Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.19 KB, 38 trang )

Vai trò và ý nghĩa của những phát
minh lớn về kỹ thuật của nền văn
minh Trung Quốc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương Pháp nghiên cứu 3
6. Đóng góp của đề tài 3
7. Cấu trúc của đề tài 3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC 4
1.1. Giới thuyết thuật ngữ 4
1.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn minh 4
1.1.2. Khái niệm về vai trò và ý nghĩa 5
1.2. Vài nét về lịch sử và những thành tựu của nền văn minh
Trung Quốc 5
1.2.1. Về lịch sử 5
1.2.2 Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc 9
Chương 2: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG PHÁT MINH LỚN
VỀ KỸ THUẬT CỦA NẾN VĂN MINH TRUNG QUỐC 18
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến những thành tựu về khoa học kỹ thuật
của văn minh Trung Quốc 18
2.1.1. Yếu tồ về điều kiện tự nhiên 18
2.1.2. Yếu tố về kinh tế, xã hội 19
2.2 Những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc 22
2.2.1 Giấy 22
2.2.2 In 24
2.2.3 La bàn 25


2.2.4 Thuốc súng 26
2.3 Vai trò của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh
Trung Quốc 27
2.3.1 Vai trò đối với đất nước Trung Quốc 27
2.3.2 Vai trò đối với Thế giới 29
2.4 Ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh
Trung Quốc 31
2.4.1 Ý nghĩa đối với đất nước Trung Quốc 31
2.4.2 Ý nghĩa đối với Thế giới 32
PHẦN KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay phần đông các nhà khoa học công nhận một thực tế rằng tất cả các
nền văn minh đều hình thành, phát triển và suy tàn. Nhưng văn minh nhân loại là
phát triển không ngừng bởi vì nó kế thừa những di sản của các nền minh suy tàn
trước đó để lại như một quy luật bất biến của lịch sử nhân loại. Qua đó, ta nhận
thức được rằng, các nền văn minh dù lớn hay nhỏ thì cũng là thành quả sáng tạo
của con người. Sự hình thành và phát triển của các nền văn minh với những
thành tựu của nó đã khẳng định được vai trò to lớn của con người, của quần
chúng lao động chứ không phải do tự nhiên mà có. Những thành tựu văn minh là
kết quả chung của loài người đã sáng tạo nên qua bao thế hệ, trở thành kho tàng
tri thức chung của mọi cộng đồng được tích lũy trong suôt tiến trình lịch sử.
Trung Quốc là một trong những nền văn minh lâu đời và có tính liên tục
nhất trên thế giới. Lịch sử Trung Quốc là lịch sử của một nền văn minh vô cùng
độc đáo tuy ra đời sau các nền văn minh khác như văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà,
Ấn Độ… nhưng tồn tại lâu nhất. Nền văn minh Trung Quốc đã cống hiến cho
nhân loại những thành tựu hết sức to lớn như: chữ viết, văn hóa, kiến trúc, tư
tưởng, Trong số những thành tựu đó thì bốn phát minh lớn về kỹ thuật đã
khẳng định được bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật của văn minh Trung Quốc

nói riêng và nhân loại nói chung. Bốn phát minh lớn này không chỉ có vai trò và
ý nghĩa lớn đối với thời đại xưa, mà nó còn được nhân loại không ngừng cải tiến
phục vụ cho nhu cầu của con người thời đại ngày nay.
Nhận thức được điều đó nên chúng tôi chọn đề tài “Vai trò và ý nghĩa của
những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc”. Để một lần
khẳng định những đóng góp, vai trò to lớn của nền văn minh Trung Quốc đối với
nền văn hóa, văn minh nhân loại. Qua việc tìm hiểu những phát minh đó cũng
cho phép chúng tôi hiểu hơn về con người và đất nước Trung Quốc. Qua đó, có
cái nhìn về nền văn hóa, văn minh dân tộc ta trong sự đối sánh với nền văn minh
Trung Quốc.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về nền văn minh Trung Quốc ở nước ta, từ xưa đã có nhiều công
trình nghiên cứu khác nhau có giá trị lớn. Trong đó, tập trung nhiều nhất là các
công trình nghiên cứu tập trung về vấn đề lịch sử, tư tưởng… hoặc đó là các công
trình nghiên cứu về văn hóa, văn minh dân tộc Việt Nam trong quá trình tiếp biến
với nền văn hóa, văn minh Trung Quốc.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nền văn minh Trung Quốc, đặc biệt là những
thành tựu của nền văn minh này trong thời kỳ cổ đại thì lại còn rất hạn chế, chỉ
mới bắt đầu trong vài thập kỷ trở lại đây. Đã có một số công trình nghiên cứu có
giá trị như: Đàm Gia Kiện (1993), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội. Đỗ Đình Hãng (1993), Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, tập II:
Văn minh Trung Quốc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Hoàng Minh Thảo
(1997), Almanach những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Vũ Dương Minh (2007), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục… Những công
trình trên bước đầu đã chỉ ra được những thành tựu của nền văn minh Trung
Quốc, trong đó có dành các bài viết nhỏ nói về bốn phát minh lớn về kỹ thuật của
nền văn minh Trung Quốc. Chứ chưa có một tác giả nào dành thời gian, công sức
và tâm huyết để xây dựng một công trình chuyên sâu về bốn phát minh lớn này.
Cũng chính vì vậy, việc nghiên cứu về “Vai trò và ý nghĩa của những phát
minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc”. Đang còn là một vấn đề

khá mới mẻ. Kế thừa từ những bài viết nhỏ của các công trình trên về việc bước
đầu đã liệt kê, phân tích… bốn phát minh lớn đó của văn minh Trung Quốc.
Chúng tôi muốn xây dựng một bài viết chuyên sâu hơn về vai trò và ý nghĩa của
bốn phát minh lớn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài “Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ
thuật của nền văn minh Trung Quốc”, trong bài luận này chúng tôi nhằm các mục
đích sau:
- Chỉ ra và khẳng định bốn phát minh lớn về kỹ thuật của văn minh Trung
Quốc.
- Phân tích vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn này, đối với văn minh
Trung Quốc nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
- Qua việc tìm hiểu vai trò và ý nghĩa của bốn phát minh lớn đó, để hiểu hơn
về con người và văn hóa Trung Quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ
thuật của nền văn minh Trung Quốc.
- Phạm vi nghiên cứu: Do những hạn chế nhất định, nên ở đề tài này
chúng tôi không thể đi sâu vào những thành tựu về kỹ thuật của nền văn minh
Trung Quốc. Mà chỉ tìm hiểu, nghiên cứu về bốn phát minh lớn về kỷ thuật: giấy,
nghề in, la bàn và thuốc súng. Từ đó, tập trung chỉ ra vai trò và ý nghĩa của bốn
phát minh lớn này đối với nền văn hóa văn minh Trung Quốc và thế giới.
5. Phương Pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài tiểu luận này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh, liên ngành
6. Đóng góp của đề tài
- Công trình nghiên cứu này đóng góp vào công trình nghiên cứu về vai trò

