Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận tn giải pháp nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng trong đảng bộ quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.42 KB, 41 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG ĐẢNG BỘ
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

MỞ ĐẦU

Tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận trong hệ thống tổ chức của Đảng trong
quân đội, là tổ chức lãnh đạo của Đảng ở đơn vị cơ sở, có vai trị đặc biệt quan
trọng quyết định đến chất lượng xây dựng đơn vị và kết quả hoàn thành các nhiệm
vụ được giao. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ: “tổ chức cơ sở đảng
(chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”.
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng; việc ra nghị
quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng là một khâu rất
quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng trong
Quân đội nói riêng. Chủ trương, đường lối đúng đắn của Nghị quyết là điều kiện tiên
quyết và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Tuy nhiên, khơng phải cứ có chủ trương,
đường lối đúng, ta đã có ngay thành cơng. Thực tiễn những năm qua cho thấy kết
quả thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ, còn nhiều hạn chế, yếu kém trong khâu tổ chức thực hiện.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, khẳng định: Không ngừng nâng cao
năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện
mới… Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên, làm cho mỗi TCCSĐ có trách nhiệm tổ chức và quy tụ
được sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao…”.
Sẽ khơng thể xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu
biểu” nếu tổ chức cơ sở đảng ở đó khơng trong sạch, vững mạnh, năng lực xây
dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng hạn chế, đội ngũ đảng
viên yếu kém. Vì vậy, nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết
của tổ chức cơ sở đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân đội nói
riêng trong giai đoạn hiện nay thực sự là vấn đề vừa cấp thiết, vừa mang tính cơ bản
lâu dài trong tình hình mới.




NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC XÂY DỰNG VÀ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG
QUÂN ĐỘI

Năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng
là khả năng nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên sát với
tình hình, nhiệm vụ của cơ sở; là trình độ nhận thức và năng lực thực tiễn để đề ra
nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, tuyên truyền vận động quần chúng tổ chức thực hiện
và kiểm tra nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết; có tinh thần đồn kết, thống nhất,
ý chí phấn đấu vươn lên, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh
khắc phục những biểu hiện sai trái, tiêu cực trong tổ chức đảng và đơn vị, ngăn ngừa
những ảnh hưởng tiêu cực của đời sống xã hội, chống lại sự phá hoại của kẻ thù, giữ
vững trận địa chính trị của Đảng ở cơ sở; bảo đảm cho tổ chức cơ sở đảng ln trong
sạch, vững mạnh, hồn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.


2
Năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của các tổ chức cơ sở
đảng trong quân đội bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, của Ban chấp hành Trung
ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; trực tiếp là Quân ủy Trung
ương, của đảng ủy cấp trên trực tiếp cơ sở, đồng thời là kết quả xây dựng và rèn
luyện về mọi mặt của từng tổ chức cơ sở đảng đó.
Hiện nay, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới, địi hỏi Đảng phải ngang tầm để lãnh đạo cách mạng thắng
lợi, phải nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của cả hệ
thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, trong đó có tổ chức cơ sở đảng trong

quân đội là một tất yếu khách quan, là một yêu cầu rất quan trọng, là nhiệm vụ then
chốt trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, được xuất phát từ những vấn đề cơ
bản sau:
1. Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò của tổ chức cơ sở đảng
Học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân
đã khẳng định: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là một tổ
chức thống nhất về chính trị tư tưởng, có tổ chức chặt chẽ ở các cấp từ Trung ương
đến cơ sở, được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Các tổ chức đảng
trong quá trình phát triển là một trong những khâu quan trọng trong hệ thống tổ chức
và trong thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Với vị trí và vai trị là nền tảng của Đảng,
các tổ chức cơ sở đảng có quan hệ hữu cơ với các phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và của thời đại.
C.Mác - Ph.Ăngghen ngay từ buổi đầu đề xuất tư tưởng xây dựng, chỉnh
đốn Đảng công nhân đã sáng suốt đề ra việc xây dựng hệ thống tổ chức từ dưới lên
trên, từ chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ đến Ban Chấp hành Trung ương, tại Đại hội
Liên đồn những người cộng sản, hai Ơng chỉ rõ: “tổ chức cơ sở đảng tức chi bộ
nên trở thành trung tâm hạt nhân trong cơng tác đồn và cũng như trong các tổ
chức quần chúng xã hội khác”1, và “phải biến mỗi chi bộ của mình thành trung
tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân”2.


