Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Câu chuyện hải dương nho sữa hàn quốc okok

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 101 trang )

Mở đầu
Chương trình mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) được xác định là
một giải pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng
phát triển nội lực và gia tăng giá trị, gắn với xây dựng nơng thơn mới. Trọng tâm
của Chương trình OCOP là phát triển sản phẩm nông nghiệp, phi nông nghiệp, dịch
vụ có lợi thế ở mỗi địa phương theo chuỗi giá trị, do các thành phần kinh tế tư nhân
và kinh tế tập thể thực hiện. Nhà nước đóng vai trị kiến tạo, ban hành khung pháp
lý và chính sách để thực hiện; định hướng quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa,
dịch vụ; quản lý và giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm; hỗ trợ đào tạo, tập
huấn, hướng dẫn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu,
xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, tín dụng…Câu chuyện sản phẩm là thơng
điệp mà chủ thể OCOP muốn truyền tải đến cộng đồng, đến người tiêu dùng nhằm
thay đổi cảm xúc của họ khi mua sắm sản phẩm, dịch vụ, có thể tạo nên thương
hiệu của sản phẩm. Nó mang giá trị vơ hình nhưng có thể chạm đến cảm xúc và trái
tim của người tiêu dùng, thay đổi hành vi của khách hàng. Câu chuyện OCOP chứa
đựng niềm tự hào, dấu ấn, giá trị truyền thống của mỗi vùng đất. Chính vì lý do
này, HTX nông nghiệp công nghệ cao và hữu cơ Phú Điền đã xây dựng câu chuyện
sản phẩm với mong muốn mang lại những sản phẩm có giá trị tới người tiêu dùng,
đồng thời sản phẩm cũng chứa đựng niềm tự hào của vùng đất xã Phú Điền, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Để viết nên câu chuyện sản phẩm ý nghĩa, HTX đã
khéo léo kể lại câu chuyện về hành trình sản xuất nho sữa Hàn Quốc độc đáo của
riêng mình, chinh phục khách du lịch khắp mọi miền đất nước. Để làm nên hương
vị đặc trưng của sản phẩm thì phải bắt đầu từ việc cải tạo giống, khâu chăm sóc, thu
hái, chế biến... đều phải tuân thủ theo quy trình VietGAP nghiêm ngặt. Bên cạnh
đó, bao bì sản phẩm được đầu tư thiết kế với hình ảnh độc đáo, mang nét văn hóa
đặc trưng của xã Phú Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, thu hút khách du
lịch tìm đến thưởng thức và mua về làm quà tặng người thân, bạn bè. Qua bao
thăng trầm sản phẩm của HTX đã được nhiều người tiêu dùng biết đến. Xã Phú
Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là quê hương có truyền thống nổi tiếng với
nghề ni trồng nơng sản. Đây cũng là một trong những sản phẩm OCOP đạt chuẩn
4 sao, bình quân mỗi năm, một người trồng nho sữa Hàn Quốc thu hoạch được


1


khoảng 10-15 tấn nho. Mức thu hoạch này có thể dao động tùy thuộc vào diện tích
trồng, giống nho, điều kiện khí hậu, chăm sóc,.... Để có được kết quả ấy là nỗ lực
của bà con nông dân trong phát triển giống cây con đặc sản và sự đồng hành, hỗ trợ
hết sức tích cực của cấp ủy, chính quyền, trong việc tạo điều kiện thuận lợi để nhân
dân đầu tư phát triển sản xuất. Đặc biệt, sản phẩm đã xây dựng được thương hiệu
gắn với câu chuyện khởi đầu cảm xúc. Với mong muốn làm chủ sản phẩm mình
làm ra, cùng bà con địa phương đưa nho sữa Hàn Quốc trở thành nơng sản có giá
trị trên thị trường.
Xã Phú Điền, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là một địa phương có nhiều
tiềm năng phát triển kinh tế nơng nghiệp. Trong những năm gần đây, xã đã tập
trung phát triển các sản phẩm OCOP, trong đó có sản phẩm nho sữa Hàn Quốc.
Nho sữa Hàn Quốc là loại nho có nguồn gốc từ Hàn Quốc, được du nhập vào
Việt Nam từ những năm 2010. Loại nho này có ưu điểm là quả to, mọng nước, có
vị ngọt thanh và mùi thơm đặc trưng. Nho sữa Hàn Quốc được nhiều người tiêu
dùng u thích và có giá trị kinh tế cao.
Năm 2023, HTX Nông nghiệp công nghệ cao và hữu cơ Phú Điền đã đăng
ký tham gia chương trình OCOP với sản phẩm nho sữa Hàn Quốc. Sau khi được
đánh giá đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX đã
được giới thiệu và tiêu thụ tại các hội chợ, triển lãm.
Sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX Nông nghiệp công nghệ cao và hữu
cơ Phú Điền được sản xuất theo quy trình khép kín, đảm bảo chất lượng. Nho được
trồng trên đất cao ráo, thốt nước tốt, được tưới tiêu và chăm sóc theo đúng quy
định. Nho được thu hoạch đúng độ chín, đảm bảo được hương vị và chất lượng tốt
nhất.
Sự thành công của sản phẩm nho sữa Hàn Quốc tại xã Phú Điền đã góp phần
nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp của địa
phương. Đây cũng là một minh chứng cho hiệu quả của chương trình OCOP trong

việc phát triển sản phẩm nơng nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.