và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc
và kho tàng tri thức của nhân loại.
- Việc nghiên cứu đề tài này góp phần giúp cho sinh viên có những hiểu biết
sâu sắc hơn về những phát minh lớn về kỹ thuật cuả văn minh Trung Quốc. Từ
đó hiểu thêm về nền văn minh Trung Quốc và con người nơi đây.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận ra, bài tiểu luận của chúng tôi chia
thành hai chương.
Chương 1: Tổng quan về nền văn minh Trung Quốc
Chương 2: Vai trò và ý nghĩa của những phát minh lớn về kỹ thuật của nền
văn minh Trung Quốc
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ NỀN VĂN MINH TRUNG QUỐC
1.1. Giới thuyết thuật ngữ.
1.1.1. Khái niệm về văn hóa và văn minh
Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài
người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hoá. trái với văn minh là dã
man.
Ví dụ: Văn minh Phương Đông, văn minh Hy Lạp…
Thuật ngữ “civilazation” còn có nghĩa là hoạt động khai hoá làm thoát khỏi
trạng thái nguyên thuỷ.
Như vậy , khi định nghĩa văn minh người ta buộc phải đề cập đến khái niệm
“văn hoá”. Vậy văn hoá là gì? Hiện nay đa số học giả đều cho rằng “văn hoá là
tổng thể nhữmg giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử. Nói khác đi, tất cả những cái gì không phải là tự nhiên thì là văn
hoá.
Như vậy chúng ta có sự phân biệt giữa văn minh và văn hoá
Văn minh là khái niệm chỉ trình độ hiện thực hoá khả năng con người thành
sức mạnhvật chất và tinh thần để khám phá và chiêm nghiệm và đánh giá thế
giới. Do đó, khi đánh giá văn minh của một cộng đồng nào đó là đánh giá trình

độ phát triển của cộng đồng đó.
Văn minh mang tính chất động (biến động của lịch sử) – cái chuyển biến,
đổi mới, sáng tạo còn văn hoá mang tính tĩnh (hằng số/ mẫu số/ ổn định/ bảo tồn
thông qua tất cả giá trị biến động)
Văn minh mang tính quốc tế, mọi thành tựu của sự sáng tạo về nguyên tắc
đều có thể được truyền bá, thâm nhập phổ biến từ cộng đồng này sang cộng đồng
khác. Văn hoá được giữ gìn, bảo tồn tôn vinh bản sắc của mỗi chủi thể /dân tộc,
cộng đồng. Văn minh trừu xuất đi tất cả những gì là sắc thái riêng, độc đáo để
hướng tới sự chú ý vào trình độ phát triển của từng cộng đồng trong tương quan
với các cộng đồng khác.
Văn hoá và văn minh đều là những giá trị. Những giá trị tiêu cực của văn
minh là những giá trị phái sinh chứ không phải giá trị tự thân. Ví dụ thuốc súng,
vũ khí, tự thân chúng là những tiến bộ về phương diện văn minh. Ví dụ : Văn
minh sông hồng – Cái đặc trưng cho nền văn minh Sông Hồng về mặt văn minh
lại không phải là cách thức hoạt động sống mà là trình độ của hoạt động sống. Đó
là không phải mọi cộng động vào lục đương thời đều đã đạt đến trình độ biết
canh tác lúa nước, tức là biết làm chủ được những quy luật phức tạp của hoạt
động vật chất lúc bấy giờ
1.1.2. Khái niệm về vai trò và ý nghĩa
Vai trò là tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì trong sự hoạt động, sự phát
triển chung của một tập thể, một tổ chức (Từ điển tiếng việt)
Ở khái niệm này chúng ta đề cập đến hai vấn đề : tác dụng và chức năng.
Tác dụng được hiểu là những cái tác động đến sự vật và làm cho ít nhiều biến đổi
tạo nên kết quả của tác động. Chức năng là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc
đặc trưng của một người nào đó, một cái gì đó.
Như vậy với đề tài này chúng ta hiểu vai trò của bốn phát minh lớn về kĩ
thuật của Trung Quốc là nói tới tác dụng, chức năng của bốn phát minh đó trong
sự hoạt động, sự phát triển chung của Trung Quốc và của toàn thể nhân loại.
Ý nghĩa là giá trị nội dung chứa đựng trong sự vật đối với một cộng đồng
nào đó và toàn thể nhân loại. Để tìm hiểu được ý nghĩa của bốn phát minh lớn về

kĩ thuật của văn minh Trung Quốc chúng ta phải tìm hiểu giá trị nội dung chứa
đựng trong bốn phát minh đó đối với sự phát triển của đất nước Trung Quốc và
giá trị của nó đối với nhân loại.
1.2. Vài nét về lịch sử và những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc
1.2.1. Về lịch sử
Trung Quốc là đất nước có bề dày lịch sử lâu đời trải qua các thời kì lịch
sử : Thời kì tiền sử, thời kì cổ đại và thời kì trung đại.
1.2.1.1 Thời kì tiền sử
Thời tiền sử (thượng cổ) bắt đầu từ thiên niên kỷ X đến giữa thiên niên kỉ
II TCN, xã hội nguyên thuỷ hình thành và phát triển trên chặng đường tiến hoá
tới các xã hội văn minh.
1.2.1.2 Thời kì cổ đại
Nhà Hạ (XXI – XVII TCN)
Đây là nhà nước đầu tiên của thời kỳ xã hội cổ đại ở Trung Hoa.
Triều đại mở đầu thời kì chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Về kinh tế thời đại này
người Hạ đã biết chế tạo, sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng và có dấu
hiệu xuất hiện văn tự, các tri thức mới ở giai đoạn phôi thai. Lúc cường thịnh
nhất, nhà Hạ đã thống trị cả một vùng đất đai rộng lớn ở vùng trung lưu sông
Hoàng Hà. Vương triều trung ương theo chế độ thế tập, đóng đô ở Am ấp (nay
thuộc tỉnh Sơn Tây). Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp quý tộc, bộ máy quan lại,
nhà tù, quân đội đã được thiết lập tuy còn rất đơn giản. Mặc dù vậy, tổ chức thiết
chế xã hội của triều Hạ đã là một bước tiến lớn, là một tiêu chí để đánh dấu xã
hội Trung Quốc đã vượt qua giai đoạn “dã man” sang giai đoạn văn minh.
Nhà Thương (XVI – XII TCN)
Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr.CN, Thành Thang - người đứng đầu bộ tộc
Thương đã lật đổ vua Kiệt nhà Hạ, lập nên nhà Thương đặt đô ở đất Bạc (thuộc
tỉnh Hà Nam bây giờ). Đến thế kỷ XIV tr.CN, Bàn Canh dời đô về đất Ân (thuộc
huyện An Dương, Hà Nam ngày nay). Vì vậy nhà Thương còn gọi là nhà Ân
Triều. Nhà nước trung ương tập quyền của triều Thương được tổ chức chặt chẽ,
vua được đề cao. Các vua nhà Thương mở rộng lãnh thổ bằng cách chinh phục