3
Kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã
sáng tạo ra hình thức mới chính đảng của giai cấp công nhân. Người đã căn cứ vào
điều kiện lịch sử đương thời của nước Nga mà nhấn mạnh thêm một bước về vai
trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng: Điều quan trọng hơn là các chi bộ địa phương,
đặc biệt là chi bộ đảng của nhà máy và những phần tử tiên tiến trong đó là cơng
nhân có mối liên hệ trực tiếp với quần chúng, chính là cơ sở, hạt nhân vững chắc
làm chỗ dựa khơng gì lay chuyển được cho phong trào cách mạng công nhân dân

chủ xã hội, Người viết: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung
ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động,
tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy
phải thông qua cơng tác mn hình, mn vẻ đó mà rèn luyện mình, rèn luyện
đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”3.

1

C.Mác - Ph.Ăngghen tuyển tập tiếng Trung, Nxb ND, 1972 quyển 1, tr.386.

2

C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 7 Nxb CTQG, H 1993, tr. 348.

3

V. I. Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr. 232 - 233.


V.I.Lênin còn chỉ rõ: ở thời kỳ chiến tranh cách mạng việc xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong đơn vị cơ sở đã trở thành sự bảo đảm cơ bản cho thắng lợi của chúng
ta, là kinh nghiệm cho chúng ta. Hồng quân sở dĩ chiến đấu gian khổ mà không
tan dã, một nguyên nhân quan trọng là đã xây dựng chi bộ đảng trong quân đội.
Trong thời kỳ xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, tổ chức cơ sở đảng phải
phát huy đầy đủ vai trò thành lũy để trở thành yếu tố cơ bản bảo đảm thắng lợi cho
sự nghiệp của chúng ta.
Quán triệt và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất quan tâm tới việc xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, trước hết là các
chi bộ vững mạnh và việc giáo dục rèn luyện đội ngũ đảng viên có phẩm chất,

năng lực lãnh đạo quần chúng. Bác chỉ rõ: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ
tốt thì mọi việc sẽ tốt”4 và “Muốn xây dựng Đảng tốt thì phải có Đảng tốt, chi bộ
tốt, muốn có đảng bộ tốt, chi bộ tốt phải có đảng viên tốt”5. Người căn dặn: Việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng có ý nghĩa mấu chốt quyết định
thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng.
Đảng ta từ khi ra đời cho đến nay đã thường xuyên quan tâm xây dựng các
tổ chức cơ sở đảng của mình vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ qua
từng giai đoạn của cách mạng. Chính vì thế đã lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng
của toàn Đảng lên một tầm cao mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đảng
ta ln khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, đó là tổ chức
lãnh đạo của Đảng ở đơn vị cơ sở, trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức cơ sở
đảng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, điều này đã được khẳng định, nhấn mạnh và
nhắc đi, nhắc lại nêu trong Điều lệ Đảng tại các kỳ Đại hội.
Các tổ chức cơ sở đảng lập thành nền tảng của Đảng. Điều 21, Chương V
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ
cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đảng là một tổ chức, được
tổ chức một cách chặt chẽ và khoa học từ Ban Chấp hành Trung ương đến chi bộ.
Các tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận cấu thành Đảng, là nền tảng của Đảng.
Khơng có tổ chức cơ sở đảng thì khơng có Đảng. Sự tồn tại của Đảng trước hết là
sự tồn tại của các tế bào của Đảng là chi bộ, đảng bộ cơ sở. Sự vững chắc của nền


tảng của Đảng là do các tổ chức cơ sở đảng thành lập, là cái bảo đảm chắc chắn cho
sự vững chắc của toàn Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo cấp trên
của Đảng với quần chúng. Là tổ chức bắt rễ trong các đơn vị cơ sở của xã hội, tổ chức
cơ sở đảng có vị trí gần gũi với quần chúng, quan hệ gắn bó giữa Đảng với quần
chúng nhân dân là nguồn sức mạnh của Đảng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát
triển của Đảng phải thường xuyên liên hệ gắn bó với quần chúng, đây là vấn đề
thuộc bản chất của Đảng Cộng sản. Quần chúng là đối tượng lãnh đạo của Đảng,

vừa là lực lượng, vừa là sức mạnh của Đảng. Sức sống và cội nguồn sức mạnh của
Đảng được bắt nguồn từ trong mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, chủ yếu
được thực hiện thông qua cầu nối là tổ chức cơ sở đảng.

