LUẬN VĂN:
Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở
Tuyên Quang giai đoạn hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay, đã đề ra một trong những nhiệm vụ quan trọng là: "Tiếp tục đổi
mới cách ra nghị quyết và chỉ thị của Đảng. Đảng chỉ ra nghị quyết, chỉ thị khi thật cần
thiết. Nghị quyết phải ngắn gọn, rõ ràng, các cấp uỷ và tổ chức đảng, từng ngành có thể
thực hiện được ngay, giảm bớt thời gian chờ đợi hướng dẫn, cụ thể hoá ở các cấp; trên cơ
sở nghị quyết của Trung ương, xây dựng nghị quyết của cấp mình bằng các chương trình
hành động cụ thể, phù hợp. Khắc phục ngay việc ra nghị quyết chung chung, mô phỏng
nghị quyết của Trung ương" [39, tr.34].
Vì vậy, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới việc ra nghị
quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng một cách khoa học, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của xã hội theo đúng quy luật khách quan là một nhiệm vụ rất quan trọng của
các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương, nhằm đưa nghị quyết của Đảng trở
thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội.
Nghị quyết của Đảng cần biểu hiện ý chí của Đảng và nhân dân trong việc thay đổi
tự nhiên và xã hội; yêu cầu nội dung nghị quyết ngắn gọn, rõ ràng phù hợp các chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; việc đánh giá đúng tình hình khách
quan, khoa học để thấy được điểm mạnh, điểm yếu, rút ra được nguyên nhân, bài học
kinh nghiệm; từ đó xác định các quan điểm chỉ đạo và phương hướng, mục tiêu, nhiệm
vụ một cách rõ ràng, đưa ra được hệ thống các giải pháp để tổ chức thực hiện.
Việc ra nghị quyết bao gồm từ việc xác định yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng
bộ để lựa chọn phương thức chỉ đạo; khảo sát, thu thập thông tin; nghiên cứu thực tiễn
vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng để hoạch định cơ chế chính sách; thảo luận tạo
sự thống nhất cao khi ban hành nghị quyết đến quá trình văn bản hoá nghị quyết, phát
hành chính thức và tổ chức triển khai thực hiện nhằm tác động, biến đổi kinh tế - xã hội
theo đúng qui luật khách quan.
Quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo công cuộc đổi mới luôn xuất hiện những
vấn đề mới, những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra đòi hỏi Đảng ta phải kịp thời ra
nghị quyết đúng và tổ chức thực hiện nghị quyết để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết là công
việc gắn bó hữu cơ với chức năng lãnh đạo của Đảng, là hành động tất yếu của cơ quan
lãnh đạo.
Cùng với việc xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, Đảng ta chỉ rõ xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Do vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn quan tâm đến việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Để đổi mới chỉnh đốn Đảng đúng định
hướng và đạt hiệu quả phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: nâng cao bản lĩnh
chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng; thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Đãng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng nhiều
phương thức trong đó có việc ban hành các nghị quyết lãnh đạo. Hiện nay, nội dung, đối
tượng lãnh đạo của Đảng đã có nhiều thay đổi do đó phương thức lãnh đạo của Đảng phải
được đổi mới, trong đó đổi mới việc ra nghị quyết đúng và tổ chức thực hiện nghị quyết
có hiệu quả là rất quan trọng, góp phần đổi mới, chỉnh đốn Đảng thành công.
Thực hiện chức năng lãnh đạo toàn diện mọi mặt đời sống, kinh tế, văn hoá xã hội, hệ
thống chính trị, các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã ban hành các nghị quyết lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội. Từ việc ra nghị quyết đúng, tổ chức thực hiện nghị quyết có hiệu quả
đã làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội các huyện ở Tuyên Quang. Kinh tế tăng
trưởng nhanh, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của từng
huyện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc được cải thiện đáng kể,
khoảng cách chênh lệch so với khu vực đô thị và các huyện đồng bằng được rút ngắn.