các bộ lac xung quanh. Dưới triều Thương , lãnh thổ bao gồm cả hạ lưu và trung
sông Hoàng Hà.
Kinh tế bắt đầu phát triển tuy nhiên vẫn còn ở trình độ sản xuất còn thấp,
công cụ sản xuất còn lạc hậu (đồ sắt chưa phổ biến). Về văn hoá đã phát minh ra
chữ viết, đã quan sát được sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính chu kỳ lên
xuống của nước sông, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên “can” và “chi”. Về tư
tưởng, con người ở thời nhà Thương đã bước vào giai đoạn thờ tổ tiên thay cho
tín ngưỡng Tôtem giáo. Xã hội đã có sự phân hoá rõ rệt. Quý tộc, khi sống được
hưởng giàu sang, khi chết được chôn theo đồ dùng và nô lệ. Nhà Thương còn gọi
là nhà Ân vì ông vua cuối cùng là Bàn Canh đã dời đô sang đất Ân (vùng An
Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay).
Nhà Chu (XI – 221 TCN)
Khoảng thế kỷ XI tr.CN, Chu Vũ Vương – con trai Chu Văn Vương đã
diệt vua Trụ nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đô ở Thiểm Tây ngày nay, phía
tây nước Chu, gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Hình
thái kinh tế - xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm cơ bản sau:
Nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng đất) và sức lao
động. Về nguyên tắc, ruộng đất và mọi thành viên đều thuộc quyền quản lý của
vua nhà Chu. Trong xã hội có sự phân chia thành hai hạng người, đó là quân tử
(quý tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn). Sự phân công lao động, chia tách xã hội lần thứ
nhất chưa triệt để. Về tư tưởng có sự gắn chặt giữa thần quyền và thế quyền.
Triều Chu gắn với hai gia đoạn sau : Giai đoạn Tây Chu (XI – VIII TCN) và Giai
đoạn Đông Chu (VIII – 221 TCN).
Xã hội cổ đại Trung Quốc thời Tây Chu đạt đến sự phát triển rất lớn. Lãnh thổ
mở rộng ra toàn bộ phía Đông Trung Quốc.
Nhà nước Tây Chu được tổ chức chặt chẽ. Vua được gọi là Thiên tử. Vua
nhà Chu đã phong đất cho con em và vương thần để họ lập thành nược chư hầu
cai trị dân khắp nơi. Chư hầu có bổn phận triều kiến theo định kỳ và cống nạp
của cải, sản vật quý và con gái đẹp cho Thiên tử và theo sự điều động của Thiên
tử đi đánh dẹp các nơi khác.

Thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Đây là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến, còn gọi là thời Đông Chu, do Chu Bình Vương dời đô về phía Đông (Lạc
Dương, Hà Nam ngày nay).Thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN). Thời
Chiến Quốc (475 – 221 tr.CN): Về lực lượng sản xuất: Đồ sắt phát triển khá phổ
biến, kỹ thuật canh tác phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất
ngày càng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động
mạnh đến hình thức sở hữu ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng
trong xã hội.
Về chính trị: Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn được
tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực cátcứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình
trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải
thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà
nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó của
thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ sĩ”
luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội
tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm
thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã
sản sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn
chỉnh.
1.2.1.3 Thời trung đại
Thời kì trung đại nói chung là thời kì thống trị của các vương triều phong
kiến Trung Quốc thống nhất. Thời kì này bắt đầu từ nhà Tần (221 TCN) đến năm
1840 tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh thuốc phiện giưa Trung Quốc và Anh
lam cho Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong
kiến nửa thuộc địa
Trong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại

sau: Thời phong kiến thịnh trị bao gồm các triều Tần (221 -206), Hán (202
TCN – 220), Tuỳ (581 – 618), Đường (618 – 906), Tống (960 – 1279), và
Nguyên (1279 – 1368). Đây là giai đoạn văn minh Trung Quốc tiếp tục có những
đóng góp quan trọng cho nền văn minh nhân loại bởi những thành tựu rực rỡ như
học thuyết Tống Nho, thơ Đường, Vạn lí trường thành, Trường An, thuốc súng,
giấy, la bàn…
Thời phong kiến khủng hoảng và suy vong gồm các triều đại Minh (1368 –
1644) và Thanh (1644 – 1911). Trong thời nhà Thanh, Trung Quốc bbắt đầu suy
yếu do bị phương Tây xâm lược. Năm 1991, cách mạng Tân Hợi (CMTS) đã lật
đổ sự thống trị của triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ phong kiến ở Trung
Quốc.
Văn minh Trung Quốc trong thời kì này không còn đạt được được những
thành tựu và bước ngoặt lớn như trước nữa.
1.2.2 Những thành tựu của nền văn minh Trung Quốc
Trung Quốc là một nước do một dân tộc chủ thể là dân tộc Hoa (sau gọi là dân
tộc Hán) ập nên và tồn tại liên tục lâu dài trong lịch sử. Kể từ khi dựng nước về
sau, nhân dân Trung Quốc đã sáng tạo ra một nền văn hoá vô cùng rực rỡ so với
thế giới đương thời mà sau đây là những thành tựu chủ yếu :
1.2.2.1 Chữ viết
Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra
chữ viết. Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Quốc mới ra đời. Loại
chữ đầu tiên này khắc trên mai rùa và xương thú gọi là chữ Giáp cốt. Phương
pháp cấu tạo chữ Giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. Ví dụ : Chữ
“Nhật” vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm; Chữ “Sơn” vẽ ba đỉnh núi;
Chữ “Thủy” vẽ ba làn sóng.
Đến đời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản.
Chữ viết tiêu biểu thời kì này là Kim đỉnh văn (chữ viết được ghi trên chuông).
Thời Chiến Quốc : chữ viết được ghi trên thẻ tre gọi là chữ Tiểu triện. Chữ Hán
(chữ Nho), vẫn là chữ tượng hình nhưng đã được cải tiến trên cơ sở chữ Lệ có
đời cuối đời Tần Thuỷ Hoàng (216 – 206). Thời gian sử dụng chữ Lệ tuy không

