Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tiểu luận cao học hệ thống chính trị với quản lý xã hội tư tưởng hồ chí minh về quản lý xã hội bằng nhà nước và pháp luật ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.89 KB, 45 trang )

TIỂU ḶN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đề tài :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MÌNH VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI BẰNG NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
tổng kết và vận dựng các tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh phục vụ cách
mạng trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là một bộ phận cấu thành của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, với những nội dung nổi bật là: Xây dựng pháp luật để thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; Ban hành pháp luật để tổ
chức bộ máy nhà nước, thực hiện một nhà nước pháp quyền; Ban bố pháp luật
để công bố các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Nghiêm trị bằng pháp luật
các tội phạm và vi phạm pháp luật; Pháp luật phục vụ cho công cuộc kháng
chiến và kiến quốc.
Tư tưởng về nhà nước và pháp luật là kim chỉ nam cho xây dựng nhà
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật Việt Nam qua từng
giai đoạn cách mạng. Hiện nay, trong quá trình đổi mới Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vận dựng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kết tinh giá trị nhân loại và tư tưởng về nhà
nước và pháp luật của Hồ Chí Minh.
Ngoai ra, trong các giai đoạn cách mạng Lào, Đảng nhân dân cách
mạng Lào và các lãnh đạo của Lào ln học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí


Minh về nhà nước và pháp luật vào thực tiễn cách mạng Lào. Học tập những
giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật vận dụng sáng tạo vào

1


điều kiện đất nước Lào để trở thành những phương hướng và giá trị xây dựng
nhà nước Lào trên nền tảng pháp luật.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, em chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quản lý xã hội bằng nhà nước và pháp luật ở Việt Nam” để làm
tiểu luận kết thúc học phần hệ thống chính trị với quản lý xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là vấn đề quan trọng
được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau
trong đó có các cơng trình tiêu biểu là:
Bài viết Một số vấn đề của tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật (2009)
của tác giả Bùi Thị Ngọc Mai đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước Số
7/2009. Bài viết đã phân tích những tư tưởng chính của Hồ Chí Minh về pháp
luật.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2014) của Bộ Giáo dục và Đào tạo
được Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản. Cuốn sách đã tổng kết những giá trị về
tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về nhà nước và pháp luật.
Bài viết Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay của tác giả
Hoàng Thị Kim Quế. Bài viết đã phân tích những nét đặc thù trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật từ đó vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật trong thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật - nền tảng tư
tưởng chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng (2020) của tác giả Lê Vĩnh Tân đăng trên tạp chí điện tử


2


Tổ chức nhà nước. Bài viết đã tổng hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật từ đó phân tích q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật vào xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật đề
rút ra những giá trị và quá trình vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Đánh giá vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Phân tích q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật của Đảng cộng sản Việt Nam.
4. Đối tưởng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Phạm vi nghiên cứu
Tại nước Cộng hòa Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1945 đến nay)
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
3


Phương pháp cụ thể: Vận dụng tổng hợp các phương pháp hệ thống,
phân tích tài liệu, lơgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh…


4


II. NỘI DUNG

2.1. Một số vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp luật
2.1. Lý luận chung về nhà nước
Khái niệm nhà nước
Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh
thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật
nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà
nước là một tổ chức đặc biệt, nên so với các tổ chức khác, Nhà nước có các
dấu hiệu đặc trưng, cơ bản sau: phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ khơng phụ thuộc vào giai cấp, dân tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị
xã hội, nghề nghiệp; có bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao
gồm quân đội, cảnh sát, Tồ án và một đội ngũ cơng chức chuyên nghiệp làm
nhiệm vụ cai trị, quản lí xã hội; có chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ
của đất nước mình, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước về đối
nội cũng như đối ngoại; có quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong xã hội, với tư cách là
một công cụ đắc lực trong cai trị, quản lí xã hội; có quyền quy định các loại
thuế mang tính bắt buộc đối với cá nhân và tổ chức trong xã hội nhằm thiết
lập nguồn tài chính ni bộ máy cơng quyền và thực hiện các chức năng của
mình
Vì vậy có thể hiểu nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị
của giai cấp thống trị trong xã hội.