4
5

Hồ Chi Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 1996, tr. 210.

Hồ Chi Minh toàn tập, tập 9, Nxb ST, H, 1989, tr. 311.


Trong Quy định số 49/QĐ-TW, ngày 22/12/2021 của Bộ Chính trị quy định
về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ rõ: Tổ chức cơ sở đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập theo Điều lệ Đảng, quy định của Bộ
Chính trị và theo tổ chức cơ sở trong quân đội, do cấp ủy cấp trên trực tiếp quy
định. Căn cứ vào số lượng đảng viên, cơ cấu tổ chức và tính chất, đặc điểm, nhiệm
vụ của đơn vị mà thành lập tổ chức cơ sở đảng ba cấp, hai cấp hay một cấp. Tổ
chức cơ sở đảng ba cấp gồm đảng ủy cơ sở, đảng ủy bộ phận và chi bộ. Tổ chức cơ
sở đảng hai cấp gồm đảng ủy cơ sở và chi bộ. Tổ chức cơ sở đảng một cấp là chi
bộ cơ sở.
Các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội có vị trí, vai trị như tổ chức cơ sở
đảng nói chung, nhưng do đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ của quân đội là hoạt động
đặc thù, cho nên tổ chức cơ sở đảng trong Quân đội là hạt nhân lãnh đạo chính trị,
là trung tâm đồn kết và quyết định sự vững mạnh toàn diện của đơn vị. Tổ chức
cơ sở đảng trong quân đội giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo thực hiện
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ của quân đội và đơn vị. Đơn
vị cơ sở mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ phụ thuộc vào chất lượng tổ chức cơ sở
đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng

vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách ấy. Với tư cách là hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị cơ sở, là cầu nối liền Đảng với quần chúng, tổ chức cơ
sở đảng có vai trị trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, chỉ thị mệnh lệnh của người
chỉ huy vào quần chúng và tổ chức thực hiện thắng lợi ở đơn vị cơ sở. Thông qua
việc quán triệt và tổ chức thực hiện, tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm báo cáo và
phản ánh với Đảng những ý kiến đóng góp của quần chúng về đường lối, chính
sách đã ban hành để Đảng nghiên cứu, bổ sung cho phù hợp. Thực tiễn đã chứng
minh, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng có được quán triệt và thực
hiện nghiêm túc hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, không những thế tổ chức cơ sở đảng cịn có vai trò kiểm tra,
giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người chỉ huy ở đơn vị cơ sở. Thực
hiện chức năng lãnh đạo của mình, tổ chức cơ sở đảng không chỉ bảo đảm cho


người chỉ huy hồn thành nhiệm vụ mà cịn kiểm tra, giám sát chỉ đạo, định hướng
người chỉ huy hoạt động theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy,
giữa bí thư với chỉ huy. Tổ chức cơ sở đảng còn thường xuyên tiến hành sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm góp phần bổ sung, hồn thiện, phát triển đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện kết nạp và sàng lọc đảng viên,
nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng. Quản lý, giáo dục rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, đào tạo cán bộ
cho Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của toàn Đảng và các tổ
chức đảng các cấp nhưng trực tiếp là tổ chức cơ sở đảng. Bởi vì, tổ chức cơ sở
đảng là nơi tập hợp đảng viên trong một tổ chức, nơi đảng viên trực tiếp sinh hoạt,
hoạt động, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng, đảng viên chỉ có thể hoàn thành được
nhiệm vụ và phấn đấu rèn luyện tu dưỡng tốt khi trực tiếp sinh hoạt, hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng. Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội và từng đơn vị, tổ chức cơ sở
đảng có trách nhiệm quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng


viên theo phương hướng, yêu cầu nội dung quy định trong các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo, thông qua công tác tư tưởng, cơng tác tổ
chức, tự phê bình và phê bình, qua giám sát của quần chúng để tổ chức cơ sở đảng
trực tiếp tác động đến đảng viên, quản lý chặt chẽ, giáo dục, rèn luyện họ trở thành
đảng viên ưu tú của Đảng trong quân đội. Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi bồi
dưỡng lựa chọn trong phong trào cách mạng của quần chúng những người ưu tú có đủ
điều kiện tiêu chuẩn để kết nạp họ vào Đảng và đào tạo họ trở thành cán bộ của
Đảng, đồng thời sàng lọc, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng
viên, làm trong sạch, tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp phần nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Mặt khác, Đảng là một tổ chức cho nên
việc bầu các cơ quan lãnh đạo các cấp phải thật sự dân chủ và từ dưới lên trên, từ
chi bộ đến Ban Chấp hành Trung ương.
Vì vậy, thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện nghị quyết của
tổ chức cơ sở đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng trong quân đội nói riêng để nó
thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm đồn kết của đơn vị cơ sở
là trách nhiệm chính trị của các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, của bản thân cơ sở và của
mọi đảng viên là mang tính cấp thiết hiện nay.
2. Xuất phát từ sự phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới
Trên thế giới, trong những năm tới, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm
ẩn những yếu tố khó lường. Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa
đựng nhiều khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển;
đại dịch Covid-19 tiếp tục có những diễn biến hết sức phức tạp. Những diễn biến đó
đã tác động mạnh mẽ vào nước ta, đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự lãnh đạo của

Đảng và công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là ở các đơn vị cơ sở.
Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đã làm cho phong
trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch lợi dụng tình hình đó để tăng cường chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn


lại, làm cho các nước này đứng trước những khó khăn thử thách to lớn. Tình hình
đó đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đơng Nam Á nói riêng,
xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng vẫn luôn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Hiện nay, khu vực này các nước lớn đang tranh
giành ảnh hưởng về kinh tế, chính trị có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời các
thế lực thù địch ra sức kích động hằn thù dân tộc đối với Việt Nam và trắng trợn
đẩy mạnh hoạt động phá hoại khối đoàn kết gắn bó lâu đời của nhân dân ba nước
Việt Nam - Lào - Cămpuchia.
Trong nước, những thành tựu những năm qua và 35 năm đổi mới (1986 2021) làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững
mơi trường hịa bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh
tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn. Cách mạng nước ta bước sang thời kỳ phát triển
mới đẩy mạnh công


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta đang
phải đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức lớn và rất quyết liệt. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII chỉ rõ 4 nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình hình suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm

mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”. Hiện nay, chúng ta
đang thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngồi mặt
tích cực làm cho tính năng động, chủ động, sáng tạo được nâng lên, nhưng cũng đã
và đang phá vỡ khơng ít những chuẩn mực giá trị truyền thống văn hóa, tinh thần xã
hội, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta,
mối quan hệ quân dân, với việc xây dựng thế trận lịng dân, xây dựng cơ sở chính
trị trong nhân dân. Trước những biến động phức tạp của tình hình, dẫn đến các
loại hình tổ chức cơ sở đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân
đội nói riêng cũng có sự phát triển, điều này đã được khẳng định là: Trong quân đội
những thành tựu và kết quả đạt được trong 35 năm đổi mới, đặc biệt là trong 5 năm
qua là rất to lớn, tạo cơ sở vững chắc để chúng ta bước vào thực hiện nhiệm vụ trong
thời kỳ tới.
3. Xuất phát từ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng Quân đội
Nhiệm vụ tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con
người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử
lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy
mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch”.


Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của quân đội ta đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, trong đó quân đội là lực lượng nịng
cốt cùng tồn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Để quân đội

hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, vấn đề đặt ra
yêu cầu phải xây dựng quân đội vững mạnh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
khẳng định: “xây dựng Quân đội nhân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc
phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn
định để phát triển đất nước”.
Quân đội phải hoàn thành tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân
công tác, đội quân lao động sản xuất trong tình hình mới. Với tư cách là đội quân
chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang, quân đội phải là lực lượng đặc biệt chống cả
thù trong, giặc ngồi. Qn đội khơng chỉ là đội qn đi tuyên truyền vận động
nhân dân như trước


đây, mà phải tham gia tập hợp nhân dân, động viên tổ chức nhân dân, tạo mọi điều
kiện để nhân dân tham gia tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội như: xóa
nạn mù chữ, xóa đói giảm nghèo, giúp dân phịng chống lụt bão, hỏa hoạn, dịch
bệnh; đặc biệt trong thời gian qua quân đội làm tốt chức năng phòng chống dịch
COVID-19… Đồng thời tham gia phát triển kinh tế, xây dựng các khu vực kinh tế
quốc phòng, các doanh nghiệp trên các địa bàn chiến lược.
Do đó, để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội hiện nay
vấn đề tất yếu khách quan không thể thiếu được là phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội, muốn tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với qn đội
thì phải khơng ngừng nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của
hệ thống tổ chức đảng các cấp trong quân đội, trước hết là tổ chức cơ sở đảng.
4. Thực trạng tình hình năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị
quyết của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quân đội hiện nay
Hiện nay, năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của các tổ chức
cơ sở đảng và hệ thống tổ chức đảng các cấp trong quân đội đã có bước phát triển

mới, đúng hướng, đã đánh giá đúng tình hình, nhận định rõ những ưu điểm, khuyết
điểm, đề ra những chủ trương, giải pháp sát đúng, trực tiếp lãnh đạo các đơn vị trong
quân đội ta từng bước trưởng thành, vượt qua bao khó khăn, thử thách, hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ. Đối với tổ chức đảng các cấp, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng có
nhiều chuyển biến tích cực, từng bước được củng cố tạo sự thống nhất cao hơn về
chính trị tư tưởng, đội ngũ đảng viên cơ bản phát huy tốt vai trò tiền phong gương
mẫu.
4.1. Ưu điểm
Thứ nhất: Các cấp uỷ và đại đa số đảng viên đã có nhận thức đúng về vị trí,
vai trị của sinh hoạt ra nghị quyết lãnh đạo và công tác triển khai tổ chức thực
hiện nghị quyết, thường xuyên giữ vững nền nếp chế độ sinh hoạt.
Các cấp uỷ đã thường xuyên quán triệt và thực hiện có kết quả các chỉ thị,
hướng dẫn của trên, duy trì có nền nếp các chế độ sinh hoạt và tổ chức các hội nghị
triển khai làm công tác chuẩn bị, ra nghị quyết lãnh đạo và phân công tổ chức thực
hiện nghị quyết chặt chẽ, nghiêm túc, đạt được mục đích yêu cầu đề ra. Từ cấp uỷ


cấp trên đến cấp uỷ các chi bộ đã giành nhiều cơng sức cho cơng tác xây dựng Đảng,
trong đó đã tập trung nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết
ở các chi bộ, coi đây là khâu đột phá của quá trình nâng cao năng lực, sức chiến
đấu của toàn Đảng. Do làm tốt công tác giáo dục, quán triệt về sự cần thiết phải
nâng cao chất lượng sinh hoạt ra nghị quyết, do đó đã thống nhất và từng bước
nâng cao được nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị của sinh hoạt ra nghị quyết
trong đội ngũ cấp uỷ và đảng viên. Trong sinh hoạt đã nâng cao tính chiến đấu, tính
giáo dục, phê phán những quan điểm nhận thức chưa đầy đủ của một số đảng viên
về vị trí, vai trò của sinh hoạt ra nghị quyết, cho nên những biểu hiện như đơn giản
trong thực hiện nền nếp, chế độ sinh hoạt hay trong công tác chuẩn bị qua loa v..v. đã
được chấn chỉnh và khắc phục kịp thời. Quá trình triển khai đã bảo đảm thường
xuyên, giữ vững đúng nền nếp chế độ sinh hoạt của các cấp bộ đảng.
Thứ hai: Công tác chuẩn bị nội dung sinh hoạt ở các cấp uỷ khá chu đáo, lựa

chọn hình thức sinh hoạt phù hợp, tổ chức sinh hoạt có chất lượng.