Những kết quả đạt được của việc ra nghị quyết đúng, tổ chức thực hiện nghị quyết
thể hiện năng lực lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. Song vẫn còn một số nghị quyết của các
huyện uỷ ở Tuyên Quang còn biểu hiện duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan,
việc tuyên truyền nội dung nghị quyết nhằm tạo sự đồng thuận trong nhân dân còn hạn
chế, chậm phát hiện và nhân rộng các nhân tố mới, công tác sơ kết, tổng kết thực hiện
nghị quyết còn hình thức. Tồn tại, yếu kém của việc ra nghị quyết, tổ chức thực hiện
nghị quyết là một trong những nguyên nhân phản ánh trung thực những kết quả thu
được trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội chưa tương xứng với tiềm năng thế
mạnh của các huyện ở Tuyên Quang.
Hiện nay, Đảng ta đang tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị, việc đổi mới ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị
quyết là vấn đề có tính cấp thiết và rất quan trọng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Đổi
mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên
Quang giai đoạn hiện nay " có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
- GS Đặng Xuân Kỳ (2004), "Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn",
Tạp chí Thông tin Công tác tư tưởng lý luận, số 3.
- GS Đặng Xuân Kỳ (2004), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước", Tạp chí Thông tin Công tác tư tưởng lý luận, số 10.
- Bùi Đức Lại (2003), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 12.
- Nguyễn Phú Trọng (2004), "Xây dựng Đảng cầm quyền: một số kinh nghiệm từ thực
tiễn đổi mới ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 5, tháng 3 - 2004.
- Nguyễn minh Tuấn (2009) " Nâng cao hiệu quả nghiên cứu, quán triệt, triển khai
nghị quyết của Đảng" Tạp chí Tuyên giáo, số 6, tháng 6 - 2009.
- Phân viện Hà nội (2002) "Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh Bắc Trung bộ" đề tài cấp bộ, Hà nội 2002.
- Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Về công tác văn phòng cấp uỷ
đảng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Xuân Mạnh, Chất lượng ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của
Tỉnh uỷ Thanh Hoá hiện nay-Thực trạng và giải pháp, Luận văn tốt nghiệp Đại học
Chính trị, Hà Nội, 2002.
- Quách Đức Hùng, Tiếp tục đổi mới công tác thông tin tổng hợp của Văn phòng
Tỉnh uỷ Phú Thọ trong thời kỳ mới, Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị, Hà Nội, 2003.
- Bùi Đức Hiếu, Chất lượng Văn phòng cấp uỷ quận, huyện ở Thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Đình Hiếu, Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết
của Huyện uỷ Hoàng Hoá, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học Chính trị, Hà Nội, 2008.
Các công trình trên nghiên cứu việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết
ở một số cấp uỷ địa phương. Cho đến hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài
"Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên
Quang giai đoạn hiện nay".
Là một cán bộ đang công tác tại Ban Tổ chức Tỉnh uỷ tỉnh Tuyên Quang, được
học tập tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả chọn đề tài
"Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở
Tuyên Quang giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm góp
phần tổng kết một hoạt động thuộc chức năng chủ yếu của cấp uỷ đảng đó là việc ra
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết, góp phần đổi mới nội dung lãnh đạo và tổ
chức thực hiện công tác này của các huyện uỷ ở Tuyên Quang, từ đó rút ra những kinh
nghiệm và những đề xuất cần thiết nhằm giúp cho cấp uỷ tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo, đảm bảo sự lãnh đạo của các huyện uỷ ở Tuyên Quang đối với hoạt động của
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và toàn xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: nghiên cứu một cách khoa học việc ra nghị quyết và tổ
chức thực hiện nghị quyết, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần đổi mới việc ra
nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang ngày càng
hoàn thiện, hiệu quả hơn.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, liên quan đến việc ra nghị quyết và tổ
chức thực hiện nghị quyết.