2


Để sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền tiếp tục phát triển và khẳng
định được vị thế trên thị trường, cần có các giải pháp sau:
Nâng cao chất lượng sản phẩm: Tiếp tục áp dụng các quy trình sản xuất tiên
tiến, đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Mở rộng thị trường tiêu thụ: Tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến
người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Hỗ trợ người dân phát triển sản xuất: Đào tạo, tập huấn kỹ thuật trồng
trọt, chăm sóc và thu hoạch nho sữa Hàn Quốc cho người dân.
Với những giải pháp đồng bộ, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền
sẽ ngày càng phát triển, trở thành một sản phẩm OCOP chủ lực của địa phương,
mang lại nguồn thu nhập cao cho người dân.

3


Mục lục
Mở đầu......................................................................................................................1
Phần 1: Chương trình OCOP.................................................................................3
1.1

Sự cần thiết của Chương trình OCOP.......................................................3

1.2. Kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam....................................................................6
1.2.1 Kinh nghiệm quốc tế......................................................................................6

1.2.2 Kinh nghiệm ở Việt Nam................................................................................7
1.3. Đối tượng, mục tiêu của Chương trình........................................................9
1.3.1. Đối tượng của chương trình......................................................................9
1.3.2 Mục tiêu của Chương trình.........................................................................9
1.4 Xây dựng viết câu chuyện sản phẩm...........................................................10
1.4.1 Bản chất câu chuyện sản phẩm.................................................................10
1.4.2 Các yếu tố cần có của câu chuyện sản phẩm...........................................10
Phần 2: Câu chuyện sản phẩm OCOP của Kon Tum........................................11
Phần 3: Tổng kết....................................................................................................92

4


Phần 1: Chương trình OCOP
1.1 Sự cần thiết của Chương trình OCOP
Chương trình OCOP (Mỗi xã một sản phẩm) là một chương trình phát triển kinh
tế nơng thơn trọng tâm của Chính phủ Việt Nam, được triển khai từ năm 2018.
Chương trình nhằm mục tiêu phát triển các sản phẩm nơng nghiệp, nơng thơn có lợi
thế, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế nơng
thơn bền vững. Sự cần thiết của Chương trình OCOP được thể hiện qua những vai
trị sau:
Thúc đẩy phát triển kinh tế nơng thơn: Chương trình OCOP giúp phát triển các
sản phẩm nơng nghiệp, nơng thơn có lợi thế, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho
người dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông
thôn.
Nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nơng
nghiệp: Chương trình OCOP giúp các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn được nâng
cao chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên

thị trường.
Tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam: Chương trình
OCOP giúp xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nơng nghiệp, nơng thơn, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế của sản phẩm nơng nghiệp Việt Nam trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Thúc đẩy liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp: Chương trình OCOP
giúp thúc đẩy liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp, tạo ra chuỗi giá trị
khép kín, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho người dân.
Góp phần xây dựng nơng thơn mới: Chương trình OCOP góp phần xây dựng
nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông
thôn, tạo ra diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.

5


Trên thực tế, Chương trình OCOP đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần
phát triển kinh tế nơng thơn, nâng cao thu nhập cho người dân. Tính đến tháng 11
năm 2023, cả nước đã có 5.300 sản phẩm OCOP được cơng nhận, trong đó có
1.100 sản phẩm đạt 4 sao và 3 sao. Các sản phẩm OCOP đã được tiêu thụ rộng rãi
trên thị trường trong nước và xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
Để Chương trình OCOP tiếp tục phát huy hiệu quả, cần có sự quan tâm, đầu tư
của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự chủ động, sáng tạo của người dân, doanh
nghiệp trong sản xuất, kinh doanh các sản phẩm OCOP.
Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là một nhiệm vụ trọng tâm
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước ta. Trong 10 năm qua, Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt được những thành tựu to lớn, lịch
sử, tạo nên bước ngoặt trong phát triển nông thôn nước ta. Diện mạo nông thơn
khởi sắc, hạ tầng sản xuất, đời sống, văn hóa, xã hội thay đổi rõ rệt, đáp ứng một
cách căn bản nhu cầu của người dân. Kinh tế nông thôn phát triển, có sự chuyển
dịch từ nơng nghiệp sang cơng nghiệp - dịch vụ nông thôn, từng bước gắn phát

triển tồn diện nơng thơn với cơ cấu lại và đổi mới mơ hình tăng trưởng ngành
nơng nghiệp, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống vật chất, tinh thần của người dân,
góp phần tăng sự hài lịng của cư dân nơng thơn, tạo nền tảng ổn định chính trị - xã
hội thông qua tăng thu nhập và giảm nghèo nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh đó kinh
tế nơng thơn vẫn cịn gặp nhiều khó khăn: Cơ cấu lại nơng nghiệp chưa đồng đều,
nông nghiệp phát triển thiếu bền vững, năng suất lao động thấp, thu nhập và đời
sống của người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn. Trong
bối cảnh đó, nhằm phát huy dư địa, tiềm năng, lợi thế của các sản phẩm ngành nghề
nông thôn, đặc biệt là các sản phẩm đặc sản, truyền thống địa phương, ngày
07/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 490/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình OCOP giai đoạn 2018 - 2020. Đây là Chương trình phát triển
kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát huy nội lực (trí tuệ sáng tạo, lao động,
ngun liệu, văn hóa...) để đẩy mạnh phát triển sản xuất, liên kết chuỗi giá trị nhằm
6