Chuẩn bị nội dung, lựa chọn hình thức sinh hoạt là vấn đề rất quan trọng,
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và thành công của các buổi sinh hoạt.
- Đối với sinh hoạt lãnh đạo: Các chi uỷ trực tiếp là đồng chí bí thư đã phát
huy tốt trách nhiệm trong chuẩn bị dự thảo nghị quyết lãnh đạo, bám sát nghị quyết
lãnh đạo của Đảng uỷ cấp trên, từ chức năng, nhiệm vụ của mình, căn cứ vào kết
quả thực hiện nghị quyết giai đoạn trước, xác định những nội dung lãnh đạo sát
thực, đúng và trúng. Theo sự chỉ đạo của Đảng uỷ cấp trên, các cấp bộ đảng cấp
dưới đã mạnh dạn trong đổi mới nội dung sinh hoạt lãnh đạo, đã khắc phục được
tình trạng ra nghị quyết dàn trải, ôm đồm nhiều nội dung...Nghị quyết lãnh đạo
hàng tháng chỉ xác định 2 đến 3 trọng tâm. Do vậy đã tập trung khắc phục các
khâu yếu, mặt yếu trong đơn vị.
- Đối với sinh hoạt học tập: Các cấp uỷ đã thường xuyên quán triệt đầy đủ
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp, tổ chức cho đảng viên tham gia đầy đủ các
lớp học tập, tập huấn do Đảng uỷ cấp trên tổ chức, định hướng tư tưởng kịp thời góp
phần nâng cao nhận thức cho đảng viên, tạo sự thống nhất trong nội bộ, giữ vững
sự ổn định về chính trị.
- Đối với sinh hoạt tự phê bình và phê bình: Các cấp uỷ đã thường xuyên
giáo dục, nâng cao nhận thức cho đảng viên về mục đích ý nghĩa, phương pháp
tiến hành trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, bản thân đội ngũ cấp uỷ (bí
thư) ln gương mẫu đi đầu trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Vì vậy các mặt
yếu kém của tập thể cũng như của từng đảng viên được khắc phục, tạo được sự
đồng thuận và nhất trí cao.
Q trình tổ chức sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng: Các cấp uỷ mà trực tiếp
là đồng chí bí thư ln chấp hành đúng, đầy đủ các qui định về nguyên tắc thủ tục
trong sinh hoạt.
Thứ ba: Đại đa số đảng viên trong tham gia sinh hoạt đã nêu cao được ý
thức trách nhiệm, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết xây dựng nghị quyết lãnh đạo.

Do làm tốt công tác giáo dục, quán triệt của các cấp uỷ, do vậy đại đa số
đảng viên đã có nhận thức đúng và đầy đủ về vị trí vai trị của sinh hoạt tổ chức
cơ sở đảng cũng như sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức


cơ sở đảng hiện nay. Vì vậy đảng viên đã chấp hành và tham gia đầy đủ các buổi
sinh hoạt, các trường hợp vắng đều có lý do và được cấp uỷ đồng ý. Trong sinh
hoạt đại đa số đảng viên đề cao trách nhiệm, tích cực trong tham gia ý kiến đóng
góp xây dựng vào dự thảo nghị quyết, có chính kiến, quan điểm rõ ràng, thẳng thắn
trong đấu tranh phê bình và tự phê bình, từng bước khắc phục được tư tưởng nể
nang, né tránh, phê bình xi chiều, có thái độ khách quan, có nhận thức và quan
điểm đúng trong thực hiện phê bình và tự phê bình đó là: Phê bình việc chứ khơng
phê bình người, do vậy qua mỗi buổi sinh hoạt phê bình và tự phê bình đã góp phần
tạo nên sự đồn kết thống nhất cao trong tập thể, cá nhân đảng viên hay tập thể
cấp uỷ có chuyển biến tốt sau sinh hoạt.
Trong sinh hoạt học tập nhiều đảng viên có nhận thức đúng và đầy đủ tự
giác trong chấp hành các buổi học tập do cấp uỷ cấp trên tổ chức đồng thời tích
cực trong tìm hiểu tài liệu, thu thập thơng tin đến những vấn đề có liên quan,
những vấn đề bức xúc đặt ra, góp phần nâng cao nhận thức và có thái độ quan điểm
đầy đủ đúng đắn.
4.2. Khuyết điểm


