Tải bản đầy đủ (.doc) (335 trang)

Tài liệu giảng dạy 28 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 335 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
VIỆN ĐÀO TẠO MỞ VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TÀI LIỆU HỌC TẬP
MÔN HỌC:
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC, PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI

1


MỤC LỤC

PHẦN THỨ NHẤT
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHƯƠNG I: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HÌNH
THÀNH CHO ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ X
I. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI VĂN LANG, ÂU LẠC
1. Các yếu tố tác động tới sự hình thành nhà nước Văn Lang, Âu Lạc
2. Nhà nước Văn Lang, Âu Lạc
3. Pháp luật thời Văn Lang, Âu Lạc
II. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI BẮC THUỘC VÀ ĐẤU TRANH
CHỐNG BẮC THUỘC (TK II TCN – ĐẦU TK X)
1. Tổ chức bộ máy chính quyền đơ hộ
2. Chính sách cai trị và pháp luật của chính quyền đơ hộ
3. Tình hình Pháp luật
III. CÁC CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
1. Chính quyền Hai Bà Trưng (40 - 43)
2. Nhà nước Vạn Xuân 544 – 602
CHƯƠNG 2: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN PHONG
KIẾN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (THẾ KỶ X – XIX)
I. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM THẾ KỶ X- XV


1. Nhà nước và pháp luật Việt Nam thế kỷ X
2. Nhà nước và pháp luật Việt Nam thế kỷ XI - XV
II. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM THẾ KỶ XV – XVIII
1. Về tổ chức bộ máy nhà nước
2. Về hoạt động của nhà nước
3. Về pháp luật
III. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM THẾ KỶ XIX
1. Tổ chức bộ máy nhà nước
2. Hoạt động của nhà nước
3. Tình hình pháp luật dưới triều Nguyễn
2


CHƯƠNG 3: CHÍNH QUYỀN VÀ PHÁP LUẬT THỜI PHÁP THUỘC (1884 –
1945)
I. TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
TRƯỚC NGÀY THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ TỒN QUYỀN ĐƠNG DƯƠNG (18581887).
1. Tổ chức cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
2. Tổ chức cai trị của thực dân Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ
II. SỰ RA ĐỜI VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHẾ ĐỘ TỒN QUYỀN ĐƠNG
DƯƠNG (17/10/1887)
1. Sự thành lập “Liên bang Đơng Dương”
2. Chế độ tồn quyền và quyền lực của Tồn quyền Đơng Dương
3. Các tổ chức phụ tá cho Tồn quyền Đơng Dương
III. TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT
NAM TỪ KHI CÓ CHẾ ĐỘ TOÀN QUYỀN (1887)
1. Tổ chức cai trị của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ
2. Tổ chức cai trị của thực dân Pháp ở Trung Kỳ
3. Bộ máy cai trị của Pháp ở Nam Kỳ
IV. CHÍNH QUYỀN TRIỀU NGUYỄN

1. Chính quyền trung ương
2. Chính quyền địa phương
V. TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT
1. Vấn đề áp dụng pháp luật
2. Vấn đề thi hành pháp luật
3. Nguồn luật
4. Đặc trưng nội dung hệ thống pháp luật thực dân pháp áp dụng ở Việt Nam
CHƯƠNG 4: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN 1986
I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA, NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954)
1. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và Cách mạng tháng Tám, sự thiết lập Nhà
nước dân chủ nhân dân

3


2. Xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ, bước đầu xây dựng hệ
thống pháp luật trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945 - 1946)
3. Nhà nước và pháp luật trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954)
II. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN 1954 - 1976
1. Nhà nước và pháp luật Việt Nam Dân chủ cộng hòa
2. Nhà nước và pháp luật của chính quyền Việt Nam cộng hòa
3. Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969-1976)
III. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG CƠ CHẾ TẬP TRUNG QUAN LIÊU
BAO CẤP (1976 – 1986)
1. Sự thành lập Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Nhà nước và pháp luật trong giai đoạn 1976 – 1986
CHƯƠNG V: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TỪ 1986 ĐẾN

NAY)
I. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI VỀ NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Đối với Nhà nước
2. Đối với pháp luật
II. THỰC TIỄN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TRONG THỜI KÌ
ĐỔI MỚI
1. Hệ thống các cơ quan quyền lực Nhà nước
2. Chủ tịch nước
3. Hệ thống các cơ quan quản lí hành chính Nhà nước
4. Hệ thống cơ quan xét xử
5. Hệ thống cơ quan kiểm sát
III. TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT
1. Khái quát tình hình pháp luật
2. Hình thức văn bản
3. Văn bản pháp luật điển hình
IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI

4


PHẦN THỨ HAI
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI
CHƯƠNG 1: XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI TRƯỚC KHI XUẤT HIỆN NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. CÔNG XÃ NGUYÊN THỦY VÀ XÃ HỘI TIỀN NHÀ NƯỚC
II . SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
III . SỰ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT
CHƯƠNG2: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐƠNG CỔ ĐẠI

I. Q TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐƠNG
1. Điều kiện tự nhiên
2. Các nhà nước phương Đơng tiêu biểu
II. PHÁP LUẬT CHIẾM HỮU NÔ LỆ PHƯƠNG ĐÔNG
1. Bộ luật Hammurabi
2. Bộ luật Ma Nu
3. Pháp luật Trung Quốc
III. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG
ĐÔNG CỔ ĐẠI
1. Về nhà nước
2. Về pháp luật
CHƯƠNG 3 : NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
I. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Quá trình hình thành nhà nước
2. Tổ chức bộ máy nhà nước
3. Pháp luật Hy Lạp
II. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT LA MÃ
1. Quá trình hình thành nhà nước
2. Tổ chức bộ máy nhà nước

5


3. Pháp luật La Mã
CHƯƠNG 4: NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG ĐƠNG
A. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
I. Q TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ SUY VONG
1. Giai đoạn xác lập nhà nước phong kiến Trung Quốc
2. Quá trình phát triển và suy vong của nhà nước phong kiến Trung Quốc
II. CHẾ ĐỘ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI KỲ PHONG KIẾN