+ Đánh giá khái quát tình hình Đảng bộ các huyện ở Tuyên Quang và thực trạng ra
nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ; chỉ rõ nguyên nhân ưu điểm,
khuyết điểm và rút ra một số kinh nghiệm.
+ Xác định đúng phương hướng, đề xuất các giải pháp đổi mới việc ra nghị quyết và
tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện
nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng để phân tích,
đánh giá quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở
Tuyên Quang.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp khác như phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích các tài liệu từ các công trình có liên quan, phương pháp tổng
kết thực tiễn để hình thành các luận cứ khoa học.
6. ý nghĩa thực tiễn và những đóng góp của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho quá trình ra nghị quyết và tổ chức thực hiện
nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu phục vụ dạy, học tập tại
trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện
Góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận, đề xuất giải pháp đổi mới việc ra nghị
quyết đúng và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên Quang giai đoạn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
2 chương, 5 tiết.
Chương 1
RA Nghị Quyết Và Tổ Chức Thực Hiện Nghị Quyết
Của Các huyện uỷ ở TUYÊN QUANG - Những Vấn Đề CƠ Bản Về Lý Luận Và
Thực Tiễn
1.1. Các huyện và Đảng bộ các huyện ở Tuyên Quang - Vị trí, vai trò, đặc điểm
1.1.1. Vị trí, vai trò, đặc điểm và tình hình kinh tế - xã hội của các huyện ở
Tuyên Quang
- Vị trí, vai trò, đặc điểm
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên 5.870 km
2
, nằm ở
giữa Tây Bắc và Đông Bắc của Tổ quốc Việt Nam; phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía
Đông giáp tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, phía
Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Địa hình các huyện ở Tuyên Quang được chia cắt lớn bởi hệ thống sông ngòi, đồi
núi, thung lũng và cơ bản chia thành các vùng: khu vực núi cao phía Bắc, gồm huyện Na
Hang và các xã vùng cao của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, chiếm khoảng
trên 50% diện tích tự nhiên, phù hợp với việc khoanh nuôi, trồng rừng tự nhiên và
trồng rừng, phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp. Khu vực núi thấp, gồm các xã phía
Nam các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương, chiếm 40% diện tích tự
nhiên của tỉnh. Đồi núi ở đây có độ dốc phổ biến 100
0
đến 250
0
, thích hợp cho trồng
cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực và cây ngắn ngày khác. Khu vực này là địa
bàn trọng điểm sản xuất công nghiệp, phát triển các trung tâm kinh tế - xã hội lớn của
tỉnh.
Khí hậu các huyện ở Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa có
mùa đông lạnh. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.295mm đến 2.266mm. Nhiệt
độ trung bình 22
o
- 23
0
C và độ ẩm bình quân là 85%.
Các huyện ở Tuyên Quang có 3 sông lớn chảy qua: Sông Lô, sông Gâm, sông Phó
Đáy. Sông Lô đoạn chảy qua tỉnh dài 145km là tuyến đường thuỷ nối Tuyên Quang với
các tỉnh khác, có khả năng vận tải sà lan, tàu thuyền hàng trăm tấn. Sông Gâm, đoạn chảy
qua Tuyên Quang dài 170 km nối các huyện Nà Hang, Chiêm Hoá với tỉnh lỵ, có khả
năng vận tải đường thuỷ. Sông Phó Đáy, đoạn chảy qua Tuyên Quang dài 84km. Đây là
nguồn cung cấp nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và chứa đựng tiềm năng thuỷ điện
lớn. Trên sông Gâm, tại huyện Nà Hang có nhà máy thuỷ điện công suất 342MW.
Đất đai các huyện ở Tuyên Quang tương đối tốt, có thể tạo ra vùng chuyên canh
chè, mía, lạc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Độ che phủ của rừng năm 2008 đạt
63%, có hệ thực vật phong phú. Theo danh mục trong sách đỏ Việt Nam, tỉnh Tuyên
Quang có 18 loài gỗ quý hiếm như: Trầm hương, nghiến, lát hoa, sến, hoàng đàn, pơ
mu rừng gỗ chiếm 2/3 diện tích, trữ lượng hơn 16 triệu m
3.