lâu nhưng chữ Lệ có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để phát
triển thành chữ chân tức là chữ Hán ngày nay.
1.2.2.2 Văn học
Văn học Trung Quốc là một nền văn học rất phong phú và đa dạng, phát
triển linh hoạt qua mỗi thời, phản ánh chân thực mmõi thời kì lịch sử, mỗi vương
triều.
- Thời cổ đại, trước khi thống nhất các vương triều, văn học thời này quen
gọi là văn học tiền Tần, trong nền văn học Trung Quốc đã xuất hiện nhiều tác
phẩm kiệt xuất, trong đó nổi tiếng nhất là bộ Kinh thi và Sở từ.
Kinh thi là bộ tổng tập thơ ca đầu tiên của Trung Quốc, tập thơ cổ nhất
của văn học Trung Quốc được viết dưới thời Chu. Kinh thi gồm những bài thư,
ca dao, dân ca của nhân dân lao động và tầng lớp quý tộc(305 bài). Ngoài ra có 6
bài gọi là sinh thi (bài hát có tiếng sinh đệm theo) có đề mục mà không có lời.
Kinh thi chia là ba phần : Phong, Nhã , Tụng. Phong là dân ca cấc nước
(gồm 15 nước) nên gọi là Quốc Phong (15 Quốc Phong). Nhã là âm nhạc vùng
vương triều nhà Chu trực tiếp thống trị, do tầng lớp quý tộc sáng tác gồm Đại
Nhã (phản ánh sinh hoạt của tầng lớp quý tộc) và Tiểu Nhã (phản ánh sinh hoạt
của tiểu quý tộc). Tụng là loại thơ ca tán tụng công đức của các triều vua dùng
trong tế tự ở tông miếu và dùng để bói toán, gồm Thương Tụng, Chu Tụng và Lỗ
Tụng. Trong Kinh thi, Quốc Phong chiếm một nửa số bài và cũng là phần có giá
trị nhất của Kinh thi bởi giá trị nội dung , tư tưởng và nghệ thuật của nó. Trước
nhất nó phản ánh chân thực xã hội đương thời. Đây cũng là khởi điểm sáng chói
truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ Trung Quốc. Đặc biệt là
những bài dân ca trong đó “người đói ca hát về miếng ăn, người lao động ca hát
về công việc” đã phản ánh nhiều tư tưởng và tình cảm của nhân dân lao động,
phản ánh cảnh đói nghèo, cùng khổ đồng thời cũng diễn tả lòng căm ghét của
nhân dân đối với chiến tranh, tinh thần phản kháng đối với sự bóc lột. Bên cạnh
đó, trong Kinh thi còn có những bài phản ánh tình yêu, hôn nhân của quần chúng
đương thời (lớp giữa và lớp giữa xã hội), phản ánh tình cảm thẳng thắn, tình yêu
lành mạnh của họ; lại cũng có bài biểu hiện nỗi thống khổ của người phụ nữ do

những cuộc hôn nhân bất hợp lý đem lại
Những bài thơ trong “Nhã” và trong “Tụng” phản ánh các tầng lớp trong
giai cấp thống trị và tình trạng kinh tế, quân sự, chính trị của xã hội đương thời từ
nhiều góc độ. Ngoài ra, còn có một số bài lên tiếng chê trách tình trạng hôn
nhânquân, nịnh thầ, qua đó bộc lộ những nguy cơ xã hội.
Nghệ thuật biểu hiện của Kinh thi chủ yếu là tứ ngôn, phần lớn dùng hình
thức “trùng chương điệp cú”, cùng ngôn ngữ chất phác cách điều mới mẻ. Thư
pháp Kinh thi đã được người đời sau khái quát thành : Phú, Tỉ, Hứng.Kinh thi đã
ảnh hưởng rất sâu sắcđến văn học Trung Quốc sau này.
Kinh thi còn được dùng làm giáo trình cho nho sĩ. Lúc đầu gọi là Thi, sau
là Kinh Thi (kinh điển).
Sở từ là tác phẩm của nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (340 – 278), người
nước Sở, vào thời Chiến Quốc.
Sở từ là một thể thơ mới, sau Kinh thi. Thời bấy giờ , Ở vùng Giang hán
lưu hành một loại dân ca lâu dài, câu ngắn với hình thức tương đối tự do, hay
dùng chữ “Hề”. Khuất Nguyên đã dùng hình thức ấy đẻ sáng tác Ly Tao, đó là
Sở từ hay cũng gọi là “Tao thề”. Sở Tư gồnm Ly Tao (Sầu li biệt), Cửu Chương,
Cửu Ca, Thiên Vấn và Chiêu hồn, trong đó giá trị nhất và hay được nhắc đến là
Ly Tao được coi là biểu tượng của thơ ca Trung Quốc. Đây là bài thơ trữ tình cổ
đại dài nhất, biểu hiện lòng trung trinh không thay đổi đối với Tổ Quốc và sự
truy cầu lý tưởng không biết mệt mỏi của nhà thơ. Toàn bài thơ sáng ngời màu
sắc lãng mạn, bởi ông dùng rất nhiều thủ pháp tượng trưng, tỉ dụ, lấy truyền
thuyết thần thoại, nhân vật lịch sử, sông núi, mặt trời, mặt trăng, cỏ thơm, hoa lạ
để diệt thành một bức tranh hoành tráng, mỹ lệ.
Với di sản văn học để lại cho hậu thế, Khuất Nguyên được khẳng định là
nhà thơ vĩ đại đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Những bài thơ tràn đầy
tình cảm nồng nhiệt của ông đố với Tổ quốc là tài sản quý báu của dân tộc Trung
Hoa.
- Thời kì phong kiến : Văn học Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao là ở
thời kì này, với ác thể loại nổi bật : Phú (Hán), Thơ (Đường), Từ (Tống), Kịch

(Nguyên), Tiểu thuyết (Minh – Thanh)
Thơ Đường chiếm vị trí nổi bật trong các thành tựu văn hoá Đường, là
đỉnh cao của văn hoá Trung Quốc và nhân loại thời bấy giờ (VII –X), với 50.000
bài thơ của 2300 thi sĩ thể hiện bằng những quy phạm chặt chẽ. Trong hằng hà sa
số các nhà thơ đó, nổi tiếng nhất là ba nhà thơ lớn : Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư
Dị.
Lý Bạch (701 – 762) được gọi là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ).Ông
đã dể lại 1200 bài thơ về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ
đau của người nông dân, nỗi đáng cay của chinh phụ, thương phụ… Nỗi cay
đắng vì có tài mà không được dùng. Tác phẩm tiêu biểu : “Hành lộ nan” (đường
đi khó), “Vọng lí Sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư)
Đỗ Phủ (712 – 770) được gọi là Thi thánh - vị thánh trong làng thơ. Thơ
Đỗ Phủ thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân trong thời buổi loạn ly - Người
đời gọi thơ ông là một tập Thi Sử, bởi người viết sử đứng trên quan điểm của dân
đen, coi nỗi đau của họ như nỗi đau của chính mình. Thơ ông thể hiện tư tưởng
nhân đạo lớn lao. Ông để lại 1400 bài thơ
Bạch Cư Dị (772 – 846): Kế thừa truyền thống thơ ca hiện thực của Đỗ
Phủ, góp phần đưa thơ Đường đến tột đỉnh vinh quang. Tiêu biểu là “Trường hận
ca” và “Tỳ Bà Hành”
Tiểu thuyết : Đặc biệt phát triển vào thế kỉ XIV – XVII. Thời kì này thuộc
hai triều đại Minh (1368 -1644) và Thanh (1644 – 1911) bởi vậy còn gọi là tiểu
thuyết Minh – Thanh . Thời kì này, kinh tế thương nghiệp phát triển, nhiều đô thị
lớn hình thành. Trong các buổi hội hè thường xuất hiện các nghệ nhân kể chuyện,
đề tài của họ thường là những sự tích lịch sử. Các nhà văn thời Minh và Thanh đã
sưu tầm các truyện kể ấy, gia công thêm bớt trau chuốt văn chương, hình thành
hàng loạt bộ tiểu thuyết có giá trị. Trong hơn 300 bộ tiểu thuyết, nổi tiếng là các
tác phẩm :
Thuỷ Hử - kể về một số nhân vật anh hùng cuối thời Bắc Tống, do bị bức
hại mà phải lên Lương Sơn Bạc , qua đó phản ánh sâu sắc sự áp bức giai cấp ở
thời Bắc Tống, vạch trần tội ác của xã hội phong kiến, biểu hiện lòng bất mãn và