1. Chế độ ruộng đất
2. Quan hệ giai cấp
III. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Triều Tần
2. Nhà Hán
3. Nhà Đường
4. Nhà Tống
5. Nhà Nguyên
6. Nhà Minh
7. Nhà Thanh
8. Tổng quan về chế độ quan lại phong kiến Trung Quốc
IV. ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
1. Nhà nước phong kiến Trung Quốc là chính thể quân chủ chun chế điển hình ở
phương Đơng
2. Nhà nước sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị trong thời kỳ phong kiến
3. Nhà nước luôn coi trọng chức năng tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược
nhằm mở rộng lãnh thổ
V. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
1. Hoạt động ban hành pháp luật
2. Những đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc
B. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIẾN NHẬT BẢN
I. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN NHẬT BẢN
6


1. Quá trình hình thành nhà nước phong kiến Nhật Bản
2. Quá trình phát triển và suy vong của nhà nước phong kiến Nhật Bản
3. Chế độ ruộng đất
4. Tổ chức bộ máy nhà nước
II. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN NHẬT BẢN

1. Hoạt động ban hành pháp luật
2. Các đặc trưng của pháp luật phong kiến Nhật Bản
CHƯƠNG 5: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY
I. NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY
1. Điều kiện và sự hình thành nhà nước phong kiến phương Tây
2. Kết cấu xã hội
II. HÌNH THỨC TỔ CHỨC QUYỀN LỰC
1. Các hình thức tổ chức nhà nước
2. Các nhà nước tiêu biểu
III. PHÁP LUẬT PHONG KIẾN TÂY ÂU
1. Nguồn luật của pháp luật phong kiến Tây Âu
2. Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Âu
CHƯƠNG 6: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN CẠNH TRANH TỰ DO
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
1. Những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và nhà nước tư bản
2. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
3. Phong trào phục hưng, cải cách tôn giáo và sự hoàn thiện hệ tư tưởng dân chủ tư
sản (thế kỷ XV, XVI)
4. Cách mạng tư sản thắng lợi và sự ra đời của nhà nước tư sản
II. MỘT SỐ NHÀ NƯỚC TIÊU BIỂU
1. Nhà nước Anh
2. Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ
3. Cách mạng tư sản Pháp và Nhà nước tư sản Pháp.
4. Nhật Bản.

7


III. PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CẠNH

TRANH TỰ DO
1. Đặc điểm của pháp luật tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
2. Nội dung cơ bản của pháp luật tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do
CHƯƠNG 7: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN LŨNG ĐOẠN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
I. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI NHÀ NƯỚC TƯ BẢN LŨNG ĐOẠN
1. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước tư bản lũng đoạn
2. Đặc điểm của nhà nước tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn và chủ
nghĩa tư bản hiện đại
II. NHÀ NƯỚC TƯ SẢN HIỆN ĐẠI
III. MỘT SỐ NHÀ NƯỚC TIÊU BIỂU
1. Hoa Kỳ
2. Nhật Bản
3. Các nước Tây Âu (Anh, Pháp, Đức)
IV. PHÁP LUẬT TƯ SẢN THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LŨNG ĐOẠN
VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1.

Đặc điểm của pháp luật tư sản trong thời kỳ này
2. Một số ngành luật cơ bản trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn và tư bản
hiện đại
CHƯƠNG 8: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CÔNG XÃ PARI
I. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ CUỘC CÁCH MẠNG VÔ SẢN VÀ SỰ
THÀNH LẬP CÔNG XÃ PARI.
II. PHÁP LUẬT CÔNG XÃ PARI
III. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ CỦA NHÀ
NƯỚC CÔNG XÃ PARI.
1. Nguyên nhân thất bại
2. Bài học lịch sử
CHƯƠNG 9 : NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÔ

VIẾT (1917 - 1991)
I. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÁNG MƯỜI, SỰ THIẾT LẬP
NHÀ NƯỚC XƠ VIẾT.
1. Tình hình nước Nga trước cách mạng
8


2. Cách mạng dân chủ tư sản tháng 2/1917
3. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười và sự thiết lập Nhà nước Xô Viết
4. Ý nghĩa của lịch sử cách mạng tháng mười và thiết lập nhà nước Xô viết ở Nga
II. NHÀ NƯỚC XÔ VIẾT NGA
III. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT LIÊN BANG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÔ
VIẾT
1. Sự thành lập Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết
2. Các bản Hiến pháp của Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết
3. Các điểm đặc biệt của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Xô Viết
CHƯƠNG 10: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CÁC NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ CỘNG HÒA CU BA
I. KHÁI QUÁT CHUNG
II. CÁC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở ĐƠNG ÂU
1. Cộng hịa Anbani (Albania Republict)
2. Cộng hịa dân chủ Đức (Đơng Đức)
3. Cộng hịa nhân dân Ba Lan
4. Cộng hòa nhân dân Rumani ( Romania )
5. Cộng hòa nhân dân Bungari (Bulgaria )
6. Cộng hòa nhân dân Hunggari (Hungaria)
7. Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc
III. CÁC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở CHÂU Á VÀ CU BA
1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
2. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên

3. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
4. Cộng hòa Cuba
IV. PHÁP LUẬT CÁC NƯỚC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

9


CHƯƠNG I. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HÌNH
THÀNH CHO ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ X
I. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI VĂN LANG, ÂU LẠC
1. Các yếu tố tác động tới sự hình thành nhà nước Văn Lang, Âu Lạc
Nhà nước là một phạm trù lịch sử của xã hội có giai cấp. Sau khi nghiên cứu tỉ
mỉ quá trình hình thành Nhà nước ở Aten, Hy Lạp và Giéc manh, Ph.Ăngghen đã
kết luận: Nhà nước "là một sản phẩm của cái xã hội đã phát triển tới một giai đoạn
nhất định, nó là cái bằng chứng tỏ rằng xã hội đó bị kìm hãm trong một sự mâu
thuẫn với bản thân nó mà khơng sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân
chia thành những phe đối l khơng thể Điều hồ, mà xã hội đó khơng đủ sức trừ bỏ
được"(1). Nhà nước ra đời như là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu thuẫn giai
cấp đã phát triển đến mức độ khơng thể điều hồ được.
Nhưng trên cơ sở phân hố xã hội, trong q trình hình thành Nhà nước,
Ph.Ăngghen còn đề cập đến những nhân tố khác. Trong Chống Đuy - rinh,
Ph.Ăngghen đã nêu lên một luận điểm quan trọng: "Nhà nước mà những nhóm tự
nhiên gồm các cơng xã trong cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết lập trong quá
trình tiến triển của họ, lúc đầu chỉ cốt để bảo vệ những lợi ích chung của họ (ví dụ
như việc tưới nước ở phương Đơng) và để tự vệ chống kẻ thù bên ngồi, thì từ nay
trở đi, cũng lại có ln cả mục đích là duy trì bằng bạo lực những điều kiện tồn tại
và thống trị của giai cấp của thống trị chống lại giai cấp bị trị"(2). Nhân tố thuỷ lợi
và tự vệ, bản thân nó khơng thể sản sinh ra Nhà nước, nhưng có thể thúc đẩy q
trình hình thành Nhà nước và quy định thêm tính chất, chức năng của Nhà nước