nâng cao thu nhập, đời sống của người dân gắn với xây dựng nơng thơn mới. Trọng
tâm của Chương trình OCOP là hướng đến khuyến khích, hỗ trợ các đối tượng sản
xuất, kinh doanh quy mô nhỏ và vừa ở nông thôn khai thác tiềm năng về đất đai, lợi
thế so sánh, phát huy vai trò của cộng đồng, giá trị truyền thống để thúc đẩy tổ
chức sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao giá trị cho sản phẩm, góp phần phát
triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thúc
đẩy hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, hình thành các diễn đàn kết nối cung - cầu,
nâng cao các giá trị văn hóa của các miền q Việt Nam. Ngồi ra, Chương trình
OCOP cịn có ý nghĩa giải quyết nhiều vấn đề quan trọng ở khu vực nông thôn như:
Giảm nghèo, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, môi trường, phát huy trí tuệ sáng
tạo của người dân và hình thành các tổ chức liên kết kinh tế cộng đồng bền vững.
1.2. Lịch sử và kinh nghiệm của Chương trình OCOP trên thế giới và Việt
Nam
1.2.1 Lịch sử phát triển Chương trình OCOP

Nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thái Lan... trong xây dựng, triển khai chiến lược phát triển kinh tế đất nước nói
chung, đã rất chú ý đến phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn theo hướng
nội sinh, chú trọng các nguồn lực sẵn có làm động lực phát triển (đất đai, tài
nguyên, điều kiện địa lý, cơng nghệ truyền thống, lịng tự hào, khả năng sáng
tạo...). Điển hình là Phong trào OVOP (One Village One Product) “Mỗi làng một
sản phẩm” bắt đầu được khởi xướng ở Oita (Nhật Bản) từ năm 1979 nhằm khuyến
khích mỗi làng lựa chọn một sản phẩm đặc biệt cho khu vực và phát triển nó lên
một tiêu chuẩn quốc gia và toàn thế giới. Sự phát triển của Phong trào "Mỗi làng
một sản phẩm" được xem như một cách tăng cường kỹ năng kinh doanh của các
cộng đồng địa phương bằng cách sử dụng các nguồn lực, kiến thức địa phương, tạo
ra giá trị bổ sung thêm thông qua hoạt động xây dựng thương hiệu của sản phẩm
địa phương và xây dựng nguồn nhân lực trong nền kinh tế địa phương. Phong trào
OVOP đã lan tỏa và được triển khai thực hiện trên 40 nước ở các khu vực Châu Á,
7


Châu Phi, Châu Mỹ ... và đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội khu vực nông thôn của các quốc gia. Tại Trung Quốc có những Phong trào
như: “Mỗi nhà máy, một sản phẩm”, “Mỗi thành phố, một sản phẩm”, “Mỗi làng,
một báu vật”. Tại Thái Lan có Chương trình OTOP (One Tambon, One Product).
Tại Philippine có Phong trào “One Barangay, One Product” (Mỗi làng, một sản
phẩm). Tại Malaysia có Phong trào “Satu Kampung, Satu Produk” (Mỗi làng, một
sản phẩm). Hiện tại là Phong trào "Satu Daerah, Satu Industry" (SDSI hay "Mỗi
làng một nghề"). Tại Indonesia (Đơng Java) có Phong trào “Back to Village” (Trở
lại làng quê). Ở Campuchia có Phong trào “One Village, One Product” (Mỗi làng,
một sản phẩm). Tại Malawi có Phong trào “One Village, One Product” (Mỗi làng,
một sản phẩm). Tại Hàn Quốc có Chương trình "Mỗi làng một nhãn hiệu”. Ở Hoa
Kỳ có Phong trào “One Paris, One Product” (Mỗi xứ một sản phẩm). Đến nay đã
có 143 quốc gia trên thế giới triển khai chương trình này. Cho dù tên gọi ở mỗi
quốc gia có khác nhau, song đều có điểm chung của chương trình là: Tiếp cận về

phát huy giá trị nội sinh gắn với tổ chức cộng đồng, đặc biệt là giải quyết việc làm,
lao động nông thôn; Giải pháp để tổ chức sản xuất, phát huy tiềm năng các sản
phẩm đặc sản địa phương; Chương trình phát triển kinh tế gắn với các chính sách
hỗ trợ phù hợp; Xúc tiến thương mại với tiếp cận 3 về thương mại các di sản vật
thể, hình ảnh địa phương, quốc gia để thúc đẩy tiêu dùng và nâng cao giá trị… Ở
Việt Nam, từ năm 2006, Chính phủ đã ban hành các chính sách như Nghị định số
66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn, được thay thế bằng Nghị định
số 52/2018/NĐ-CP năm 2018, với mục tiêu tập trung hỗ trợ phát triển ngành nghề
nông thôn, nhằm phát huy các thế mạnh về sản phẩm ở các vùng nông thôn. Kết
quả sau 05 năm triển khai Chương trình đã khẳng định hướng đi đúng, sáng tạo, bài
bản trong phát triển sản phẩm hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn các tổ chức sản xuất
với sản phẩm, phát huy những lợi thế, thế mạnh của địa phương, đưa nông dân chủ
động hội nhập và tiếp cận kinh tế thị trường, góp phần nâng cao chất lượng Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đúc kết từ các bài học kinh
nghiệm và yêu cầu của thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 về việc phê duyệt Chương trình OCOP giai đoạn
2018 - 2020 để triển khai trên phạm vi cả nước nhằm những mục đích như sau:
8


Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong sản xuất, thương mại
các sản phẩm truyền thống, sản phẩm có lợi thế ở khu vực nơng thơn, góp phần
phát triển kinh tế nơng thơn theo hướng phát triển nội lực và gia tăng giá trị. Góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, nhằm
phát triển kinh tế khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân
trong Chương trình xây dựng nơng thơn mới, thực hiện có hiệu quả nhóm tiêu chí
"Kinh tế và tổ chức sản xuất" trong Bộ tiêu chí Quốc gia về xã nơng thơn mới. Đến
nay, Chương trình đã được triển khai đồng bộ và rộng khắp trên cả nước, đã có
63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Đề án/Kế hoạch triển khai
Chương trình, cùng với đó là bộ máy tổ chức triển khai Chương trình được xây

dựng từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.
Chương trình OCOP (Mỗi xã một sản phẩm) là một chương trình phát triển
kinh tế nơng thơn trọng tâm của Chính phủ Việt Nam, được triển khai từ năm 2018.
Chương trình nhằm mục tiêu phát triển các sản phẩm nơng nghiệp, nơng thơn có lợi
thế, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp
Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế nơng
thơn bền vững.
Nguồn gốc của Chương trình OCOP: Chương trình OCOP được lấy cảm
hứng từ phong trào OVOP (One Village One Product) “Mỗi làng một sản phẩm”
bắt đầu được khởi xướng ở Oita (Nhật Bản) từ năm 1979. Phong trào này đã đạt
được những kết quả tích cực, góp phần phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao thu
nhập cho người dân ở Nhật Bản.
Tiến trình triển khai Chương trình OCOP: Chương trình OCOP được triển
khai theo 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (2018 - 2020): Xây dựng và ban hành khung tiêu chí, quy
trình, hướng dẫn triển khai chương trình; tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho các địa
phương, đơn vị, cá nhân tham gia chương trình; triển khai đánh giá, phân hạng sản
phẩm OCOP.
+ Giai đoạn 2 (2021 - 2025): Tiếp tục triển khai đánh giá, phân hạng sản phẩm
OCOP; hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP; xây dựng và phát triển hệ thống phân
9


phối, tiêu thụ sản phẩm OCOP; xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm
OCOP.
+ Giai đoạn 3 (2026 - 2030): Tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
OCOP; phát triển sản phẩm OCOP gắn với du lịch nông thôn; xây dựng hệ thống
thông tin, quản lý sản phẩm OCOP.
Chương trình OCOP đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần phát triển
kinh tế nơng thơn, nâng cao thu nhập cho người dân. Cụ thể:

+ Tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho người dân: Chương trình OCOP đã giúp phát
triển các sản phẩm nông nghiệp, nông thơn có lợi thế, tạo ra nguồn thu nhập ổn
định cho người dân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân nông thôn.
+ Nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nơng
nghiệp: Chương trình OCOP giúp các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn được nâng
cao chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm, nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường.
+ Tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam: Chương trình
OCOP giúp xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nơng nghiệp, nơng thơn, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế của sản phẩm nơng nghiệp Việt Nam trên thị trường
trong nước và quốc tế.
+ Thúc đẩy liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: Chương trình OCOP
giúp thúc đẩy liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp, tạo ra chuỗi giá trị
khép kín, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho người dân.
+ Góp phần xây dựng nơng thơn mới: Chương trình OCOP góp phần xây dựng
nơng thơn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông
thôn, tạo ra diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.
1.2. Kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam
1.2.1 Kinh nghiệm quốc tế
10


- Kinh nghiệm của Nhật Bản: Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến những thành công của Phong trào "Mỗi làng, một sản phẩm” của Nhật Bản
chính là ngay từ ban đầu các nhà lãnh đạo đã đưa ra được ba nguyên tắc cơ bản làm
chỗ dựa, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tiếp theo. Ba nguyên tắc đó là “địa
phương hướng đến tồn cầu”, “độc lập và sáng tạo” và “đào tạo nguồn nhân lực”.
Hầu hết các quốc gia khi triển khai phong trào cho dù có tên gọi khác nhau nhưng

đều vận dụng sáng tạo trên nền tảng của 3 nguyên tắc này.
- Kinh nghiệm của Thái Lan: Khác với Nhật Bản phong trào “Mỗi làng, một
sản phẩm” ở Thái Lan được đề xuất bởi người đứng đầu chính phủ, vì vậy nó được
nâng lên thành một chương trình và hoạt động có bài bản hơn. Chương trình có bộ
máy quản lý từ Trung ương đến địa phương. Chương trình được thực hiện theo một
chu trình rất bài bản và các sản phẩm tham gia chương trình được chia thành sáu
nhóm nên rất thuận lợi cho việc tổ chức quản lý và quảng bá, xúc tiến thương mại.
- Vai trị của người dân nơng thơn trong Phong trào “Mỗi làng, một sản
phẩm”: Động lực cơ bản làm nên sức sống bền vững và cũng là thành công lớn
nhất của Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” chính là việc đặt người dân nơng
thơn vào vị trí trung tâm của q trình triển khai, phát triển của mọi hoạt động
trong Phong trào. Đó cũng là ý nghĩa của từ “Phong trào” và là nguyên nhân vì sao
ở đây người ta chỉ nói và viết về Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” chứ chưa
bao giờ có khái niệm về chương trình hay dự án “Mỗi làng, một sản phẩm”.
1.2.2 Kinh nghiệm ở Việt Nam
Tại Việt Nam, Nghị định số 66/2006/NĐ-CP (được thay thế bằng Nghị định
số 52/2018/NĐ-CP năm 2018) là hành lang pháp lý quan trọng cho phát triển
ngành nghề nông thôn, phát huy các thế mạnh về sản phẩm ở các vùng nông thôn.
Cùng với đó, kết quả thí điểm mơ hình “Mỗi làng một nghề” ở một số địa phương
đã cho thấy, các sản phẩm truyền thống được hỗ trợ cải tiến, phục vụ tốt cho nhiều
11


thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời, các cơ sở sản xuất đã trở thành điểm
thu hút khách du lịch đến tham quan và mua sắm. Tiếp nối triển khai thí điểm mơ
hình “Mỗi làng một nghề” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhiều tỉnh,
thành phố đã chủ động áp dụng thực hiện để triển khai phát triển sản phẩm ngành
nghề nông thôn tại các địa phương, đặc biệt là Hà Nam. Từ cách làm bài bản, có hệ
thống, từ việc bố trí bộ máy chỉ đạo, tổ chức thực hiện, ban hành các cơ chế, chính
sách, huy động nguồn lực từ nội lực cộng đồng, đến hướng dẫn qui trình triển khai,

xúc tiến thương mại... Chương trình mỗi xã một sản phẩm của tỉnh Hà Nam đã
khẳng định hướng đi đúng, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Đây là những bài
học quan trọng được đúc kết từ kinh nghiệm của tỉnh trong triển khai Chương trình
OCOP. Tuy vậy, ở góc độ một địa phương mới chỉ khơi dậy tiềm năng, thế mạnh
các sản phẩm đặc sản của từng địa phương, chưa mở rộng và phát triển sản phẩm ra
tầm quốc gia và quốc tế, cho nên cần phải được mở rộng, phát triển sản phẩm
ngành nghề nông thôn ra phạm vi cả nước để mở rộng thị trường, khơi dậy tiềm
năng, lợi thế của nông thôn các vùng miền, tạo hành lang pháp lý, cơ chế vận hành
Chương trình một cách đồng bộ, tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế nơng
thơn, góp phần xây dựng nơng thơn mới trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở kết quả
điều tra, thu thập số liệu các vấn đề liên quan đến phát triển sản phẩm OCOP trên
phạm vi cả nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tham mưu Chính phủ
xây dựng Đề án Chương trình OCOP giai đoạn 2018 – 2020 được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018. Chương trình
OCOP đã có những hướng tiếp cận riêng, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, cụ thể
là:
+ Xây dựng Chương trình OCOP trở thành chương trình phát triển kinh tế
nơng thơn gắn với xây dựng nông thôn mới, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị, tạo ra sức lan tỏa mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của các chủ thể kinh tế
ở khu vực nông thôn;
12


+ Tập trung khai thác vào các sản phẩm đặc sản, ngành nghề nông thôn
truyền thống, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát suy sự sáng tạo, sức mạnh cộng
đồng trong tổ chức sản xuất, hình thành các chuỗi giá trị hàng hóa gắn với cộng
đồng;
+ Đa dạng các giải pháp, chính sách nhằm phát huy sự sáng tạo trong cách
làm của các địa phương, nhằm phát huy nguồn lực cộng đồng, phù hợp với điều
kiện của từng địa phương;

+ Tăng cường các giải pháp về xúc tiến thương mại, khai thác thị trường nội
địa để phù hợp với đặc trưng sản xuất, thương mại của sản phẩm. Xây dựng sự kết
nối về thương mại giữa các địa phương, áp dụng công nghệ số để thúc đẩy hệ thống
thị trường phù hợp, hướng đến xây dựng thương hiệu OCOP Việt Nam. Những
thành cơng ban đầu của Chương trình OCOP và hiệu ứng lan tỏa của chương trình
trong cả nước hiện nay sẽ là nền tảng để thúc đẩy phát triển sản xuất sản phẩm,
dịch vụ có tiềm năng ở các địa phương. Kết quả đạt được của chương trình sẽ góp
phần vào việc thực hiện thành cơng Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.
1.3. Đối tượng, mục tiêu của Chương trình
1.3.1. Đối tượng của chương trình
Đối tượng của chương trình là sản phẩm và chủ thể thực hiện.
- Sản phẩm: Gồm sản phẩm hàng hóa và sản phẩm dịch vụ có nguồn gốc từ
địa phương, hoặc được thuần hóa, đặc biệt là đặc sản vùng, miền, trên cơ sở khai
thác lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái, văn hóa, nguồn gen, tri thức và cơng
nghệ địa phương. Trong bài này, sản phẩm là trà dược liệu của HTX sống để yêu
thương tỉnh Hà Nam.
- Chủ thể thực hiện: HTX sống để yêu thương tỉnh Hà Nam.
1.3.2 Mục tiêu của Chương trình
13


Chương trình OCOP có nhiều mục tiêu, trong đó có các mục tiêu chính như sau:
Nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn hóa các sản phẩm: Đến hết năm 2020 đạt
khoảng 2.400 sản phẩm (đến tháng 8/2020 đã có 1.928 sản phẩm được đánh giá,
phân hạng và có Quyết định công nhận). Định hướng đến năm 2030 khoảng 4.800
sản phẩm.
Củng cố, hoàn thiện tổ chức sản xuất theo hướng liên kết giữa hộ sản xuất
với hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp. Phát triển mới các doanh nghiệp, HTX 8
tham gia Chương trình OCOP: Đến hết năm 2020 khoảng 500 doanh nghiệp nhỏ và
vừa, HTX tham gia Chương trình (đến tháng 8/2020 đã có 344 doanh nghiệp và

