đặc điểm nhƣ TTVH, là thiết chế
đa năng tổng hợp, là nơi tổ chức các cuộc họp của cƣ dân nhằm phổ biến các
chủ trƣơng, chính sách của các cấp Đảng, chính quyền, đồn thể; là nơi tổ
chức các buổi sinh hoạt đồn thể; là nơi tổ chức tun truyền thơng tin
khuyến nông, khuyến lâm, học tập kiến thức nâng cao cho mọi ngƣời; là nơi
tổ chức các hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hoá nhƣ đọc sách báo, xem
văn nghệ, xem truyền hình, xem phim...; là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi
giải trí, thể dục thể thao, biểu diễn văn nghệ... Tính đa năng của thiết chế NVH
còn đƣợc thể hiện ở sự phong phú về phƣơng pháp hoạt động với mục đích
phổ biến những hoạt động có hàm lƣợng văn hố cao tới đơng đảo quần
chúng nhân dân. Những giá trị văn hố đó đến với chủ thể sử dụng một cách
tự nhiên.
NVH hoạt động tự nguyện theo phƣơng thức xã hội hoá, tổ chức các

hoạt động văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân; mọi ngƣời dân tham gia các
hoạt động đó một cách tự nguyện, tham gia theo nhu cầu của bản thân và gia
đình. Quá trình tham gia là quá trình lựa chọn hoạt động phù hợp với sở thích.
Câu lạc bộ là một loại hình tổ chức, vừa là một phƣơng thức hoạt động,
vừa là một bộ phận quan trọng trong một tổ chức NVH. Đó là nơi để những
ngƣời cùng chung sở thích, ý nguyện tập hợp lại để nắm vững kiến thức và kỹ
năng về từng lĩnh vực nghệ thuật. Có nhiều loại CLB nhƣ: CLB những ngƣời
yêu thơ, CLB múa, âm nhạc, võ thuật, điện ảnh, CLB Tài tử cải lƣơng… Quy
mô của CLB tuy không lớn nhƣng cũng có bộ máy tổ chức, trụ sở, nhân sự
nhƣ một cơ quan văn hoá giáo dục chuyên biệt.


22

CLB là mơi trƣờng cho các thành viên có khả năng và năng khiếu đƣợc
bộc lộ, phát triển, hƣớng dẫn những mong muốn, khát khao của con ngƣời
trong giao tiếp. Bên cạnh đó, CLB tạo điều kiện cho các thành viên trƣởng
thành về mọi mặt, là sân chơi bổ ích, lành mạnh, mọi ngƣời có quyền bày tỏ
quan điểm, tâm tƣ, nguyện vọng đồng thời hỗ trợ các vấn đề khó khăn, vƣớng
mắc trong học tập, cơng tác, cuộc sống. Qua đây, tổ chức sẽ củng cố thêm
tinh thần đoàn kết để góp phần đổi mới, nâng cao chất lƣợng hoạt động tập
thể.
Hoạt động CLB góp phần nâng cao nhận thức, rèn luyện kỹ năng của
con ngƣời. Nhu cầu của con ngƣời trong thời gian rỗi thể hiện rất khác nhau.
Khi đến với CLB sẽ đƣợc đáp ứng những nguyện vọng sở thích của từng đối
tƣợng cụ thể. CLB sẽ từng bƣớc thoả mãn nhu cầu học hỏi, nâng cao nhận
thức của các thành viên trong quá trình tham gia, đồng thời bồi dƣỡng thêm
cho họ những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.
1.2. Đặc trưng, giá trị và các dạng thức Đờn ca tài tử Nam Bộ ở Tp.
Hồ Chí Minh

Nhắc đến Đờn ca tài tử ngƣời ta nghĩ ngay đến xứ miệt vƣờn, đến vùng
đất phƣơng Nam. Đây là thể loại nhạc “thính phịng” đặc thù của miền Nam,
thể hiện sự gắn kết cộng đồng, phản ánh tâm tƣ, tình cảm và phù hợp với lối
sống cần cù, phóng khống, cởi mở và can trƣờng của ngƣời dân Nam Bộ.
Đờn ca tài tử TP.Hồ Chí Minh tuy khơng có những nét riêng biệt về phong
cách so với Đờn ca tài tử Nam Bộ, nhƣng có những sáng tạo riêng, có những
đóng góp rõ ràng, là thành viên và thuộc nguồn cội chung của của Đờn ca tài
tử Nam Bộ.