đó. Trên cơ sở phân hố xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu được, yêu cầu tổ
chức cơng trình tưới nước và u cầu đấu tranh tự vệ làm cho Nhà nước lúc ban
đầu vốn là "chức năng xã hội". Đó là con đường hình thành Nhà nước của nhiều
nước phương Đông.
Nước ta thời Hùng Vương, sự phát triển của sức sản xuất đã gây ra nhiều biến
động xã hội và đưa đến một tình trạng phân hố xã hội rõ nét vào giai đoạn Đơng
Sơn. Giàu nghèo, sang hèn, bất bình đẳng xã hội đã in đậm dấu ấn trong các khu
mộ táng, phản ánh qua một số truyền thuyết dân gian và tư liệu thư tịch. Mức độ
phân hoá chưa cao, nhưng cũng đã tạo ra một cơ sở xã hội cần thiết cho quá trình
hình thành Nhà nước đầu tiên. Thêm vào đó, là sự tác động của nhân tố thuỷ lợi và
tự vệ đóng vai trị rất quan trọng. Thiên nhiên với địa hình, đất đai, khí hậu,... nước
ta, nhất là miền Bắc, đã chứa đựng sẵn trong đó hai mặt đối lập với cuộc sống của
con người: thuận lợi - khắc nghiệt, ưu đãi - thử thách. Thời Hùng Vương là lúc con
người mở rộng công cuộc chinh phục thiên nhiên, chiếm lĩnh vùng đồng bằng
1
2

Ph. Ăngghen, Nguồn gốc của gia đình, của tư hữu và của Nhà nước, NXB Sự thật, Hà Nội 1996; tr. 257.
Ph. Ăngghen, Chống Duy – rinh, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 252.
10


Châu thổ, phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, khai thác những thuận lợi của thế
giới tự nhiên. Đó cũng là lúc cuộc đấu tranh khắc phục những trở ngại của thiên
nhiên để khai phá đất hoang, rừng rậm, chống mưa nguồn nước lũ, chống hạn hán
ngập lụt đặt ra một cách bức thiết. Cơ sở của nền kinh tế lúc đó là nơng nghiệp
trồng lúa nước lại càng địi hỏi phải có những cơng trình tưới nước và tiêu nước,
bảo đảm nguồn nước cho cây trồng. Đây là một đặc điểm kinh tế quan trọng của
phương Đông như C.Mác đã nhận xét: "Hệ thống tưới nước nhân tạo nhờ những
sơng đào và cơng trình tưới nước, trở thành cơ sở của nền nông nghiệp ở phương

Đông”(3)
Sức mạnh của con người vươn lên chinh phục và cải tạo thiên nhiên đã được
phản ánh trong các huyền thoại bằng những kỳ tích diệt trừ Mộc tinh (miền đồi
núi), Ngư tinh (miền biển), Hồ tinh (miền Châu thổ), chống Thuỷ tinh (ngập lụt)...
Bên cạnh đó, trong q trình khai quật các khu di chỉ thuộc trung tâm các nền văn
hóa, người ta cũng đã tìm thấy nhiều dấu vết cịn lại của các cơng trình ngăn nước,
dẫn nước. Những thành quả này được tạo nên bằng sự tập hợp nhiều gia đình nhỏ
lại trong công xã nông thôn và sự liên kết nhiều công xã lại trong một cộng đồng
lớn hơn với vai trò tổ chức của quyền lực Nhà nước, như C.Mác nói: "Kiên quyết
địi hỏi sự can thiệp của quyền lực tập trung của chính phủ, do đó mà có cái chức
năng kinh tế mà tất cả các chính phủ Châu Á đều buộc phải thực hiện, cụ thể là
chức năng tổ chức những cơng trình cơng cộng"(4). Lúc ban đầu nó là chức năng xã
hội xuất phát từ lợi ích chung, nhưng rồi trong tay người giao phó dần dần trở
thành chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Nước ta ở vào một vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đơng
Dương và Đơng Nam Á. Nó nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự
nhiên, vừa nối liền với đại lục, trong thế núi liền núi, sơng liền sơng vừa có bờ biển
dài nhìn ra Thái Bình Dương. Đó là một vị trí giao lưu kinh tế, văn hố thuận lợi,
nhưng cũng lắm đụng độ và dễ bị tấn công từ nhiều phía. Yêu cầu tự vệ, chống các
mối đe doạ từ bên ngồi vì thế cũng sớm được đặt ra và càng ngày càng trở nên
bức thiết
Về phương diện này, kết quả khảo cổ học cho thấy một hiện tượng đáng lưu ý:
trong giai đoạn Phùng Nguyên số lượng vũ khí chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với toàn
bộ hiện vật, như ở Văn Điển là 0,28%, Phùng Nguyên là 0,84% là Lũng Hoà là
2,91%. Tỷ lệ thấp, kiểu loại ít và nhiều vũ khí chưa phân biệt với công cụ sản xuất.
Nhưng đến giai đoạn Đông Sơn, tỷ lệ vũ khí tăng vụt lên trên 50%, ở Vinh Quang
là 50,6%, ở Thiệu Dương là 59,8% và Đông Sơn là 63,29%(5).

C.Mác, Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ, trong Bàn về các xã hội tiền tư sản, NXB KHXH, Hà Nội 1975; tr.56.
C.Mác, Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ, trong Bàn về các xã hội tiền tư sản, NXB KHXH, Hà Nội;1975, tr. 57.