5



Nguồn gốc nhà nước
Có nhiều quan điểm, học thuyết khác nhau về nguyên nhân, điều kiện
dẫn đến sự ra đời của nhà nước như: Học thuyết bạo lực cho rằng chiến tranh
giữa các bộ lạc, sự chính phục của bộ lạc này đối với bộ lạc khác chính là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước; Học thuyết tơn giáo (Thiên
Chữa giáo, Nho giáo, Hồi giáo...) giải thích nguồn gốc siêu nhiên của nhà
nước. Họ cho rằng Nhà nước ra đời là do ý muốn của thượng đế. Người làm
vua của một nước là người do thượng đế lựa chọn, là người “thế thiên hành
đạo, trị quốc an bang”; Học thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước ra đời là do
sự hình thành và phát triển của gia đình. Mỗi gia đình có một người đứng đầu
- người đó là gia trưởng, mỗi dịng tộc có một người đứng đầu - người đó là
tộc trưởng. Nhà nước cũng như gia đình, dịng tộc cần có một người đứng đầu
để lãnh đạo, cai quản - người đó là hồng đế; Học thuyết “Khế ước xã hội”
của Ruxô (Jean Jacques Rousseau) thì xem Nhà nước là sản phẩm của sự thoả
thuận của các thành viên trong xã hội về việc thành lập một tổ chức điều hòa
các mối quan hệ xã hội vì lợi ích của tất cả cộng đồng. Học thuyết “Khế ước
xã hội” có những hạt nhân hợp lí và là học thuyết phổ biến ở các nhà nước tư
sản về nguồn gốc nhà nước. Các học thuyết trên đây hoặc là sai lầm hoặc là
xem xét chưa thật đầy đủ, toàn diện nguyên nhân, điều kiện ra đời của Nhà
nước.
Học thuyết Mác - Lênin xem xét nguồn gốc ra đời của nhà nước gắn
liền với sự phát triển của kinh tế, xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy,
do công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thất nên con người không tạo
ra được của cải dư thừz khơng có sở hữu tư nhân. Khi con người biết chế tạo
ra các công cụ lao động bằng đồng, bằng sắt, năng suất lao động cao hơn,
xuất hiện của cải dư thừa, sở hữu tư nhân xuất hiện. Dần dần có sự phân cơng
lao động trong xã hội, xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp, xuất hiện
6



người bóc lột và người bị bóc lột. Các xung đột trong xã hội ngày càng gay
gắt và quyết liệt hơn. Tổ chức thị tộc, bộ lạc khơng cịn phù hợp để quản lí xã
hội. Xã hội cần có một tổ chức quyền lực đặc biệt đủ sức mạnh để điều hòa
các mối quan hệ trong xã hội. Tổ chức đó ra đời chính là nhà nước. Như vậy,
nhà nước ra đời do hai nguyên nhân:
Thứ nhất, nguyên nhân kinh tế là sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất;
Thứ hai, nguyên nhân xã hội là sự ra đời các giai cấp đối kháng cũng
như sự mâu thuẫn giữa chúng phát triển đến mức không thể điều hồ được
một cách tự nhiên mà cần có một bộ máy đặc biệt có sức mạnh cưỡng chế, bộ
máy đó chính là Nhà nước.
Bản chất nhà nước
Thứ nhất, tính chất giai cấp của nhà nước
Đi từ sự phân tích nguồn gốc Nhà nước các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin cho rằng nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có
giai cấp và ln mang tính chất giai cấp sâu sắc. Làm rõ tính chất giai cấp của
Nhà nước phải giải đáp được câu hỏi: Nhà nước do giai cấp nào tổ chức ra và
lãnh đạo, nhà nước tồn tại và hoạt động trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp
nào trong xã hội.
Nghiên cứu nguồn gốc ra đời của nhà nước, các nhà tư tưởng khẳng
định: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
khơng thể điều hịa được. Nhà nước trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của
giai cấp này đối với giai cấp khác là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị giai cấp xét về nội dung thể hiện ở 3
mặt: kinh tế, chính trị và tư tuởng. Để thực hiện sự thống trị của mình, giai
7