ý chí phản kháng của quàn chúng nhan dân lao động.
Tam quốc chí diễn nghĩa (La Quán Chung) : tá phẩm kể lại lịch sử gần
một thế kỉ từ năm 184 – 280 SCN, chủ yếu khắc hoạ cuộc đấu tranh về chính trị,
quân sự phức tạp giữa ba nước : Nguỵ, Thục, Ngô
Tây du kí (Ngô Thừa Ân) viết về chuyện nhà sư Huyền Trang và các đồ đê
sang Ấn Độ đi lấy kinh Phật, trải qua rất nhiều gian nan nguy hiểm cuối cùng đã
đạt được mục đích.
Nho lâm ngoại sử là một bộ tiểu thuyết trào phúng viết về chuyện làng
nho. Qua tác phẩm này, Ngô Kính Tử đả kích chế độ thi cử đương thời và mỉa
mai những cai xấu xa của tàng lớp trí thức dưới chế độ thi cử đó
Hồng lâu mộng (Tào thuyết Cần) viết về câu chuyện hưng suy của một gia
đình quý tộc phong kiến và câu chuyện yêu đương giữa một đôi thiếu niên nhưng
qua đó, tác giả vẽ lên bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn
suy tàn. Hồng lâu mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng
văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc.
1.2.2.3 Sử học
Trung Quốc là một nước rất coi trọng lịch sử, bởi vậy sử học ở Trung
Quốc phát triển rất sớm và Trung Quốc có một kho tàng sử sách rất phong phú và
đạt được nhiều thành tựu.Thời Hoàng Đế đã có sử quan.Thời Tây Chu đã có viên
quan ghi chép sử. Thời Tấn-Sở, Lỗ cũng có những chức quan ghi chép sử sách.
Quyển sử tốt nhất là biên niên của nước Lỗ. Cơ sở đó Khổng Tử biên soạn thành
sách xuân thu, đây được coi là quyển sử tư nhân biên soạn sớm nhất ở Trung
Quốc.
Thời Chiến Quốc, có nhiều sách sử quan trọng: Tả truyện, Chiến quốc sách…
Thời Tây Hán, sử học trở thành một lĩnh vực độc lập, Tư Mã Thiên là người đặt
nền móng. Sử kí là bộ sử đầu tiên do ông ghi chép lịch sử gần 3000 năm từ thời
Hoàng Đế đến thời Hán Vũ. Ghi chép nội dung, sự kiện xảy ra trong cung điện
và những hiện tượng thiên nhiên (ít phản ánh cuộc sống của nhân dân lao động).
Các tác phẩm sử kí được viết theo lối kể chuyện.Đây là một công trình nổi tiếng,
là sử gia đầu tiên ghi chép lịch sử của một nước, mặc dù còn hạn chế nhưng ông

vẫn được mệnh danh là cha đẻ của sử học Trung Quốc. Thời Đường, có cơ quan
biên soạn sử sách gọi là Sử Quán. Từ đó về sau các bộ sử đều do nhà nước biên
soạn Thời Minh – Thanh, Trung Quốc biên soạn nhiều bộ sử sách quí (26bộ): Sử
thông, Thông điển, Vĩnh Lạc Đại Điển, Tứ Khố Toàn Thư.
Sử kí còn có giá trị văn học, mở đầu cho một thể loại văn học. Đó là
truyện kí lịch sử. Cũng chúnh bắt đầu từ sử ký mà Trung Quốc trở thành nước có
nhiều truyện lịch sử nhất thế giới.
Từ đời Hán trở đi việc viết sử được tiến hành liên tục. Các tác phẩm tiêu
biểu: Hán Thư, Hậu Hán Thư, Tuỳ Thư, Đường Thư, Tống Sử, Minh Sử, Thanh
Sử.
Từ đời Đường, nhà nước đã quan tâm đến sử học bằng các hình thức lập
Quốc sử quán trở thành một hệ thống, soạn ra bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của
nhân loại : “Vĩnh lạc đại điển” do 2000 học giả biên soạn trong năm năm (thời
nhà Minh/Minh Thành tổ/Vĩnh Lạc)
1.2.2.4 Nghệ thuật
Về nghệ thuật đất nước Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu. Hai lĩnh vực
lớn đạt nhiều thành tựu là kiến trúc và hội hoạ
Kiến trúc : Trung Quốc là nơi lưu giữ được nhiều công trình đời xưa nhất,
sử dụng nhiều nguyên vật liệu khác nhau. Các công trình kiến trúc bao giờ cũng
có nhiều mái, thường theo lối mái cong.
Gắn liền với kiến trúc là điêu khắc. Trên các công kiến trúc có nhiều tác
phẩm điêu khắc, không phô trương, không có quy mô to lớn. Tiêu biểu có các
công trình sau :
Cố đô Bắc Kinh (Tử Cấm Thành) : xây dựng khoảng 1406 – 1420 (đời
vua Vĩnh Lạc). Cố kinh từ đó trở thành nơi ở của 24 triều vua Minh Thanh. Hiện
nay vẫn còn 100 toà cung điện, và 8600 gian. Trong quần thể kiến trúc này, lớn
nhất là điện Thái Hoà và điện Trung Hoà
Di Hoà Viên : Một vườn hoa xây dựng cách thành phố Bắc Kinh 18km về
phía Tây Bắc, xây dựng từ năm 1888 để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của Từ Hy
Thái Hậu. Vườn hoa được xây dựng bằng số tiền 35 triệu lạng bạc mà Quang Tự