5,6
Trình Cao Tưởng, Lê Văn Lan, Tìm hiểu về vũ khí và suy nghĩ về một vài vấn đề quân sự thời dựng nước đầu tiên,
Tập IV, NXB KHXH, HN, 1987, tr .293.
3
4

11


Trong các khu mộ táng, số mộ có chơn vũ khí cũng tăng lên và chiếm tỷ lệ cao.
Trong ngơi mộ số 2 ở Việt Nam số vũ khí chiếm tỷ lệ 53,7% so với toàn bộ số hiện
vật bằng đồng. Tại khu mộ táng làng Cả: tỷ lệ đó là 56,9%(6).
Khơng những tỷ lệ vũ khí tăng tiến rõ rệt về số lượng mà kiểu loại vũ khí cũng
đa dạng và phong phú hơn từ vũ khí đánh gần như: rìu, giáo, dao găm, kiếm ngắn,
đến vũ khí đánh xa như cung, nỏ, lao,...và phương tiện phòng hộ như tấm che
ngực, bao tay, bao chân, khiên mộc,...
Hiện tượng khảo cổ học trên chứng tỏ vào cuối thời Hùng Vương, con người
sống trong một xã hội đầy biến động và xung đột, phải ra sức sản xuất và hoàn
thiện các loại vũ khí. Chiến tranh đã trở thành hiện tượng kịch liệt và phổ biến
trong xã hội. Chiến tranh thời đó bao gồm cả những cuộc xung đột bên trong và
bên ngoài. Truyền thuyết dân gian cũng phản ánh nhiều cuộc xung đột gay gắt,
nhiều cuộc chiến đấu ác liệt chống các thứ "giặc" được gọi là "giặc Man", "giặc
Ân", "giặc Hồ Tôn", "giặc Hồ Xương", "giặc mũi đỏ", "giặc Thục",...
Xung đột bên trong là sản phẩm tất nhiên của một xã hội đã phân hố cũng là
hiện tượng khơng tránh khỏi trong quá trình hình thành Nhà nước cũng như q
trình hợp nhất các địa phương, các tập đồn dân cư khác nhau, thành cộng đồng
quốc gia. Trong các cuộc xung đột loại này, cuộc chiến tranh giữa Hùng và Thục
kéo dài nhất và cuối cùng kết thúc bằng sự hợp nhất giữa hai tộc người Lạc Việt và
Âu Việt để mở rộng và củng cố hơn nữa khối cộng đồng.
Xung đột bên ngoài biểu hiện cuộc đấu tranh chống mối đe doạ từ bên ngoài

đến, nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Câu chuyện Gióng là một bản hùng
ca đượm màu sắc huyền thoại phản ánh và ca Thánh ngợi cuộc chiến đấu chống
ngoại xâm của cư dân Văn Lang trong buổi đầu dựng nước.
Như vậy, công cuộc đấu tranh tự vệ và trị thuỷ - thuỷ lợi là hoạt động quan
trọng, phải tiến hành thường xun, có tính cấp bách vì nó liên quan đến sự ton
vong của cả cộng đồng. Vì thế, yếu tố tự vệ và trị thủy – thủy lợi là nhân tố tác
động đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự ra đời của nhà nước. Có thể nói, hai lí do đưa
đến sự ra đời sớm hơn của nhà nước:
- Một là, việc thường xuyên đảm đương công cuộc tự vệ và trị thuỷ - thuỷ lợi
với qui mô lớn nhiều khi vượt quá khả năng của tổ chức công xã ngun thuỷ mà
địi hỏi phải có cơ cấu tổ chức mới với mức độ tập trung quyền lực cao hơn, đó là
nhà nước. Nhà nước có cơ cấu tổ chức rộng lớn bao trùm tồn xã hội; có khả năng
cưỡng chế, có phương tiện tổ chức và quản lí đặc trưng là pháp luật. Vì thế, nhà
nước có khả năng huy động sức người, sức của để thực hiện công cuộc đấu tranh
tự vệ và trị thuỷ một cách hiệu quả nhất.
- Hai là, việc tập trung của cải để tiến hành các hoạt động cơng ích cũng như việc
gia tăng khối của cải dư thừa của xã hội đã làm tăng khả năng và cơ hội chiếm đoạt
6

12


của các thủ lĩnh, nhờ đó càng ngày họ càng khẳng định được địa vị và vai trò quan
trọng của mình trong xã hội, do đó các biện pháp, hình thức hoạt động nhằm duy
trì trật tự xã hội cũng như địa vị xã hội địi hỏi tính tập trung, độc đốn ở mức độ
cao hơn. Chính vì thế, cần thiết phải có những cơ cấu tổ chức quản lí mới ra đời,
đó chính là bộ máy nhà nước.
2. Nhà nước Văn Lang, Âu Lạc
2.1. Nhà nước Văn Lang
2.1.1. Sự ra đời

Do sự tác động của nhu cầu chống ngoại xâm và nhu cầu trị thuỷ - thuỷ lợi
của nền nông nghiệp cùng với việc trao đổi kinh tế, văn hoá ngày càng gia tăng,
các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau đã có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong
số các bộ lạc Lạc Việt có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả, có lãnh thổ rộng
lớn ở vùng Phong Châu. Thủ lĩnh của bộ lạc Văn Lang đóng vai trị lịch sử là
người đứng ra thống nhất của các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nước Văn Lang, tự
xưng Vua mà sử cũ gọi là Hùng Vương và con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối
truyền mang danh hiệu đó. Nhà nước đó ra đời có phần sớm hơn khi mà xã hội
chưa có sự phân hố sâu sắc và bên cạnh chức năng thống trị, bóc lột cịn đảm
đương hai chức năng cơng cộng quan trọng là xây dựng các cơng trình thuỷ lợi và
tổ chức cuộc chiến chống ngoại xâm. Dĩ nhiên Nhà nước ở đây là một thứ nhà
nước phôi thai, chưa có bộ máy đồ sộ, hồn hảo để thực hiện đầy đủ các chức năng
của nó như chúng ta thường quan niệm. Về thời gian tồn tại của nước Văn Lang,
có thể xác định vào khoảng thế kỷ III trước công nguyên (TK III TCN).
Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào q trình chuyển
hố lịch sử từ nước Văn Lang tới Hùng Vương đến nước Âu Lạc thời An Dương
Vương, rồi đến hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có
thể xác định: địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ nước ta ngày nay và một phần phía nam Quảng Đông, Quảng Tây của Trung
Quốc.
Trên phạm vi không gian và thời gian được truyền thuyết và thư tịch cổ gọi là
"nước Văn Lang thời Hùng Vương" trong thời gian qua các nhà khảo cổ học đã
phát hiện được hàng trăm di tích khảo cổ học và đã khai quật trên diện tích lớn
hàng chục địa điểm. Tất cả những di tích khảo cổ học ấy kết thành một diễn biến
văn hoá vật chất liên tục từ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ đại đồ sắt. Trên vùng
trung du và đồng bằng Bắc Bộ thuộc lưu vực sông Hồng, khu vực được coi như địa
bàn trung tâm của nước Văn Lang,
Nhà nước phôi thai này không phải là nhà nước chiếm hữu nơ lệ vì số lượng nơ
lệ không phải là lực lượng chủ đạo trong hoạt động sản xuất, cũng khơng giống với
nền chính trị qn chủ chun chế phương Đơng vì tinh thần dân chủ cịn để lại