cấp thống trị phải tổ chức và sử dụng nhà nuớc, củng cố và duy trì quyền lực

về chính trị, kinh tế và tư tưởng đối với toàn xã hội. Bằng nhà nước, giai cấp
thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị, ý chí của giai cấp
thống trị được thể hiện một cách tập trung và biến thành ý chí nhà nước, bắt
buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo, các giai cấp, các tầng lớp
dân cư phải hành động trong một giới hạn và trật tự phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị.
Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là cơng cụ sắc bén nhất
duy trì sự thống trị giai cấp, đàn áp lại sự phản kháng của các giai cấp bị
thống trị, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Do nắm được quyền
lực nhà nước, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị biến thành hệ tư tưởng thống
trị trong xã hội. Trong các xã hội bóc lột, nhà nước có thuộc tính chung là bộ
máy đặc biệt duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng của thiểu số
đối với đa số là nhân dân lao động, thực hiện nền chun chính của giai cấp
bóc lột. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, là cơng cụ thực
hiện nền chun chính và bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một bộ máy thống trị của đa số với
thiểu số.
Thứ hai, tính xã hội của nhà nước
Nhà nước ngồi tính cách là cơng cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị, cịn phải là một tổ chức quyền lực công, là phương
thức tổ chức bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Nhà nước khơng chỉ phục vụ
lợi ích của giai cấp thống trị mà còn đứng ra giải quyết những vấn đề nảy sinh
từ trong đời sống xã hội, bảo đảm trật tự chung, sự ổn định, bảo đảm các giá
trị chung của xã hội để xã hội tồn tại và phát triển. Như vậy nhà nước khơng
chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà phải bảo đảm lợi ích của các

8


giai tầng khác trong xã hội khi mà những lợi ích đó khơng mâu thuẫn căn bản

với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng của nhà nước
Chức năng của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhiệm vụ của
Nhà nước. Nhiệm vụ, cơng việc phải làm, vì một mục đích và trong một thời
gian nhất định, là sự cụ thể hoá chức năng - phương hướng hoạt động của nhà
nước trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước trên từng lĩnh vực quan hệ,
sinh hoạt xã hội nhất định. Do chức năng của Nhà nước xuất phát từ bản chất
giai cấp, vai trò, sứ mệnh xã hội của Nhà nước nên chức năng là một phạm trù
tồn tại thường trực, và có tính lâu dài. Một kiểu nhà nước đang tồn tại thì các
chức năng của nó vẫn hoạt động, vận hành. Nhiệm vụ cụ thể hoá chức năng
của Nhà nước trên từng giai đoạn phát triển của Nhà nước thì có thể thay đổi,
khi nhiệm vụ lịch sử được đặt ra trước nhà nước đã hoàn thành. Đối với nhà
rước xã hội chủ nghĩa chẳng hạn, có chức năng tổ chức, phát triển, quản lí nền
kinh tế xã hội được cụ thể hoá thành nhiệm vụ có tính chiến lược, lịch sử là
tiến hành cơng nghiệp hoá đối với một giai đoạn phát triển nhất định, có thể
kéo dài nhiều thập kỉ, nhưng vẫn là chỉ ở một giai đoạn phát triển nhất định.
Chức năng của Nhà nước có thể được phân chia thành chức năng đối
nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu
của Nhà nước về mặt đối nội như chức năng chính trị, chức năng kinh tế,
chức năng quản lí văn hố, giáo dục, chức năng quản lí khoa học, kĩ thuật và
cơng nghệ, chức năng bảo vệ các quyền công dân và quyền con người; chức
năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chức năng đối ngoại là
những hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong quan hệ với các quốc gia, các
dân tộc và các tổ chức quốc tế như phòng thủ đất nước, thiết lập các quan hệ

9


ngoại giao và hợp tác quốc tế, đấu tranh vì hồ bình, tiến bộ và dân chủ trên
phạm vi tồn thế giới.

2.2.2. Lý luận chung về pháp luật
Khái niệm pháp luật
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
khái niệm pháp luật được thể hiện bằng 4 ý cơ bản gồm:
Thứ nhất, pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung
Nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm phổ biến. Tức là nói đến
tính khn mẫu, mực thước, mơ hình xử sự có tính phổ biến chung. Trong xã
hội khơng chỉ pháp luật có thuộc tính quy phạm. Đạo đức, tập qn, tín điều
tơn giáo, các điều lệ của các tổ chức chính trị - xã hội và đồn thể quần chúng
đều có tính quy phạm. Cũng như pháp luật, tất cả các quy phạm trên đều là
khuôn mẫu, quy tắc xử sự của con người. Nhưng khác với đạo đức, tập qn,
tín điều tơn giáo và điều lệ, tính quy phạm của pháp luật mang tính phổ biến.
Đây chính là dấu hiệu để phân biệt pháp luật và các loại quy phạm nói trên.
Thuộc tính quy phạm phổ biến của pháp luật thể hiện ở chỗ:
Một là, khuôn mẫu chung cho nhiều người.
Hai là, được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian rộng lớn.
Sở dĩ pháp luật có tính bắt buộc chung vì pháp luật do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện thống nhất. Tính bắt buộc chung thể hiện ở chỗ:
10