Các huyện ở Tuyên Quang
nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú: có 163 điểm mỏ với 27 loại khoáng sản
khác nhau như: quặng sắt, ba rít, cao lanh, thiếc, mangan, chì, kẽm, ăng ti mon được
phân bố ở hầu hết các huyện. Ngoài ra còn có nhiều loại khoáng sản khác như: pirit, kẽm,
đất sét, vàng, cát sỏi
Với 500 di tích lịch sử văn hoá, danh thắng, trong đó có những di tích đặc biệt
quan trọng của quốc gia như Tân Trào - ATK, Kim Bình, Kim Quan, Làng Ngòi - Đá
Bàn. Là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng và mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc,
các huyện ở Tuyên Quang là nơi hội tụ và giao thoa của những sắc thái văn hoá riêng của
các dân tộc ở miền núi phía Bắc. Các lễ hội truyền thống và những làn điệu dân ca đã
tạo cho Tuyên Quang nhiều điều kiện phát triển du lịch, thu hút du khách tham quan.
Tuyên Quang được chia làm 6 đơn vị hành chính gồm 5 huyện, đó là huyện Nà Hang,
Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương và thị xã Tuyên Quang. Toàn tỉnh có 129 xã, 5
thị trấn, 7 phường và 2.081 thôn, bản, tổ nhân dân, Dân số trên 74 vạn người. Mật độ dân
cư 127 người/km
2
. Có 22 dân tộc anh em: Kinh 48%; Tày 24,74%; Dao 10,8%; Sán Chay
8%; Mông 2,02%, Sán Dìu 1,6%; Hoa 1% còn lại là các dân tộc khác. Cụ thể:
- Huyện Na Hang: Diện tích 1.466,78 km
2
, dân số 57.731 người, 16 xã, 01 thị trấn,
176 thôn, bản, tổ nhân dân.
- Huyện Chiêm Hoá: Diện tích 1.460,62 km
2
, 140.618 người, 28 xã, 01 thị trấn, 403
thôn, bản, tổ nhân dân.
- Huyện Hàm Yên: Diện tích 900,92 km
2
, 112.560 người, 17 xã, 01 thị trấn, 316 thôn,
bản, tổ nhân dân.
- Huyện Yên Sơn: Diện tích 1.130,78 km
2
, 156.269 người, 30 xã, 01 thị trấn, 449
thôn, bản, tổ nhân dân.
- Huyện Sơn Dương: Diện tích 788,63 km
2
, 180.574 người, 32 xã, 01 thị trấn, 424
thôn, bản, tổ nhân dân.
- Thị xã Tuyên Quang: Diện tích 119,17 km
2
, 90.793 người, 06 xã, 07 phường, 313
thôn, bản, tổ nhân dân.
Nằm ở vị trí chiến lược, Tuyên Quang có truyền thống lịch sử, truyền thống cách
mạng, có nhiều đóng góp quan trọng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành và giữ
độc lập dân tộc. Năm 1075, tham gia đạo quân của Lý Thường Kiệt tiến vào Ung Châu,
phá tan bước đầu âm mưu xâm lược nước ta của triều đình phong kiến nhà Tống. Năm
1285, quân dân Tuyên Quang tham gia đạo quân do Trần Nhật Duật chỉ huy đánh quân
Nguyên - Mông từ Vân Nam xuống xâm lược nước ta. Năm 1789, nhân dân các dân tộc
trong tỉnh cùng nghĩa quân Tây Sơn đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh. Từ năm 1885
đến 1898, nhân dân các dân tộc trong tỉnh tích cực tham gia phong trào Cần Vương
chống Pháp; tham gia vào khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, khởi nghĩa của Triệu Tiến
Kiên và Triệu Tài Lộc Cuối thế kỷ XIX, nhân dân các dân tộc Tuyên Quang cùng nhân
dân cả nước nổi dậy chống thực dân Pháp xâm lược. Khi quân Pháp tiến đánh Tuyên
Quang, nhân dân đã thực hiện kế hoạch "vườn không, nhà trống", đánh giặc bằng mọi vũ
khí trong tay, vây địch trong thành, phục kích địch tại Hoà Mục (xã Thái Long, huyện
Yên Sơn) tiêu diệt 100 tên, làm bị thương gần 80 tên. Với thiệt hại này thực dân Pháp
phải thừa nhận đây là một trong những trận thua lớn của chúng ở Bắc Kỳ.