truyền thống khá mạnh. Hình thức nhà nước này ít nhiều mang bóng dáng của chế
độ "lang đạo" hay "phìa đạo" ở các dân tộc Mường, Thái, cịn in đậm dấu ấn của chế
13


độ bộ lạc - công xã, trong giai đoạn chuyển hoá từ xã hội nguyên thuỷ tan rã sang xã
hội phân hoá giai cấp sơ kỳ với những đặc trưng chung của phương Đông mà C.Mác
gọi là “phương thức sản xuất Châu Á".
2.1.2. Tổ chức bộ máy Nhà nước Văn Lang
Tổ chức nhà nước hết sức đơn sơ. Đứng đầu Nhà nước Văn Lang là Hùng
Vương (Hùng là từ Hán phiên âm tiếng Việt cổ có nội dung gần gũi với Kun- lang,
Kun trong tiếng Mường và Khun trong tiếng Thái: có nghĩa là tù trưởng, thủ lĩnh,
cịn từ Vương trong tiếng Hán nghĩa là Vua). Hùng Vương là quân trưởng đúng
đầu cả nước về mặt chính trị, là người chỉ huy quân sự và chủ trì các nghi lễ tơn
giáo.
Dưới Vua, giúp việc cho Vua có các Lạc hầu. Lạc hầu là các tướng, tá to nhỏ,
trong tay có quân đội sẵn sàng đàn áp các địa phương không chịu thần phục. Lạc
hầu thay mặt Vua giải quyết các cơng việc trong nước. Vua và Lạc hầu đóng tại
trung tâm đất nước, nơi giao thông thuận lợi. Dưới Lạc hầu là Lạc tướng, nước
Văn Lang chia 15 bộ vốn là 15 bộ lạc trước đây. Đúng đầu mỗi bộ là Lạc tướng, là
chức quan thế tập được Vua và Lạc hầu thừa nhận. Lạc tướng cai quản các địa
phương, có nhiệm vụ phân bổ, đơn đốc và đốc thúc cống nạp, truyền đạt mệnh lệnh
từ trểu xuống và tổ chức lực lượng khi có chiến tranh.
Dưới bộ là cơng xã nông thôn ( kẻ, chiềng, chạ) kết hợp quan hệ làng xóm với
quan hệ huyết thống. Đứng đầu cơng xã là Bồ chính. Bên cạnh cơng xã có thể có
Hội đồng cơng xã gồm những người do các thành viên trong công xã cử ra để giải
quyết và định đoạt các hoạt động trong công xã. Mỗi công xã có một ngơi nhà
cơng cộng làm nơi hội họp và là trung tâm sinh hoạt cộng đồng.
Dưới thời Hùng Vương, Nhà nước tuy cịn sơ khai song đã có tổ chức quân
đội. Vua, lạc hầu, lạc tướng đã có những đơn vị thân binh để hộ vệ làm chủ lực

trong các cuộc chiến tranh. Tuy vậy, mỗi lần có chiến tranh, Nhà nước chủ yếu dựa
vào các lực lượng chiến đấu và hậu cần của nhân dân các công xã.
Như vậy, có thể khẳng định mối quan hệ giữa Nhà nước và công xã là quan
hệ lưỡng hợp. Nhà nước vừa là đại diện của cơng xã, vừa bóc lột cơng xã. Hình
thức bóc lột đó gọi là “ăn ruộng”. Nói cách khác, mối quan hệ giữa Nhà nước và
cơng xã về đại thể, công xã là đơn vị hành chính có quyền tự trị, nhưng phải thần
phục tuyệt đối Nhà nước, mọi nhu cầu của Nhà nước và giai cấp thống trị đều chia
cho công xã gánh vác, Nhà nước chỉ biết đến tập thể công xã chứ không quan tâm
đến thành viên của cơng xã.
Với sự hình thành một hình thái nhà nước sơ khai vào thời Hùng Vương đã
đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử. Nó xác nhận q trình dựng nước
thời Hùng Vương và đặt cơ sở cho sự ra đời một loại hình cộng đồng tộc người
mới: Cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc có ít nhiều tính dân tộc.
2.1.3. Sự thay đổi Nhà nước Văn Lang - nước Âu Lạc ra đời
14


Trong lịch sử Việt Nam, nước Âu Lạc được coi là bước phát triển kế tục trên
cùng một cơ sở kinh tế - xã hội - văn hoá của nước Văn Lang và thời An Dương
Vương được coi là cùng thuộc một thời kỳ lịch sử với thời Hùng Vương. Căn cứ
vào thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian, cùng với những thành tựu nghiên cứu
hiện nay, có thể xác định nước Âu Lạc là một thực tế lịch sử và An Dương Vương
là nhân vật có thật trong lịch sử với một tiến trình tạm xác nhận như sau: Cư dân
Văn Lang thời Hùng Vương chủ yếu là người Lạc Việt và bao gồm một bộ phận
người Tây Âu (hay Âu Việt) cư trú ở miền rừng núi phía Bắc. Phía Bắc nước Văn
Lang và địa bàn cư trú của người Tây Âu, có những nhóm Lạc Việt sống xen kẽ.
Lạc Việt và Tây Âu là hai nhóm phía nam của cư dân Bách Việt sống gần gũi
nhau, có nhiều quan hệ mật thiết về kinh tế - văn hoá. Thục Phán một thủ lĩnh của
một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang với địa bàn cư trú
khá rộng từ phía Nam Trung Quốc đến Bắc Việt Nam ngày nay.