Một là, việc tuân theo các quy tắc pháp luật không phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của mỗi người. Bất kỳ ai dù có địa vị, tài sản, chính kiến, chức
vụ như thế nào cũng phải tuân theo các quy tắc pháp luật.
Hai là, nếu ai đó khơng tn theo các quy tắc pháp luật thì tùy theo mức
độ vi phạm mà Nhà nước áp dụng các biện pháp tác động phù hợp để đảm

bảo thực hiện đúng các quy tắc đó.
Ba là, tính quyền lực nhà nước là yếu tố không thể thiếu, bảo đảm cho
pháp luật được tôn trọng và thực hiện.
Thứ hai, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận. Ngồi việc ban hành
Nhà nước cịn có thể thừa nhận những tập quán trong xã hội bằng cách pháp
điển hóa, ghi nhận trong luật thành văn.
Thứ ba, đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Pháp luật được
nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó các biện pháp
cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền, phạt tù có thời hạn, tù
chung thân… Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được
các tổ chức và cá nhân tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả trong
đời sống xã hội.
Thứ tư, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Cũng giống
như bản chất của nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính
giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể
hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành.

11


Nguồn gốc của pháp luật
Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng
lịch sử cơ bản nhất của đời sống chính trị xã hội, là hai người bạn đồng hành
có số phận lịch sử như nhau cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng
tiêu vong khi nhân loại đã tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là

những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật: một là sự phát triển của nền kinh
tế trong xã hội nguyên thủy từ chỗ vô cùng thấp kém, lạc hậu và chế độ sở
hữu chung đến chỗ dần dần có của cải dư thừa và xuất hiện chế độ chiếm hữu
tư nhân (tư hữu) về tư liệu sản xuất và của cải làm ra; hai là, sự phân hóa xã
hội thành những tầng lớp, giai cấp có lợi ích đối kháng nhau và mâu thuẫn
giai cấp, đấu tranh giai cấp phát triển đến mức không thể điều hòa được.
Bản chất của pháp luật
Cũng giống như bản chất của nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện
trước hết ở tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước
của giai cấp thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều
kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được
cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành.
Tính giai cấp của pháp luật cịn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các
quan hệ xã hội, pháp luật là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã
hội nhằm định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu,
một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị
của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó pháp luật chính là cơng cụ thể hiện sự
thống trị của giai cấp.

12


Bên cạnh tính giai cấp, khơng thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp
luật vì trong cuộc sống hàng ngày các cá nhân và tổ chức có mối quan hệ với
nhau rất đa dạng được thể hiện qua những hành vi xử sự khác nhau. Xã hội
thông qua nhà nước ghi nhận những cách xử sự hợp lý, khách quan được số
đông chấp nhận phù hợp với lợi ích của số đơng trong xã hội, cách xử sự này
được nhà nước thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật. Giá trị xã hội
của pháp luật còn được thể hiện ở chỗ một quy phạm pháp luật vừa là thước

đo của hành vi con người vừa là cơng cụ kiểm nghiệm các q trình, các hiện
tượng xã hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các q trình xã
hội. Ngồi ra pháp luật cịn có tính dân tộc, tính mở.
Thuộc tính của pháp luật
Tính quy phạm phổ biến (tính bắt buộc chung): Pháp luật có đối tượng
điều chỉnh rộng hơn các quy phạm xã hội khác, pháp luật lại là khuôn mẫu xử
sự cho các hành vi nên nó có tính bắt buộc với tất cả mọi người. Điều này tạo
nên hiệu lực lớn của pháp luật trong quản lý xã hội. Các quy phạm pháp luật
được áp dụng nhiều lần trong không gian và thời gian, tính phổ biến của pháp
luật dựa trên ý chí của nhà nước “được đề lên thành luật”, pháp luật làm cho ý
chí này có tính chất chủ quyền duy nhất trong một quốc gia.
Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Là sự thể hiện nội dung pháp
luật trong những hình thức nhất định, nội dung của pháp luật phải được xác
định rõ ràng, chặt chẽ điều này nhằm bảo đảm nguyên tắc “bất cứ ai được đặt
vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác được”. Nội dung của pháp
luật phải được quy định rõ ràng, chặt chẽ, khái quát trong các khoản của mọi
điều luật, trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và tồn bộ hệ thống
pháp luật nói chung. Nếu các quy phạm pháp luật quy định không đủ, khơng
rõ, khơng chính xác thì sẽ tạo ra những kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng,