23

1.2.1. Đặc trưng, giá trị của Đờn ca tài tử
Đặc trưng
Nghiên cứu về đặc trƣng của nhạc Tài tử là đi tìm nét riêng biệt đã làm
nó khác biệt với các dòng âm nhạc khác. TS. Mai Mỹ Duyên cho biết:
Đặc trƣng cơ bản của nghệ thuật Đờn ca tài tử đƣợc xác định dƣới hai góc độ:
tính chất âm nhạc và tính chất sinh hoạt. Ở góc độ âm nhạc, Đờn ca tài tử có tính
chun nghiệp, biểu hiện trong hệ thống bài bản, trong cấu trúc lòng bản theo các
hơi, điệu khác nhau, trong nguyên tắc hòa ca và diễn tấu. Ở góc độ sinh hoạt, Đờn
ca tài tử có tính tiêu khiển cao, thỏa mãn đƣợc nhu cầu giải trí tái sáng tạo – một
trong những nhu cầu xã hội cơ bản của con ngƣời. Tính thích ứng là là điều kiện
quyết định sự tồn tại và phát triển của sinh hoạt Đờn ca tài tử: thích ứng với địa
điểm tổ chức, phạm vi sinh hoạt, tình trạng tài chính của ngƣời tổ chức, với khách
thể sinh hoạt [12, tr.58].

Ngẫu hứng là đặc trƣng cốt yếu của nghệ thuật trình diễn Đờn ca tài tử.
Nói rộng hơn, ngẫu hứng vừa là phong cách của thể loại nhạc tài tử vừa là
phong cách riêng của từng nghệ sĩ. Khi chơi, họ đƣợc phép tự do sáng tạo
ngẫu hứng thêm bớt các âm, biến hóa tiết tấu, thay đổi cƣờng độ, tạo chỗ

ngƣng nghỉ để cho ra một bè đàn có tính cách riêng, kỹ thuật riêng của ngƣời
nhạc sĩ. Khơng chỉ đàn ca sao cho đúng với tính chất, hơi điệu của bài, mà
trên cơ sở lòng bản, ngƣời nghệ sĩ còn phải biết thêm thắt, biến tấu sao cho
bay bổng. Mỗi câu nhạc, mỗi chữ đàn, mỗi nét nhấn nhá, luyến láy càng điêu
luyện thì tiếng đàn của ngƣời nghệ sĩ càng đặc sắc, tinh tế, sang trọng... Chính
nhờ sự ngẫu hứng mà cuộc chơi tài tử mới kéo dài thâu đêm suốt sáng với chỉ
20 bài tổ và một số bài phổ biến nhƣng ngƣời nghe lẫn ngƣời chơi vẫn không
thấy chán. Theo Trần Văn Khê: "Đờn ca tài tử là một nghệ thuật tức hứng,
chơi khơng có tính trước, khơng ai nói trước với ai, khi những người có cùng


24

sở thích ngồi lại với nhau cùng chơi, cùng tức hứng tại chỗ thì họ bắt đầu thả
hồn, hịa nhịp vào tiếng đàn, lời ca đầy phấn khích” [29, tr.75].
Đờn ca tài tử là những cuộc chơi tao nhã của giới bình dân, của những
tâm hồn phong lƣu tìm bạn tri âm qua lời ca tiếng nhạc. Ngƣời chơi tài tử
chính thống khi ngẫu hứng sẽ đờn, cịn khơng hứng thì thơi, khơng ai có thể
mua đƣợc tiếng đờn của họ. Trong cuộc chơi, họ so tài cao thấp trong từng
ngón đờn, sự nhịp nhàng, bài bản, giọng ca... Và sau mỗi cuộc chơi, mỗi
ngƣời, mỗi nhóm trao đổi ý kiến, học hỏi thêm để tay đờn thêm chắc, giọng
hát thêm hay. Ngƣời ta có thể chơi Đờn ca tài tử mọi lúc mọi nơi: trong đám
hội, lúc nông nhàn, khi rảnh rỗi, ngồi bờ đê, cạnh bờ sơng hay là khi thả
thuyền trên sơng. Có khi đang làm việc ngồi đồng, thấy có nhóm đàn ca, liền
bỏ cuốc bỏ cày vào chung vui với mọi ngƣời quên cả công việc. Không ai quy
định một cuộc chơi tài tử phải có số lƣợng bao nhiêu và thời gian bao lâu. Bất
cứ ai biết đàn, biết ca có thể tham gia cuộc chơi đầy ngẫu hứng này. Cuộc so
tài càng cao, càng hấp dẫn thì ngƣời xem càng cổ vũ nồng nhiệt. Một cuộc
chơi tài tử ít nhất cũng vài tiếng đồng hồ, có khi kéo tới hai, ba ngày. Ai đờn
mệt, ca mệt thì ra nghỉ, ngƣời khác vào chơi thay, xong thì lại vào chơi tiếp,