437 HTX tham gia). Định hướng đến 2030 khoảng 2.000 doanh nghiệp, HTX tham
gia.
1.4 Xây dựng viết câu chuyện sản phẩm
1.4.1 Bản chất câu chuyện sản phẩm
Người ta thường nói “bán sản phẩm là bán câu chuyện, mỗi sản phẩm đều
mang một giá trị nào đó mà thơng qua sử dụng nó đem lại cho khách hàng sự “thỏa
mãn” nhất định. Câu chuyện sản phẩm là thông điệp mà chủ thể (HTX) truyền tải
phần “GIÁ TRỊ CỐT LÕI” của sản phẩm đến với khách hàng.
1.4.2 Các yếu tố cần có của câu chuyện sản phẩm
- Xác định được khách hàng mục tiêu của sản phẩm là ai? Khách sẽ thấy họ
và vấn đề của họ trong câu chuyện sản phẩm. Ví dụ đối tượng mà sản phẩm hướng
tới là người già, người trẻ, giới tính, thu nhập của họ… để có câu chuyện phù hợp
với họ. Cụ thể trong bài này “câu chuyện sản phẩm của HTX sống để yêu thương
tỉnh Hà Nam”. Đối tượng mà sản phẩm mà HTX hướng tới là những người có nhu
cầu về chăm sóc sức khỏe, đặc biệt, ưa thích sử dụng thảo dược hay dược liệu để

14


chữa bệnh. Ở độ tuổi từ 35 - 80 tuổi với mức thu nhập từ trung trở lên và ở cả hai
giới tính.
- Chỉ ra được đâu là vấn đề họ đang gặp phải khi sử dụng các mặt hàng
tương tự. Bởi vì hàng giả hàng kém chất lượng mọc tràn lan trên thị trường, nhà
nước chưa quản lý được hết và khách hàng chưa có khả năng để nhận biết được sản
phẩm chính hãng. Hoặc là sản phẩm chưa có nhãn mác.
- Chỉ ra được các giải pháp mà sản phẩm của doanh nghiệp sẽ giúp họ giải
quyết các vấn đề đó. Dược liệu quý có nguồn gốc từ thiên nhiên an tồn và khơng
gây tác dụng phụ khi dùng sản phầm. Sản phẩm có nhãn mác, xuất xứ rõ ràng, an
tồn cho người sử dụng, khơng sử dụng thuốc bảo quản.
- Vẽ ra các “viễn cảnh” mà khách hàng sẽ đạt được, thoả mãn thông qua việc

sử dụng các giải pháp của doanh nghiệp. Trà thảo dược thay thế nước giải khát,
ngồi ra cịn giúp giải quyết một số căn bệnh cho cơ thể. Thậm chí cả những căn
bệnh hiểm nghèo như ung thư...Nếu như sản phẩm thuốc tây chữa căn bệnh ở thời
điểm tức thời, khó chữa được tận gốc mà còn gây tác dụng phụ hay bị mất tác dụng
với thuốc, thì khi sử dụng thuốc bằng dược liệu có thể triệt tận gốc các nguồn bệnh,
không gây tác dụng phụ. Hơn thế nữa dược liệu cịn tốt cho cơ thể bổ sung vitamin
và khống chất cần thiết.
- Hãy tìm ra yếu tố “độc nhất” trong giải pháp của doanh nghiệp (hãy phân
tích đối thủ cạnh tranh). Câu chuyện sản phẩm cần được xây dựng trên nền tảng 3
nội dung:
i) Sự đặc sắc, yếu tố truyền thống của địa phương gắn với điều kiện sản xuất, kỹ
năng, kỹ xảo của con người;
ii) Giá trị cốt lõi, thông điệp của chủ thể gắn với việc phát huy giá trị của cộng
đồng, hướng đến người tiêu dùng;
15


iii) Sự đặc sắc, sáng tạo và chất lượng của sản phẩm nhằm bảo tồn, phát huy và
hướng đến phát huy giá trị của sản phẩm.
Phần 2: Câu chuyện sản phẩm OCOP của xã Phú Điền, tỉnh Hải Dương.
“CÂU CHUYỆN VỀ SẢN PHẨM OCOP CỦA PHÚ ĐIỀN, TỈNH HẢI

DƯƠNG”
Ở miền Bắc Việt Nam, có một xã nhỏ tên là Phú Điền, thuộc huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương. Xã có diện tích đất nơng nghiệp lớn, với nhiều tiềm năng
phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong những năm gần đây, xã đã tập trung phát
triển các sản phẩm OCOP, trong đó có sản phẩm nho sữa Hàn Quốc. Nho sữa Hàn
Quốc là loại nho có nguồn gốc từ Hàn Quốc, được du nhập vào Việt Nam từ những
năm 2010. Loại nho này có ưu điểm là quả to, mọng nước, có vị ngọt thanh và mùi
thơm đặc trưng. Nho sữa Hàn Quốc được nhiều người tiêu dùng u thích và có giá

trị kinh tế cao.
Năm 2023, HTX Nông nghiệp công nghệ cao và hữu cơ Phú Điền đã đăng
ký tham gia chương trình OCOP với sản phẩm nho sữa Hàn Quốc. Sau khi được
đánh giá đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX đã
được giới thiệu và tiêu thụ tại các hội chợ, triển lãm.
Tại các hội chợ, triển lãm, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX đã được
trưng bày một cách bắt mắt, thu hút sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng. Sản
phẩm được bày bán với giá cả hợp lý, phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng. Với
chất lượng vượt trội và hương vị thơm ngon, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX
Phú Điền đã nhanh chóng được người tiêu dùng yêu thích. Sản phẩm đã được tiêu
thụ hết ngay trong ngày đầu tiên của hội chợ. Sự thành công của sản phẩm nho sữa
Hàn Quốc tại các hội chợ, triển lãm đã góp phần quảng bá thương hiệu sản phẩm,
mở rộng thị trường tiêu thụ. Đây cũng là động lực để người dân xã Phú Điền tiếp
tục phát triển sản phẩm nho sữa Hàn Quốc, nâng cao giá trị kinh tế cho địa phương.
Một số kinh nghiệm giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm nho sữa Hàn Quốc tại các hội
chợ, triển lãm. Để giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm nho sữa Hàn Quốc tại các hội
chợ, triển lãm hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: Trang trí gian hàng bắt mắt,
16


thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Trình bày sản phẩm một cách khoa học, hợp
lý. Cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm, bao gồm: nguồn gốc, chất lượng, giá
cả,...Tư vấn, giới thiệu sản phẩm một cách nhiệt tình, chu đáo. Cung cấp các
chương trình khuyến mãi, giảm giá hấp dẫn để kích cầu tiêu thụ.
Với những kinh nghiệm trên, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền
sẽ tiếp tục được quảng bá rộng rãi, mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao
giá trị kinh tế cho địa phương.
Sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của HTX Nông nghiệp công nghệ cao và hữu
cơ Phú Điền được sản xuất theo quy trình khép kín, đảm bảo chất lượng. Nho được
trồng trên đất cao ráo, thốt nước tốt, được tưới tiêu và chăm sóc theo đúng quy

định. Nho được thu hoạch đúng độ chín, đảm bảo được hương vị và chất lượng tốt
nhất. Sự thành công của sản phẩm nho sữa Hàn Quốc tại xã Phú Điền đã góp phần
nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp của địa
phương. Đây cũng là một minh chứng cho hiệu quả của chương trình OCOP trong
việc phát triển sản phẩm nơng nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và sức
cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp Việt Nam. Câu chuyện về sản phẩm nho sữa
Hàn Quốc của xã Phú Điền là một câu chuyện đầy cảm hứng về sự đổi mới, sáng
tạo và dám nghĩ dám làm của người dân nông thôn. Câu chuyện này đã cho thấy,
với sự quyết tâm và nỗ lực của người dân, nông nghiệp Việt Nam hồn tồn có thể
phát triển bền vững và hiệu quả. Tiếp theo, câu chuyện sẽ kể về những khó khăn,
thách thức mà người dân xã Phú Điền đã phải đối mặt trong quá trình phát triển sản
phẩm nho sữa Hàn Quốc. Câu chuyện cũng sẽ kể về những giải pháp mà người dân
đã thực hiện để vượt qua những khó khăn, thách thức đó.
Những khó khăn, thách thức mà người dân xã Phú Điền đã phải đối mặt
trong quá trình phát triển sản phẩm nho sữa Hàn Quốc. Nho sữa Hàn Quốc là một
loại cây trồng mới, chưa được phổ biến tại Việt Nam. Do đó, người dân xã Phú
Điền đã gặp phải khơng ít khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển sản phẩm
này.
Một trong những khó khăn lớn nhất là khâu kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc.
Nho sữa Hàn Quốc là loại cây trồng có yêu cầu cao về kỹ thuật, đặc biệt là về điều
17


kiện đất đai, khí hậu. Do đó, người dân xã Phú Điền đã phải học hỏi kinh nghiệm từ
các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Khâu kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc là một trong những khó khăn lớn nhất mà
người dân xã Phú Điền đã phải đối mặt trong quá trình phát triển sản phẩm nho sữa
Hàn Quốc.
Nho sữa Hàn Quốc là loại cây trồng có yêu cầu cao về kỹ thuật, đặc biệt là
về điều kiện đất đai, khí hậu. Để trồng và chăm sóc nho sữa Hàn Quốc đạt năng

suất, chất lượng cao, người dân cần lưu ý một số vấn đề sau:
Điều kiện đất đai: Nho sữa Hàn Quốc thích hợp trồng trên đất thịt nhẹ, có độ
pH từ 6,5 - 7,5. Đất cần được tơi xốp, thốt nước tốt.
Khí hậu: Nho sữa Hàn Quốc ưa khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình từ 18 - 25 độ
C.
Giống nho: Nên chọn giống nho sữa Hàn Quốc có chất lượng tốt, phù hợp
với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương.
Kỹ thuật trồng: Nho sữa Hàn Quốc được trồng theo trụ đứng. Khoảng cách
trồng giữa các cây là 1,5 - 2m, khoảng cách giữa các hàng là 2 - 2,5m.
Kỹ thuật chăm sóc: Nho sữa Hàn Quốc cần được tưới nước thường
xuyên, đặc biệt là trong giai đoạn ra hoa, đậu quả. Cây cần được bón phân đầy
đủ, cân đối, đặc biệt là phân đạm, lân, kali. Cây cần được cắt tỉa, tạo hình thường
xuyên để cây phát triển cân đối, cho năng suất cao.
Với những yêu cầu cao về kỹ thuật, người dân xã Phú Điền đã phải học hỏi
kinh nghiệm từ các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Các hộ dân
đã tham gia các lớp tập huấn, hội thảo về kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc nho sữa Hàn
Quốc. Họ cũng đã đến các vùng trồng nho sữa Hàn Quốc ở các tỉnh khác để học
hỏi kinh nghiệm.
Nhờ những nỗ lực của người dân, khâu kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc nho sữa
Hàn Quốc của xã Phú Điền đã được nâng cao. Sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã
Phú Điền đã đạt chất lượng cao, được người tiêu dùng ưa chuộng.
18