13


những hành vi vi phạm pháp luật như tham ô, lãng phí, phá hoại… Như vậy
nội dung của pháp luật phải được biểu hiện bằng ngôn ngữ pháp luật rõ ràng,
chính xác dưới hình thức nhất định của pháp luật.
Tính được đảm bảo bằng nhà nước: Khác với các quan hệ xã hội khác
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận vì vậy được nhà nước bảo
đảm thực hiện, điều đó có nghĩa là nhà nước đã trao cho các quy phạm pháp
luật tính quyền lực bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Pháp

luật đã trở thành quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Tùy theo các mức độ
mà nhà nước áp dụng các biện pháp khác nhau như tổ chức, khuyến khích kể
cả biện pháp cưỡng chế cần thiết để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
đúng.
2.2. Quản điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp
luật
2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp
quyền
Năm 1994, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” chính thức được sử dụng
trong văn kiện của Đảng. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994)
lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và
nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Trong Văn kiện hội nghị đã nêu nhiệm vụ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” với nội
dung như sau: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó là, những quan điểm cơ bản về các nội
dung chủ yếu của phạm trù Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
14


do dân, vì dân đã được xác lập, đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai các quan
điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong những
giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, Đảng ta
đã phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Mặt khác, khi phân tích
ngun nhân yếu kém trong xây dựng Nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ: “Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi
nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc
phải làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Đảng ta tiếp tục chủ
trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xác định bản chất
của nhà nước. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ
trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương
mở rộng dân chủ - là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Như vậy, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định xây dựng Nhà nước
pháp quyền là vấn đề có tính quy luật trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Điểm nổi bật là quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp
quyền của Đảng ta đã được thể chế hóa tại điều 2, Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X (2006), Đảng ta khẳng định: “Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế vận

15


hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng ta tiếp tục nêu
rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta tiếp tục đúc kết
quan điểm nhất quán của Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong
giai đoạn phát triển mới. Báo cáo chính trị trình Đại hội XII xác định: “Xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng
bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh
tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và
cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước. Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi
quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm
của mỗi quyền”.

16


2.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống pháp
luật
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những
tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được
đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp
lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp

quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công
tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ
đó đã góp phần thể chế hố đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội của đất nước.
Trong nghị quyết 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam của Bộ chính trị năm 2005 đã nêu rõ các quan điểm
của Đảng Cộng sản về hệ thống pháp luật cụ thể:
Về mục tiêu
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản
cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trị và hiệu lực của pháp
luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế,
hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của cơng dân, góp phần đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
17


Về quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng,
cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá - xã hội, giữ vững
quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế,
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền,

an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài
hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ
thống pháp luật.
Thứ tư, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật.
Thứ năm, tiến hành đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
với những bước đi vững chắc; coi trọng số lượng và chất lượng, có trọng tâm,
trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành
của pháp luật.
Về định hướng
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà

18


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm
là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục - đào tạo, khoa
học - cơng nghệ, y tế, văn hố - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số,
gia đình, trẻ em và chính sách xã hội.
Thứ năm, xây dựng và hồn thiện pháp luật về quốc phịng và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Thứ sau, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế

2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội bằng nhà nước và
pháp luật
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh
về quản lý xã hội bằng nhà nước và pháp luật
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là một bộ phận cấu
thành của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với những nội dung nổi bật là: Xây dựng pháp
luật để thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; Ban hành
pháp luật để tổ chức bộ máy nhà nước, thực hiện một nhà nước pháp quyền;
Ban bố pháp luật để công bố các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Nghiêm
trị bằng pháp luật các tội phạm và vi phạm pháp luật; Pháp luật phục vụ cho
công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật được hình thành và phát triển gắn liền với các dấu mốc lịch sử trong
19



×