Thực tiễn trong những năm qua các tổ chức cơ sở đảng đã tích cực chủ động
đổi mới nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết ở các tổ
chức cơ sở đảng, tuy nhiên chất lượng đang còn bộc lộ một số khuyết điểm, hạn chế
như sau:
Một là: Một số tổ chức cơ sở đảng và một số đảng viên chưa nhận thức đầy
đủ về vị trí, vai trị ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức
thực hiện nghị quyết ở các tổ chức cơ sở đảng.

Biểu hiện ở việc chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc các văn bản hướng dẫn của
trên về việc nâng cao chất lượng, do vậy trong quá trình vận dụng triển khai, tổ
chức thực hiện có biểu hiện lúng túng, có việc giản đơn, làm qua loa đại khái, làm
cho xong, hiệu quả thông qua các buổi sinh hoạt hạn chế, chưa thể hiện rõ nét tính
lãnh đạo, tính giáo dục và chiến đấu. Đảng viên một số chưa nhận thức đúng về vị
trí vai trò và sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện
nghị quyết do đó trong sinh hoạt chưa phát huy hết trách nhiệm, chất lượng ý kiến
phát biểu chưa cao, đấu tranh không thẳng thắn, ngại va chạm.
Hai là: Việc kết hợp các hình thức sinh hoạt chưa khoa học, cơng tác chuẩn
bị sinh hoạt của cấp uỷ (bí thư) ở một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế nhất là
sinh hoạt học tập.
Chất lượng xây dựng và triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết phụ thuộc
rất nhiều vào công tác chuẩn bị của cấp uỷ mà trực tiếp bí thư. Đồng thời việc kết
hợp tốt các hình thức sinh hoạt là biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực xây
dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của các tổ chức cơ sở đảng. Hiện nay khâu
yếu nhất là công tác chuẩn bị sinh hoạt học tập và chưa kết hợp tốt các hình thức
sinh hoạt, chỉ chú trọng đến sinh hoạt lãnh đạo, sinh hoạt phê bình và tự phê bình.
Qua khảo sát thực tế thì hầu hết các tổ chức cơ sở đảng chỉ tập trung vào các
nội dung sinh hoạt ra nghị quyết lãnh đạo và sinh hoạt phê bình và tự phê bình. Tuy
nhiên việc chuẩn bị nội dung có cấp uỷ (bí thư) chưa tích cực đổi mới nội dung, dự
thảo cịn dàn trải, chưa có chỉ tiêu cụ thể, biện pháp lãnh đạo còn chung chung. Việc
chuẩn bị dự thảo nghị quyết lãnh đạo của một số cấp uỷ còn dài thiếu trọng tâm, mới


dừng lại ở việc thống kê, điểm đầu công việc, chưa mang tính tổng hợp khái quát
cao.
Trong sinh hoạt học tập: Đây còn là khâu yếu của một số tổ chức cơ sở đảng;
cịn thụ động trơng chờ vào cấp trên, chưa chủ động trong việc xác định nội dung,
chuẩn bị tài liệu và chưa tổ chức học tập cho đảng viên ở cấp bộ đảng mình. Hàng
tháng việc thơng tin cho đảng viên chỉ dựa vào tài liệu sinh hoạt học tập do Tổng cục

Chính trị cấp, chưa đầu tư sưu tầm thêm tài liệu, do vậy nội dung sinh hoạt nghèo
nàn, chưa xác định rõ những yêu cầu đạt được cho nên việc định hướng tư tưởng
cho đảng viên chưa thật sâu sắc
Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình: một số tổ chức cơ sở đảng chưa
quán triệt đầy đủ các văn bản hướng dẫn của trên, nội dung chuẩn bị chưa tỉ mỉ,
thiếu cụ thể, do vậy khi có ý kiến trái ngược thì xử lý của cấp uỷ (bí thư) cịn lúng
túng, thể hiện khá rõ trong kiểm tra đảng viên, đánh giá chất lượng tổ chức đảng và
đảng viên cũng như đóng góp ý kiến cho cấp uỷ cấp trên.
Ba là: Năng lực của một số cấp uỷ (bí thư) trong tổ chức và duy trì nền nếp
sinh hoạt cịn hạn chế.