dùng để xây dựng lực lượng hải quân.
Định Lăng : Ngôi mộ của vua Vạn Lịch được xây dựng trong khu Thập
tam lăng, ở phía Tây Bắc thủ đô Bắc Kinh. Công trình này có nhiều kiến trúc như
nhà thờ, nhà để bia
Vạn Lý Trưởng Thành : Do ba nước Tần, Yên, Triệu thời Chiến Quốc xây
dựng nhằm ngăn chặn người Hung Nô từ phương Bắc tràn xuống dài hơn 6.700
km chạy ua 6 tỉnh xây trên địa hình núi cao, có nơi cao 1000m, vực thẳm, lũng
sâu, cồn cát gồm 4 bộ phận chủ yếu : tuờng thành, cửa ải, tháp canh, phong hoả
đài.
1.2.2.5 Tư tưởng và tôn giáo
Lĩnh vực tư tưởng của Trung Quốc rất phong phú, đạt thành tựu rất cao,
trong đó quan trọng nhất là các phái : Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Và
trong 4 nhà Đạo này, nổi bật là tư tưởng Nho gia
Thời Xuân Thu là thời rối loạn về xã hội và chính trị : nội chiến liên miêm
giữa các nước chư hầu để giành quyền bá chủ. Những mối quan hệ khác: vua tôi,
cha con, vợ chồng rối loạn. Trong bối cảnh đó đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng
muốn tìm ra giaỉ pháp ổn định lại trật tự xã hội đương thời. Trong số đó có
Khổng Tử - người sáng lập Nho giáo. Các sách do Khổng Tử chỉnh lí có 6 bộ, về
sau gọi là Lục kinh: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu. Sách Luận ngữ thì do
môn nhân đệ tử ghi chép lời của ông đàm thoại với học trò. Luận ngữ là một
cống hiến vô cùng quan trọng của ông cho hậu thế, cho nền văn hiến Phương
Đông cổ đại. Có thể tiếp cận tư tưởng Khổng Tử từ ba mặt:
Tư tưởng chính trị : ông đưa ra lý tưởng về một thế giới Đại đồng. Đó là
thế giới không còn cảnh rối loạn, xã hội công bằng, Khổng Tử cũng đề cập đến
tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Tư tưởng đạo đức: Khổng Tử rất coi trọng vì đó là những chuẩn mực để
duy trì trật tự xã hội, ông cho rằng xã hội rối loạn là do con người đối xử với
nhau chẳng ra gì. Vì vậy học thuyết của ông được coi là Nhân và Lễ. Các khái
niệm của học thuyết này khi được vận dụng đúng đắn sẽ tạo ra cảm hứng trách
nhiệm của con người, khiến cho con người có mục đích sống rõ ràng và trở nên

hữu ích cho cuộc đời.
Tư tưởng giáo dục : Khổng Tử có những đóng góp rất quan trọng, là
người đầu tiên sáng lập ra chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc – Giáo dục mở
rộng từ tầng lớp quý tộc đến tầng lớp thứ dân. Ông đã đào tạo nhiều thế hệ học
trò (3000 người), trong đó có 72 người nổi tiếng tham gia trong tất cả các lĩnh
vực.
Nho gia đã ảnh hưởng sâu sắc rộng trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực
chính trị trị trong xã hội phong kiến cũng như các nước đồng văn như Triều Tiên,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam
1.2.2.6 Khoa học tự nhiên
Cách ngày nay trên bốn ngàn năm, khoa học tự nhiên của Trung Quốc đã
có những thành tựu rực rỡ
* Thời cổ đại
Thiên văn học ra đời rất sớm, đạt nhiều tiến bộ ở thời Xuân Thu - Chiến
Quốc. Đó là sự ghi chép lại các lần nhật thực (37 lần trong vòng 242 năm), các vì
tinh tú (800 vì tinh tú, trong đó có 120 vì tinh tú được xác định). Bảng ghi chép
các hành tinh khác của người Trung Quốc – “Cam Thạch Tinh” có từ thời Xuân
Thu, được coi là bảng ghi chép các vì sao xưa nhất thế giới. Thế kỉ VII TCN,
người Trung Quốc đã biết dùng một cái cọc đứng để đo bóng mặt trời (gọi là Thổ
khuê), qua đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí, làm cho cách tính lịch
ngày càng chính xác.
Lịch: Yêu cầu của sản xuất nông nghiệp đã làm cho người Trung Quốc
biết làm lịch từ rất sớm. Đến đời Thương, họ đã phát minh ra lịch - âm lịch. Lich
pháp âm lịch cho đến nay, vẫn còn đang được sử dụng song song với dương lịch
ở Trung Quốc.
Y học: Từ thời Chiến Quốc, các thầy thuốc đã biết giải phẫu cơ thể người,
biết nội tạng và bộ máy tuần hoàn của người, chuẩn đoán bệnh qua bắt mạch,
châm cứu, sắc thuốc để chữa bệnh. Đặc biệt, thời kì này đã xuất hiện nhiều cuốn
sách có tính chất tổng kết về y học và dược học như: “Hoàng đế nội kinh”, “Sơn
hải kinh”

Ngoài các lĩnh vực khoa học trên, những tri thức về toán học, lý học, nông
học, sinh vật học cũng đạt tới trình độ cao.
* Thời trung đại
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu rực rỡ của thời cổ đại, Trung
Quốc đã có những cống hiến suất xắc cho nền văn minh của nhân loại ở các lĩnh
vực toán học, thiên văn học và y dược.
Toán học: Tìm ra các phương pháp tính diện tích ruộng đất theo các hình
khác nhau; tính khối lượng đất trong các công trình xây đắp thành, đào hào; tính
giá tiền lương thực, gia súc. Các phương pháp này được ghi lại thành cuốn sách
“Cửu chương toán thuật” (Đời Hán). Thời Nam - Bắc triều, người Trung Quốc đã
phát hiện ra số pi chính xác đến con số thập phân thứ 10
Thiên văn học: Người Trung Quốc thời Tần – Hán đã phát minh ra nông
lịch, chia một năm ra thành 24 tiết, giúp nông dan dựa vào đó mà biết thời vụ sản
xuất, đời Đông Hán đã biết chế tạo ra “địa động nghi”, một dụng cụ đo phương
hướng động đất khá chính xác.
Y dược: Nhiều thầy thuốc giỏi và sách quý chữa bệnh đã xuất hiện từ thời
Hán. Các phương pháp khám, chữa bệnh: hỏi, nghe, bắt mạch, châm cứu, dùng
thuốc và phẫu thuật. Thời Đông Hán, có tác phẩm y học nổi tiếng của Trương
Trọng Cảnh: Thương hàn tạp bệnh. Từ Thời Hán về sau, Trung Quốc có nhiều
thầy thuốc giỏi: tiêu biểu là Hoa Đà. Ông chữa được bách bệnh, dùng rượu để
gây tê khi mổ. Ông là người đầu tiên kêu gọi mọi người tập thể dục để chữa
bệnh, ông sáng chế ra những bài tập thể dục bắt trước theo các con vật. Thời
Minh có thầy thuốc nổi tiếng về y dược, Lý Thời Trân, ông đã tìn được nhiều loại
cây thuốc để chữa bệnh, được trình bày trong tác phẩm “Bản thảo cương mục”.
Nhà nước xuất hiện sớm, cùng với chữ viết và những thành tựu lớn lao
của nền văn hoá Trung Quốc thời cổ trung đại đã làm cho Trung Quốc trở thành
một đất nước có nền văn minh rực rỡ.
Chương 2: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA NHỮNG PHÁT MINH LỚN VỀ
KỸ THUẬT CỦA NẾN VĂN MINH TRUNG QUỐC
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến những thành tựu về khoa học kỹ thuật của