Trong thời gian tới, để tiếp tục phát triển sản phẩm nho sữa Hàn Quốc, cần
tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc áp dụng các kỹ thuật trồng
trọt, chăm sóc tiên tiến. Người dân cần được hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, thị trường tiêu
thụ để tiếp tục phát triển sản phẩm này.
Khó khăn thứ hai là khâu đầu ra cho sản phẩm. Nho sữa Hàn Quốc là loại
quả có giá trị kinh tế cao, nhưng lại có thời gian thu hoạch ngắn. Do đó, người dân

xã Phú Điền đã gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Khó khăn thứ hai là
khâu đầu ra cho sản phẩm. Nho sữa Hàn Quốc là loại quả có giá trị kinh tế cao,
nhưng lại có thời gian thu hoạch ngắn. Do đó, người dân xã Phú Điền đã gặp khó
khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Nho sữa Hàn Quốc được thu hoạch từ tháng 7
đến tháng 9. Đây là thời điểm nhu cầu tiêu thụ nho sữa Hàn Quốc cao. Tuy nhiên,
thời gian thu hoạch của nho sữa Hàn Quốc lại ngắn, chỉ kéo dài khoảng 2 tháng. Do
đó, người dân xã Phú Điền đã gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm trong thời
gian ngắn. Để giải quyết khó khăn này, người dân xã Phú Điền đã thực hiện một số
giải pháp sau: Tham gia các hội chợ, triển lãm để quảng bá sản phẩm và tìm kiếm
khách hàng. Hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo
đầu ra cho sản phẩm. Nhờ những giải pháp này, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của
xã Phú Điền đã dần khẳng định được vị thế trên thị trường. Sản phẩm đã được tiêu
thụ rộng rãi trên cả nước và xuất khẩu sang một số nước trên thế giới.
Nhờ những nỗ lực của người dân, sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú
Điền đã dần khẳng định được vị thế trên thị trường. Sản phẩm đã được tiêu thụ
rộng rãi trên cả nước và xuất khẩu sang một số nước trên thế giới.
Sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền có chất lượng cao, được người
tiêu dùng ưa chuộng. Người dân xã Phú Điền đã nỗ lực học hỏi kinh nghiệm, áp
dụng các kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc tiên tiến để nâng cao chất lượng sản
phẩm. Nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền có quả to, mọng nước, có vị ngọt thanh
và mùi thơm đặc trưng. Người dân xã Phú Điền đã chủ động tìm kiếm thị trường
tiêu thụ sản phẩm. Họ đã tham gia các hội chợ, triển lãm để quảng bá sản phẩm và
tìm kiếm khách hàng. Họ cũng đã hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị tiêu thụ sản
phẩm để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm. Chính quyền địa phương đã có sự hỗ trợ
19


tích cực cho người dân trong việc phát triển sản phẩm. Chính quyền địa phương đã
hỗ trợ người dân về vốn, kỹ thuật, thị trường tiêu thụ.
Với những nỗ lực của người dân và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương,

sản phẩm nho sữa Hàn Quốc của xã Phú Điền đã dần khẳng định được vị thế trên
thị trường. Sản phẩm đã được tiêu thụ rộng rãi trên cả nước và xuất khẩu sang một
số nước trên thế giới. Đây là một thành cơng đáng khích lệ, góp phần nâng cao giá
trị kinh tế cho địa phương, nâng cao đời sống của người dân.
Trong thời gian tới, để tiếp tục phát triển sản phẩm nho sữa Hàn Quốc, cần
tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, hỗ trợ người
dân tiếp cận với các nguồn vốn vay, đầu tư, đẩy mạnh liên kết sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm.
Trên thị trường hiện nay do hội nhập toàn cầu với thương mại tự do ngày
càng phát triền, việc mua bán trao đổi sản phẩm qua các quốc gia ngày một phổ
biến và dễ dàng hơn. Do vậy việc mua bán hàng hóa trên thị trường cũng ngày một
dễ dàng, tuy nhiên, thì cũng có nhưng mặt hàng giả trôi nổi trên thị trường qua các
kênh buôn lậu, nhập lậu bằng đường biên giới. Hay như những quy định về an toàn
thực phẩm ở nước ta vẫn chưa được kiểm soát hết, các mặt hàng kém chất lượng
được bán tràn lan, người tiêu dùng rất khó mà nhận biết được bằng mắt thương.
Những mặt hàng giả đó không chỉ xuất hiện ở các mặt hàng quần áo, mà còn tất cả
các sản phẩm trên thị trường đều rất dễ để làm giả. Họ bán với giá rẻ hơn gấp nhiều
lần so với sản phẩm chính hãng, tuy nhiên thì thực tế nhiều người tiêu dùng quan
tâm tới giá hàng rẻ hơn là chất lượng hay xuất sứ của sản phẩm đó như thế nào,
nhiều các bộ chức năng trong quá trình thanh tra chưa thực sự nghiêm trong việc
kiểm sốt họ khơng kiểm tra hoặc nhận hối lộ từ các nhà bán hàng để cho qua
chuyện. Dẫn đến thị trường không giảm mặt hàng kém chất lượng mà còn ngày một
tăng. Đây cũng là nguy cơ xuất hiện nhiều căn bệnh lạ gây hại tới sức khỏe con
người. Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân làm cho tỷ lệ bệnh ung
thư tại Việt Nam ngày càng tăng cao nhưng 3 nhóm nguyên nhân lớn là do cường
độ lao động, ô nhiễm môi trường và chế độ ăn uống. Cường độ lao động cao, một
số khảo sát cho thấy, có 95% số lao động khu vực doanh nghiệp FDI và doanh
20




×