chơi tới hết ngƣời thì thơi. Vì tính tài tử đó mà Đờn ca tài tử dễ bị hiểu lầm là
bình dân, khơng chun nghiệp.
Mặc dù bắt nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế nhƣng dàn nhạc tài tử
khơng bị ràng buộc, gị bó vào những định chuẩn về chủng loại, số lƣợng
nhạc khí, hay về thể thức và trình tự diễn tấu cũng nhƣ chƣa có quy định cụ
thể nào về biên chế một dàn nhạc tài tử ổn định. Đờn ca tài tử Nam Bộ có khi
đờn một mình (độc chiếc), độc tấu đờn kìm, đờn tranh. Nhƣng thƣờng thì ít
nhất có hai cây đờn khác nhau về âm sắc cùng hòa với nhau. Thƣờng thấy
nhất là song tấu đờn kìm và đờn tranh, đó là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng
sắt mà giới chuyên môn gọi là “sắt cầm hảo hiệp”, hoặc song tấu đờn tranh


25

và đờn cị. Tam tấu với ba cây: đờn kìm, đờn tranh và đờn cị; hoặc đờn kìm,
đờn tranh và độc huyền gọi là tam chi liên hoàn pháp. Năm cây: đờn kìm, đờn
tranh, đờn cị, độc huyền cầm và ống tiêu hịa với nhau thì gọi là ngũ tuyệt.
Một điểm đặc biệt của nhạc tài tử là lối đàn ngẫu hứng - tƣơng tự lối
chơi ngẫu hứng trong nhạc jazz của phƣơng Tây. Cũng cùng một lòng bản,
nhƣng mỗi nhạc khí có kỹ thuật biểu diễn khác nhau và tạo nên nét đặc trƣng
độc đáo với một số kỹ thuật nhƣ: rung, nhấn, luyến, láy, vuốt, mổ... và kỹ
thuật về âm hình, tiết tấu. Dựa trên bài bản truyền thống của nhạc tài tử, kết
hợp với sự vận dụng nhuần nhuyễn các kỹ thuật, ngƣời nghệ sĩ sẽ sáng tạo ra
một bài nhạc mới, tức thời, biến hóa tiết tấu, thay đổi cƣờng độ, tạo chỗ
ngƣng nghỉ để cho ra một bè đàn có tính cách riêng, nhƣng đồng thời phải hòa
hợp với những nghệ sĩ cùng diễn khác. Lối hòa đàn nhƣ vậy của Đờn ca tài tử
đƣợc các nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam gọi là lối “hịa tấu biến hóa lịng
bản”. Chính vì thế mà mỗi lần nghe lại cùng bản đàn, khán thính giả ln
ln thấy mới lạ và hài hịa.
Nếu nói Đờn ca tài tử là nghệ thuật của sự trình diễn âm nhạc ngẫu

hứng và sáng tạo, thì “Rao” là phần mang tính ngẫu hứng nhiều hơn hết trong
tồn bộ phần ứng tác ngẫu hứng của các nhạc công khi diễn, tấu nhạc tài tử.
Rao là đoạn nhạc ngẫu hứng tự do, đƣợc nhạc công diễn tấu trƣớc khi vào
một bản đàn hay một bản hòa ca. Nội dung câu “rao” gần gũi với bản đàn sắp
diễn tấu, với mục đích là để chỉnh lại dây đàn cho đúng. Đồng thời, ngƣời
nhạc sĩ cũng muốn dùng câu “rao” để gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo khơng
khí cho dàn hịa tấu, chuẩn bị hình tƣợng âm nhạc cho ngƣời thƣởng thức.
Câu “rao” trong nhạc truyền thống miền Nam và Đờn ca tài tử khác
hẳn so với những bài “dạo” của miền Trung. Câu “rao” miền Nam phóng túng
hơn nhiều. Mỗi ngƣời thầy có một cách “rao”, lúc đầu thì học trị đờn theo
thầy, nhƣng khi học trị đạt đến trình độ nghệ thuật nhất định, thầy cho phép


×