văn minh Trung Quốc.
2.1.1. Yếu tồ về điều kiện tự nhiên
Trung Quốc là một nước lớn nằm ở Đông bắc Á, có hai con sông lớn chảy
qua: Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử), hai con sông đã bồi đắp cho Trung
Quốc những vùng đất phù sa rất màu mỡ, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đặc
biệt là nông nghiệp. Do lãnh thổ trải rộng nên Trung Quốc có phong cảnh tương
đối đa dạng, phía tây có nhiều cao nguyên và núi non, trong khi phía đông đất đai
bằng phẳng và thấp hơn. Do vậy, hầu hết các con sông chính đều chảy từ tây
sang đông, trong đó có Dương Tử, Hoàng Hà và Hắc Long Giang cũng như chảy
từ phía tây về phía nam như Châu Giang, Mê Kông, và Brahmaputra), và tất cả
các sông này đều đổ ra Thái Bình Dương, trừ Brahmaputra đổ ra Ấn Độ Dương.
Hầu hết các vùng đất trồng trọt được đều nằm dọc theo hai con sông chính là
Dương Tử và Hoàng Hà, và đây cũng là trung tâm phát sinh các nền văn minh cổ
đại rực rỡ của Trung Quốc Khi mới thành lập Trung Quốc chỉ là một vùng đất
nhỏ ở lưu vực sông Hoàng Hà, lãnh thổ của Trung Quốc được mở rộng dần. Từ
thế kỉ III TCN, Trung Quốc trở thành một nước phong kiến, không ngừng đẩy
mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỉ XVIII, lãnh
thổ của Trung Quốc cơ bản như ngày nay.Về phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng
Hải và Đông Hải là các đồng bằng phù sa rất đông dân; còn bờ biển của Biển
Đông ("Nam Hải Trung Quốc") và miền nam Trung Quốc có nhiều đồi núi và
dãy núi thấpVề phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng Hải và Đông Hải là các đồng
bằng phù sa rất đông dân; còn bờ biển của Biển Đông ("Nam Hải Trung Quốc")
và miền nam Trung Quốc có nhiều đồi núi và dãy núi thấp. Về phía tây, miền bắc
có đồng bằng phù sa lớn (bình nguyên Hoa Bắc), còn miền nam có cao nguyên
đá vôi mênh mông bao phủ bởi các ngọn đồi với độ cao tương đối, trong đó dãy
Himalaya có đỉnh cao nhất là ngọn Everest. Phía tây bắc cũng có các cao nguyên
khá cao trong các vùng đất sa mạc khô cằn như Takla-Makan và sa mạc Gobi
ngày càng mở rộng. Do hạn hán kéo dài và có thể là kỹ thuật canh tác kém nên
các cơn bão cát đã ngày càng phổ biến vào mùa xuân ở Trung Quốc. Các trận
bão cát thổi xuống tận phía nam Trung Quốc, Đài Loan, và có cả dấu vết ở Bờ

Tây Hoa Kỳ. Biên giới tây nam của Trung Quốc có nhiều núi cao và thung lũng
sâu phân cách với các nước Myanma, Lào và Việt Nam. Trung Quốc có loài
người xuất hiện từ rất sớm, gần đây người ta tìm thấy dấu tích của người vượn ở
vùng Vân Nam, có niên đại 1.700.000 năm. Thời cổ đại là sự kết hợp của nhiều
giống người. Cư dân đến cư trú sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà thuộc giống
người Mông Cổ đó là người Hạ và người Thương (không phải là dân bản địa),
người Hạ và người thương đồng hoá nhau cho ra đời bộ tộc Hoa Hạ (tiền thân
người Hán sau này).Ở lưu vực sông Trường Giang là địa bàn cư trú của người
Man, Di. Đến thời xuân thu bị người Hoa Hạ đồng hoá.Tên nước Trung Quốc
thường được đặt tên theo tên của các triều đại. Người Trung Quốc cho rằng họ là
quốc gia văn minh, là trung tâm của thiên hạ, các nước xung quanh chỉ là chư
hầu, man di lạc hậu. Từ đó họ có tên là Trung Hoa. Đến năm 1912, khi triều đại
cuối cùng của Trung Quốc sụp đổ hoàn toàn, tên Trung Hoa chính thức trở thành
tên nước Trung Quốc.Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Trung Quốc tạo ra một
lớp người có đặc tính bình tĩnh và thâm trầm.
2.1.2. Yếu tố về kinh tế, xã hội
Thời cổ đại
Nhà Hạ :Về tình hình kinh tế - xã hội, thời đại này người Hạ đạ biết chế tạo,
sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng và có dấu hiệu xuất hiện văn tự.
Vào thời nhà Thương, trình độ sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất còn lạc
hậu (đồ sắt chưa phổ biến). Về văn hoá đã phát minh ra chữ viết, đã quan sát
được sự vận hành của mặt trăng, các vì sao, tính chu kỳ lên xuống của nước
sông, làm ra âm lịch, lịch mùa dựa trên “can” và “chi”. Về tư tưởng, con người ở
thời nhà Thương đã bước vào giai đoạn thờ tổ tiên thay cho tín ngưỡng Tô tem
giáo.
Khoảng thế kỷ XI tr.CN, Chu Vũ Vương – con trai Chu Văn Vương đã diệt
vua Trụ nhà Thương, lập nên nhà Chu, đóng đô ở Thiểm Tây ngày nay, phía tây
nước Chu, gọi là Tây Chu, đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Hình thái
kinh tế - xã hội thời Tây Chu có những đặc điểm cơ bản sau: Nhà Chu thực hiện
chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất (ruộng đất) và sức lao động. Về nguyên tắc,

ruộng đất và mọi thành viên đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Trong xã
hội có sự phân chia thành hai hạng người, đó là quân tử (quý tộc) và tiểu nhân
(kẻ hèn) Sự phân công lao động, chia tách xã hội lần thứ nhất chưa triệt để. Về tư
tưởng có sự gắn chặt giữa thần quyền và thế quyền
Thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN).
Thời Chiến Quốc (475 – 221 tr.CN):
Về lực lượng sản xuất: Đồ sắt phát triển khá phổ biến, kỹ thuật canh tác
phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất, của kinh tế đã có tác động mạnh đến hình thức sở hữu
ruộng đất, kết cấu và địa vị kinh tế của các giai tầng trong xã hội.
Về chính trị: Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu không còn
được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Sự
tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại
vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi
hỏi giải thể chế độ thị tộc nhà Chu, hình thành xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể
nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng
lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Sự biến chuyển sôi động đó
của thời đại đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm các “kẻ
sĩ” luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội
tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm
thầy), “Bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Từ thời cổ đại, trên lưu vực
Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều quốc gia nhỏ của người Trung Quốc. Giữa
các nước này thường xuyên xảy ra các cuộc xung đột thôn tính lẫn nhau.
Thời kì trung đại
Chế độ phong kiến được xác lập dưới thời nhà Tần và sau đó tiếp tục phát
triển dưới thời nhà Hán. Vua Tần tự xưng là Hoàng đế, có ý coi mình là đấng tối
cao, vua của các vua. Vua đầu tiên là Tần Thuỷ Hoàng đã khởi đầu việc xây
dựng bộ máy chính quyền phong kiến, trong đó Hoàng đế có quyền tuyệt đối
Tần Thủy Hoàng đã thi hành một loạt chính sách như chia đất nước thành các