Vào cuối đời Hùng Vương, giữa Hùng và Thục xảy ra một cuộc xung đột kéo
dài. Cuộc xung đột đang tiếp diễn thì nước Văn Lang cũng như người Lạc Việt và
người Tây Âu cùng tồn bộ các nhóm người Việt trong khối Bách Việt đứng trước
một mối đe doạ cực kỳ nguy hiểm, đó là nạn ngoại xâm với quy mơ lớn của đế chế
Tần. Vào khoảng năm 241TCN nhà Tần tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta,
xâm phạm trước hết là địa bàn cư trú của người Tây Âu. Thục Phán với vai trò thủ
lĩnh liên minh bộ lạc Tây Âu đã phải đứng ra tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Các thủ lĩnh người Việt do yêu cầu của cuộc kháng chiến đã suy tôn Thục Phán lên
làm người chỉ huy cao nhất. Cuộc chiến đấu kéo dài năm đến sáu năm đã thắt chặt
quan hệ đoàn kết giúp đỡ gắn bó vốn có của người Tây Âu và người Lạc Việt và là
điều kiện chuẩn bị cho sự thành lập Nhà nước Âu Lạc thay thế Nhà nước Văn
Lang. Với cuộc kháng chiến này, trên thực tế cộng đồng cư dân Lạc Việt - Tây Âu
đã hình thành bằng xung đột. Thục Phán đã giành lấy vai trò thủ lĩnh lập ra nước
Âu Lạc gồm hai thành tố Âu Việt và Lạc Việt.
Trong triều Vua Thục, ngoài Vua ra vẫn có Lạc hầu giúp việc và ở các địa
phương vẫn do các Lạc tướng cai quản. Chế độ chính trị của Âu Lạc căn bản vẫn là
chế độ chính trị, xã hội của Văn Lang, được tăng cường và hoàn chỉnh hơn. Quyền
uy của nhà Vua được tăng cường hơn trước. Kinh đô được dời xuống đồng bằng,
trung tâm của đất nước và được xây dựng với quy mô lớn hơn (Thành Cổ Loa).
Lực lượng quân đội khá đơng, có tài liệu nói đến 1 vạn người (xem Việt sử lược),
được rèn luyện chu đáo và có kỹ thuật bắn cung nỏ cao.
Đất đai nước Âu Lạc được chia thành từng khu vực (các bộ). Bên dưới các
bộ, đơn vị cơ sở của nước Âu Lạc cũng như nước Văn Lang là công xã nông thôn
(làng, chiềng, chạ). Trong xã hội, ngoài tầng lớp thống trị, tầng lớp đông đảo nhất
là nông dân tự do ở các công xã và một bộ phận nhỏ là nơ lệ, có thể nhiều hơn thời
kỳ nước Văn Lang nhưng chủ yếu vẫn là nơ lệ gia đình.

Thủ Lĩnh
Tộc
Tùminh

trưởng
(Liên
bộ lạc)
(Cơng(Bộ
xã lạc)
thị tộc)

15

Vương
Bồ
Lạc chính
tướng
(Nhà nước)
(Cơng xã(Bộ)
nơng thơn)


Sơ đồ quá trình hình thành, tổ chức bộ máy của Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

16


3. Pháp luật thời Văn Lang, Âu Lạc
Thời đại Hùng Vương là giai đoạn chuyển biến dài lâu từ xã hội nguyên thuỷ
lên xã hội bước đầu có giai cấp. Nói đến Nhà nước là nói đến pháp luật. Rất tiếc là
những tài liệu nói về pháp luật ở nước ta trước cơng ngun hầu như khơng tìm
thấy. Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện với Hán Vũ Đế có nói đến "Luật Việt khác
với luật Hán hơn mười điều”(7) chúng ta biết rằng ở xã hội Trưng Vương và trước
đó đã có pháp luật. Có lẽ đó là một thứ luật tục hay tập quán pháp, nhưng chắc

chắn chưa phải là luật riêng của một địa phương mà là luật chung của người Lạc
Việt.
Tài liệu dân tộc học cho biết, ở xã hội các cư dân Tây Nguyên cũng như ở các
xã hội sơ khai khác, mỗi cộng đồng tộc người đều có luật tục (hoặc thành văn,
hoặc truyền miệng). Tuy nhiên, pháp luật thời đó mang tinh thần bình đẳng dân
chủ của cơng xã ngun thủy cộng với phép tắc tín ngưỡng cổ truyền, nhưng ít ra
cũng đã thể hiện tính nghiêm khắc của chính quyền trung ương.
Trong nghi thức hội lễ, về cách trang phục đã có những quy định bắt buộc,
phân biệt mọi người phải tuân theo. Nô tỳ và những người làm công việc phục dịch
thì chỉ được mặc "khố giây" chứ khơng được mặc "khố thả đi dài ở phía sau"
như những người giàu có (hình ảnh tìm được ở một số lượng đồng tại Tràng Kênh
- Hải Phịng)(8).
Trạng thái hơn nhân và gia đình trong "Lĩnh nam trích qi"ghi lại chế độ tập
tục hơn nhân từ thời Hùng Vương. Đó là chế độ hôn nhân một vợ một chồng là
một quy định nghiêm ngặt. Xung quanh vấn đề này hình thành một số tập tục có ý
nghĩa đặc sắc như tục thách cưới, sau lễ giạm là lễ hỏi,... nếu ai làm trái thì sẽ bị dư
luận cơng xã lên án và có thể bị đuổi ra khỏi cơng xã. Trong truyện kể về Tiên
Dung và Chử Đồng Tử có để cập đến tập quán hôn nhân “môn đăng hộ đối” và
hôn nhân theo chồng.
Về luật dân sự và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương cũng đã có những
quy định bắt buộc. Con trai đến tuổi trưởng thành phải làm lễ thành đinh, với
những nghi thức nhất định. Sau lễ công nhận ấy, làng xã sẽ đảm bảo một số lợi ích
cho họ để phát huy tài năng, sức lực cho xã hội. Trong thời Hùng Vương, hình
thức bóc lột lao dịch và cống nạp đã hình thành trong một số trường hợp. Ở tùng
bộ lạc đã có những tập tục cống nạp nhất định. Về tranh chấp dân sự tục thời Hùng
Vương đã quy định việc chia tài sản cho người chết. Ở địa vị giàu có, nếu có người
chết mà không chia tài sản cho họ theo đúng quy định thì sẽ bị xã hội lên án. Thân
phận của nô tỳ phụ thuộc vào các thủ lĩnh từ đời này đến đời khác nếu khơng có
cách gì chuộc mình (chuyện Mai An Tiêm).
Thời đại Hùng Vương (lịch sử, kinh tế, chính trị xã hội), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976;tr.164.