Điều này thể hiện khá rõ trong sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở đảng, một số
đồng chí bí thư còn lúng túng trong phương pháp điều hành, điều khiển các cuộc
họp chưa khoa học, chưa đúng qui trình và thủ tục ngun tắc. Có đồng chí khi trình
bầy dự thảo nghị quyết của cấp uỷ còn diễn giải, phân tích chưa thật trùng với
chuẩn bị của cấp uỷ, khêu gợi thảo luận chưa vào trọng tâm, trọng điểm. Tóm tắt kết
luận chưa gọn, chưa rõ, tính khái qt chưa cao, bỏ sót ý kiến phát biểu của đảng
viên. Khi có tình huống nẩy sinh thì xử lý thiếu linh hoạt, việc triển khai tổ chức
thực hiện nghị quyết cịn chung chung, phân cơng trách nhiệm thiếu cụ thể.
Bốn là: Trong tham gia sinh hoạt một số đảng viên chưa phát huy hết trách
nhiệm.
Do nhận thức chưa đầy đủ về vị trí vai trị, ý nghĩa của việc nâng cao chất
lượng xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết, cho nên một số đảng viên có biểu
hiện trong sinh hoạt tập trung tư tưởng không cao, cá biệt có đồng chí cịn làm việc
riêng, cơng tác chuẩn bị tham gia sinh hoạt thiếu chủ động do vậy còn có hiện
tượng chậm thời gian, chưa tích cực hăng hái trong tham gia ý kiến phát biểu, cịn
có đảng viên chỉ định mới phát biểu và chất lượng ý kiến phát biểu khơng cao, nặng
về nhất trí, nhấn mạnh đến ưu điểm, khuyết điểm ít đề cập hoặc đề cập thì cũng
mang tính chung chung. Trong đấu tranh phê bình và tự phê bình cịn có hiện tượng

nể nang né tránh, bằng mặt khơng bằng lịng. Một số đảng viên chưa tích cực tự giác
tham gia học tập như ghi chép khơng đầy đủ, khi kiểm tra nhận thức chính chính trị
có đảng viên cịn mượn bài của nhau.
4.3. Ngun nhân
* Nguyên nhân ưu điểm
- Nguyên nhân khách quan: Do có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng
các cấp, sự hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra giúp đỡ của cơ quan Chính trị, trong q
trình nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết. Đây là cơ sở
bảo đảm cho sự thống nhất về nhận thức, bước đi, cách làm phù hợp đối với từng
loại hình cơ sở đảng.


Các tổ chức cơ sở đảng đã nắm vững các quan điểm chỉ đạo và hướng dẫn
của trên, từ thực tế chất lượng sinh hoạt các cấp bộ đảng của mình đã đề ra các
biện pháp lãnh đạo đúng đắn.
- Nguyên nhân chủ quan: Đội ngũ cấp ủy, bí thư đại đa số đã nêu cao vai
trị trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có kiến thức về cơng tác đảng,
có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, ln nêu cao vai trị tiên phong gương
mẫu, tích cực trong học tập, rèn luyện, phấn đấu, chịu khó đúc rút kinh nghiệm để
nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết.
Đảng viên hầu hết có nhận thức đúng và có trách nhiệm cao trong q trình
sinh hoạt tổ chức cơ sở đảng, ln phát huy được tính tiền phong gương mẫu, ý
thức trách nhiệm trước tập thể cao, phát huy tốt quyền và trách nhiệm của mình khi
tham gia sinh hoạt.
* Nguyên nhân khuyết điểm, hạn chế
- Nguyên nhân khách quan: Việc lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra giúp
đỡ của Đảng ủy cấp trên và cơ quan Chính trị có thời điểm chưa thường xun, cịn
thiếu tính tỉ mỉ, cụ thể. Việc trao đổi rút kinh nghiệm sinh hoạt các tổ chức cơ sở
đảng chưa




×