quận, huyện và trực tiếp cử quan lại đến cai trị, ban hành một chế độ đo lường và
tiền tệ thống nhất cho cả nước, gây chiến tranh, mở rộng lãnh thổ về phía bắc và
phía nam.
Nhà Tần trị vì được 15 năm thì nhà Hán lên thay. Các hoàng đế nhà Hán
tiếp tục củng cố chính quyền, và mở rộng hình thức tiến cử con em của các gia
đình địa chủ. Bộ máy chính quyền trung ương, gọi là triều đình, có hệ thống quan
văn, quan võ. Thừa tướng đứng đầu các quan văn, Thái uý đứng đầu các quan võ.
Đây là chức quan cao nhất của triều đình để giúp Hoàng đế trị nước. Ngoài ra
còn có các chức quan coi giữ binh mã, tiền tài, lương thực, tư pháp. Các địa
phương được Hoàng đế chia thành quận, huyện, đặt các chức quan Thái thú (ở
quận) và Huyện lệnh (ở huyện). Các quan lại phải hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh
của Hoàng đế và luật pháp của nhà nước. Nhưng Tần Thủy Hoàng cũng là ông
vua tàn bạo, đã bắt hàng trăm người đi lính, đi phu xây đắp Vạn lí trường thành,
cung A Phòng, lăng Li Sơn, Vì thế, nông dân khắp nơi nổi dậy chống lại và lật
đổ nhà Tần. Các vua thời nhà Hán đã xóa bỏ chế độ pháp luật hà khắc của nhà
Tần, giảm nhẹ tô thuế và sưu dịch, khuyến khích họ nhận ruộng đất và khai khẩn
đất hoang, phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhờ thế, kinh thế phát triển, trật tự xã
hội ổn định, thế nước đã vững vàng. Nhà Hán còn tiến hành nhiều cuộc chiến
tranh, xâm lấn bán đảo Nhật Bản, thôn tính các nước phương bắc.
Các vua Tần, Hán còn chú ý đến việc xây dựng và phát triển nền kinh tế.
Nhà nước ban bố nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất. Nhà Tần định
hệ thống tiền tệ chung, thống nhất đơn vị đo lường và mở thêm đường giao
thông. Nhà Hán lại chú trọng công việc thuỷ lợi. Việc sử dụng cày sắt và trâu bò
kéo đã khá phổ biến, sản lượng nông nghiệp tăng hiưn trước. Kho lương thực nhà
nước khá dồi dào. Cùng với nông nghiệp, nghề thủ công cũng phát đạt. Việc khai
thác mỏ và nghề rèn đúc đồ sắt, đồ đồng được mở mang. Một số ngành thủ công
khác như dệt vải, lụa, gấm vóc và làm giấy đã sớm trở thành nghề truyền thống,
sản phẩm làm ra có chất lượng tốt. Việc trao đổi buôn bán đã được tiến hành
thuận lợi và rộng rãi trong nước. Kinh đô Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây) và
một số thành thị khác như Lạc Dương, Thành Đô… trở thành những nơi buôn

bán khá sầm uất. Các hoàng đế Trung Quốc sớm có tham vọng chiếm nhiều đất
đai của các nước khác. Nhà Tần và nhà Hán đã phát động nhiều cuộc chiến tranh
xâm lược để thôn tính, đồng hoá các nước xung quanh. Đó là các cuộc hành quân
xâm lấn bán đảo Triều Tiên, thôn tính các nước phương Nam, chiếm nước Nam
Việt. Nhưng các cuộc chiến tranh liên miên, hao người tốn của đã làm cho mâu
thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Trung Quốc lại bước vào thời kỳ loạn lạc kéo
dài hàng mấy thế
2.2 Những phát minh lớn về kỹ thuật của nền văn minh Trung Quốc.
2.2.1 Giấy
Kĩ thuật làm giấy, một trong bốn phát minh lớn cuả Trung Quốc đã có hai
ngàn năm lịc sử. Trước khi lam được giấy, người Trung Quốc đã viết trên thẻ tre,
thẻ trúc, phiến gỗ, lụa những văn bản này hoặc nặng nề, cồng kềnh, hoặc đắt
tiền, cho nên không thể dùng một cách rộng rãi. Trong quá trình nghiên cứu một
số ngôi mộ cổ có niên đại Tây Hán (206 tr. CN – 235 CN) ở Tây An, Cam Túc,
các nhà khoa học đã tìm thấy giấy, có loại thô ráp, có lẽ chỉ dùng để gói bọc; có
loại trắng, mịn, có thể dùng ghi chép. Đến khoảng cuối đời Hán sử sách đã ghi
việc dùng giấy để sao chép kinh Phật. Tuy nhiên nguyên liệu làm giấy ở thời đó
vẫn còn hiếm, giá thành cao, cho nên việc sản xuất giấy vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội.
Cần phải tìm ra một nguyên liệu làm giấy dồi dào hơn, dễ kiếm do đó giá
rẻ hơn và một kĩ thuật làm giấy tiên tiến hơn. Đó là một yêu cầu bức thiết của
một thời đại mà các hoạt động ngôn ngữ viết đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Thái Luân - người Đông Hán (23 – 220) giữ chức Thượng phương lệnh, chuyên
quản việc chế tạo các vật phẩm cần dùng cho triều đình, đã dày công tìm tòi
nghiên cứu thí nghiệm, cuối cùng đã đáp ứng được nhu cầu nói trên. Ông dùng
sơ đay, giẻ rách, lưới đánh cá cũ hỏng , ngâm nước cho mủn ra, cho vào nồi
nấu rồi đem giã thành bột nhuyễn, tiếp đó đem thứ bột nhiễm này dàn thành
màng mỏng trên một tấm mành tre, rồi đem hong cho khô; cuối cùng nhẹ tay bóc
lớp màng mỏng đó ra khỏi mành, thế là thu được một tờ giấy khá mịn.
Năm Nguyên Hưng thứ sáu đời Hán Hoà Đế (năm 105) Thái Luân dùng

loại giấy này dâng lên triều đình. Cách làm giấy của ông được phổ biến rộng rãi
vì nguyên liệu dễ kiếm, quy trình sản xuất đơn giản. Do công lao ấy, năm 114,

×