Phan Huy Lê – Hà Văn Tấn – Trần Quốc Vượng – Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Đại học và THCN
Hà Nội,1985;tr. 164.
7
8

17


Về hình luật, cho đến bây giờ chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến việc quý tộc
có quyền giết nơ tỳ, hoặc áp dụng hình phạt hà khắc đối với nô tỳ. Chỉ biết rằng An
Dương Vương giết Mỵ Châu khi biết nàng tiếp tay cho giặc, chúng ta có thể nghĩ
rằng phải chăng vào thời kỳ ấy tập quán pháp đã điều chỉnh đến việc kẻ phạm tội
nặng nhất là phản bội lại lợi ích của giống nịi. Qua truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng
Thuỷ có thể nghĩ đến tính nghiêm minh của pháp luật hình sự thời đó. Trong
truyện kể về "Tiên Dung và Chử Đồng Tử" cho biết nếu họ lấy nhau thì phải trốn
đi chỗ khác ở vì nếu khơng sẽ bị liệt vào tội chết,...
Nhận xét: Thời kỳ Hùng Vương - An Dương Vương với sự ra đời của Nhà
nước Văn Lang - Âu Lạc, đánh dấu sự phát triển vượt bậc về mọi mặt của tiến
trình lịch sử dân tộc, từ thời đại mông muội, dã man sang thời đại văn minh, một
Nhà nước sơ khai đầu tiên xuất hiện. Đó là một trong những thành tựu có ý nghĩa
lớn lao nhất của thời đại dựng nước trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên Nhà nước
Âu Lạc tồn tại không được bao lâu thì Triệu Đà tiến hành chiến tranh xâm lược.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cuối cùng bị thất bại, đất nước bước vào thảm
họa hơn 1.000 năm Bắc thuộc, đầy gian lao thử thách, khắc nghiệt.
Mặc dù vậy, thời đại Hùng Vương - An Dương Vương với sự phát triển rực
rỡ của nền văn minh sông Hồng và sự xuất hiện của một hình thái Nhà nước sơ
khai... "khơng ngừng chứng tỏ nền văn hiến lâu đời, lịch sử dựng nước sớm của
dân tộc ta, mà còn tạo lập một nền tảng vững bền cho toàn bộ sự sinh tồn và phát
triển của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Từ đấy, người Việt trên cơ sở kinh tế xã hội
gắn bó trong một thể chế Nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng biểu

thị trong một nền văn minh - văn hoá chung, đã tự khẳng định sự tồn tại của mình
như một quốc gia văn minh có dù điều kiện và đủ khả năng vững vàng tiến lên,
vượt qua mọi thử thách báo táp của lịch sử”(9).
II. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI BẮC THUỘC VÀ ĐẤU TRANH
CHỐNG BẮC THUỘC (TK II TCN – ĐẦU TK X)
Năm 179 TCN, Triệu Đà là Vua nước Nam Việt - một chính quyền phong
kiến cát cứ ở Trung Quốc - đã xâm lược và chinh phục được Âu Lạc. Từ đó đến
năm 905, các triều đại phong kiến Trung Quốc thay nhau đô hộ Âu Lạc và thi hành
chính sách đồng hố tồn diện, thâm độc và ráo riết nhằm thủ tiêu chủ quyền quốc
gia, xoá bỏ lãnh thổ Âu Lạc, biến dân tộc Việt thành một bộ phận cư dân Hán. Tuy
nhiên do tính chất cố kết trong cộng đồng làng xã, nhân dân Âu Lạc vừa giữ gìn
bản sắc dân tộc của mình, vừa đấu tranh lật đổ chính quyền đơ hộ thực dân giành
độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền độc lập tự chủ. Trong thời gian hơn 10 thế
kỷ, bên cạnh sự tồn tại của chính quyền đơ hộ là chủ yếu cịn có sự tồn tại đan xen
của những chính quyền độc lập tự chủ - đó là thành quả của phong trào đấu tranh
Phan Huy Lê – Hà Văn Tấn – Trần Quốc Vượng – Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Đại học và THCN
Hà Nội 1985; tr. 164.
9

18


giải phóng dân tộc của nhân dân Âu Lạc. Chính đặc điểm này đã tạo nên những nét
đặc trưng riêng cho pháp luật thời kỳ này.
Căn cứ vào không gian và mức độ trực trị, có thể chia q trình diễn biến của
tổ chức bộ máy chính quyền đơ hộ thời Bắc thuộc làm hai giai đoạn chính:
- Giai đoạn từ năm 179 TCN 40SCN: Chính quyền đơ hộ tổ chức bộ máy trực
trị đến cấp quận.
- Giai đoạn từ năm 43 trở đi: Chính quyền đơ hộ tổ chức bộ máy trực trị đến
cấp huyện.

1. Tổ chức bộ máy chính quyền đơ hộ
1.1. Tổ chức chính quyền đơ hộ từ 179 TCN đến năm 39
Sau khi chinh phục Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập lãnh thổ Âu Lạc vào Nam Việt
và bước đầu áp đặt ở Âu Lạc chế độ hành chính cai trị của nhà Triệu. Triệu Đà
chia lãnh thổ Âu Lạc cũ làm 2 quận: Giao Chỉ (Bắc bộ) và Cửu Chân (Thanh Nghệ
Tĩnh). Để quản lí quận, đứng đầu là mỗi viên quan sứ. Quan sứ không phải là quan
văn hay quan võ mà chỉ là sứ giả của nhà Vua. Các Lạc tướng đều chịu sự kiểm
soát của quan sứ. Bên dưới cấp quận, chưa có một tổ chức hành chính nào khác.
Như vậy, chế độ Lạc tướng đứng đầu các bộ vẫn tồn tại. Điều đó chứng tỏ tổ chức
hành chính trung gian (bộ) và cơ sở (công xã cổ truyền của người Việt) chưa hề bị
xố bỏ. Ngồi ra, giúp việc sứ giả có thể có một số quan chức cả người Hán lẫn
người Việt. Triệu Đà có đặt một chức quan võ là tả tướng và một số quân đồn trú
để kiềm chế các Lạc tướng. Chính quyền đơ hộ phải thơng qua các viên quan lại
người Việt (Lạc tướng, Âu quan) để thực hiện chính sách cai trị và tiến hành bóc
lột nhân dân.
Nhìn chung, nhân dân Âu Lạc mới chỉ mất Nhà nước Âu Lạc - đại diện cho
chủ quyền quốc gia chứ chưa mất các tổ chức hành chính trung gian và cơ sở cổ
truyền.
Từ năm 111 TCN, nhà Tây Hán sau khi chinh phục được Nam Việt đã thay
nhà Triệu cai trị Âu Lạc. Năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt Châu Giao Chỉ để thống
suất 7 quận miền lục địa. Trụ sở của châu đặt ở quận Giao Chỉ là quận lớn nhất, tại
đất Mê Linh. Đứng đầu châu là một viên Thừa Sứ, phụ trách thanh tra công việc
của các quận. Ở lãnh thổ Âu Lạc cũ, nhà Tây Hán đặt thêm quận Nhật Nam (từ
Đèo Ngang đến khoảng Quảng Nam - Đà Nẵng). Tại mỗi quận, nhà Tây Hán đặt
một viên Thái thú quản lý hành chính dân sự và một viên Đơ chỉ huy quân sự.
Dưới cấp quận là cấp huyện từ các bộ chuyển thành. Các lạc tướng vẫn nắm quyền
cai trị và vẫn được thế tập nhưng đổi gọi là huyện lệnh. Tuy nhà Hán đã áp đặt
được bộ máy đô hộ ở cấp châu, cấp quận nhưng ở cấp huyện và cấp cơ sở, bộ máy
quản lý hành chính cổ truyền của người Việt hầu như vẫn được giữ nguyên.


19


Từ năm 23 đến 220 (sau công nguyên), nhà Đông Hán thay thế nhà Tây Hán
cai trị Âu Lạc và tổ chức bộ máy đơ hộ hồn thiện hơn. Đứng đầu châu Giao Chỉ là
chức Châu Mục, đến năm 42 lại đổi thành Thứ Sử. Trước đây, đến tháng tám, Thứ
sử đi tuần hành các quận và cuối năm về kinh đơ tâu trình. Sang thời Đơng Hán,
Thứ sử phải ở luôn tại trụ sở làm việc và được cử người thay mặt mình về báo cáo
với triều đình. Giúp việc Châu mục có các lại viên gọi là Tịng sự sử gồm bảy
người, phụ trách việc tuyển bổ quan lại, các việc dân sự, quân sự, tài chính và giấy
tờ sổ sách của các quận. Đặc biệt khi Châu mục đi tuần hành các quận sẽ có biệt
giá tịng sự theo giúp việc. Ngồi ra cịn có chức giả tả phụ trách các việc văn thư,
mơn đình, thời tiết, tế tự, pháp luật... Ở cấp quận, ngoài viên Thái thú, nhà Đông
Hán đặt thêm chức Quận thừa giúp việc và thay thế khi Thái thú vắng mặt. Ở
những quận biên giới đặt một viên thừa (ngạch quan văn) làm Trưởng sử giúp việc
cho Thái thú. Đến năm 38, các quận biên giới bỏ chức Thái thú và Quận thừa, tất
cả quyền hành tập trung vào Thừa trưởng sử, nắm cả quyền quản lý hành chính,
xét xử và chỉ huy quân sự. Bộ máy hành chính cấp quận chia thành các tào với
nhiều nhân viên giúp việc đứng đầu là các Dun sử. Ngồi ra, tuỳ tùng nơi, mỗi
quận có các chức quan chuyên trách như Diêm quan thu thuế muối, Thiết quan phụ
trách đúc chế sắt, Công quan thu thuế thủ công nghiệp, Thuỷ quan thu thuế đánh
cá, đầm ao,...
Ở cấp huyện, huyện to có viên huyện lệnh ăn lương 1000 thạch lúa/ năm,
huyện nhỏ có viên huyện trưởng ăn lương 400 thạch lúa/ năm. Ở nước ta, huyện
lệnh, huyện trưởng vẫn do các Lạc tướng nắm giữ. Dưới huyện lệnh là một viên
Thừa (quan văn) và hai viên Uý (quan võ) giúp việc. Bộ máy hành chính cấp
huyện cũng chia thành các Tào chuyên trách. Nhiệm vụ chủ yếu của huyện là thu
thuế vào mùa thu đông và báo cáo lên quận.
Nhận xét: Từ tổ chức bộ máy chính quyền đơ hộ thời kỳ này ta thấy: Từ nhà
Triệu đến nhà Đơng Hán, bộ máy chính quyền đơ hộ ngày càng phát triển và hoàn

thiện hơn nhằm đẩy mạnh hơn nữa chính sách cai trị và bóc lột ráo riết nhân dân
Âu Lạc.
- Chính quyền đơ hộ đã dùng chính sách "Dĩ di cơng di" trong tổ chức bộ máy
hành chính cai trị. Điều đó thể hiện ở việc các Lạc tướng vẫn giữ chức huyện lệnh,
huyện trưởng ở cấp huyện. Chính sách này một mặt nói lên sự thâm độc, xảo quyệt
của chính quyền đơ hộ, mặt khác cũng bộc lộ sự hạn chế, non kém của chính quyền
đơ hộ trong việc khống chế nhân dân Âu Lạc.
1.2. Tổ chức chính quyền đơ hộ từ sau năm 43 đến 905
Sau khi đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lập lại nền thống trị ở Âu Lạc, nhà
Đông Hán đã thi hành những thay đổi căn bản trong bộ máy chính quyền đơ hộ,
đặc biệt ở cấp huyện.

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×