Trong Cách mạng Tháng Tám, Tuyên Quang vinh dự là “Thủ đô Khu giải
phóng”, được Trung ương Đảng và Bác Hồ chọn làm trung tâm của cách mạng cả
nước. Tại Tân Trào - Sơn Dương đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với vận
mệnh dân tộc; Hội nghị toàn quốc của Đảng quyết định phát động toàn dân tổng khởi
nghĩa giành chính quyền và cử ra Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc; Quốc dân đại hội họp
tại đình Tân Trào - Sơn Dương thành lập Uỷ ban Dân tộc Giải phóng tức Chính phủ
Lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Những năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tuyên Quang
là “Thủ đô Kháng chiến”, nơi đồng bào cả nước "Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền".
Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã luôn luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng: Xây
dựng, bảo vệ an toàn khu (ATK); bảo vệ Bác Hồ, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, Mặt trận tổ quốc; bảo vệ các cơ quan đầu não của Cách mạng Lào. Đảng bộ và nhân
dân các dân tộc Tuyên Quang đã lập nhiều chiến công vang dội trên chiến trường, đập tan
các cuộc tấn công Việt Bắc của giặc Pháp. Những địa danh lịch sử như: Bình Ca, Km7,
Cầu Cả, Khe Lau đã làm rạng rỡ tinh thần chiến đấu của quân, dân Tuyên Quang trong
Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947.
Tại Tuyên Quang đã chứng kiến nhiều Hội nghị quan trọng của Trung ương Đảng,
Chính phủ, đặc biệt là Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II (tại xã Vinh Quang, nay
là xã Kim Bình huyện Chiêm Hoá từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm 1951) là Đại hội
đầu tiên của Đảng được tổ chức ở trong nước. Đại hội bổ sung, hoàn chỉnh đường lối
kháng chiến, kiến quốc đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đến thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc Tuyên Quang tiếp tục xây dựng hậu phương vững mạnh, làm tròn nhiệm vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Truyền
thống yêu nước, đoàn kết, cách mạng, tinh thần đấu tranh anh dũng của lớp lớp cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã để lại những bài học quý giá, những
tấm gương sáng ngời cho các thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân Tuyên Quang
tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương cách mạng, quyết tâm vượt qua
mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIV đề ra, phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành một tỉnh phát triển toàn
diện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng bình quân: Năm 2008 đạt 13,81% (năm 2001 đạt 10,27%). Công
tác quy hoạch - khâu đột phá: Quy hoạch, phát triển 3 loại hình du lịch chính của các
huyện ở Tuyên Quang gồm: Du lịch lịch sử - văn hoá; Du lịch sinh thái và du lịch nghỉ
dưỡng với 3 khu du lịch chính: Khu du lịch lịch sử - văn hoá Tân Trào - ATK; Khu du
lịch nghỉ dưỡng suối khoáng Mỹ Lâm (huyện Yên Sơn); các khu du lịch sinh thái ở các
huyện Nà Hang, Hàm Yên, Chiêm Hoá và 6 điểm du lịch trên địa bàn các huyện.
Công nghiệp có tốc độ phát triển nhanh, mức độ cao và quy mô lớn nhất so với
những năm trước đây. Đã thiết lập được các yếu tố nền tảng cho công nghiệp phát triển,
đó là việc hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, quy hoạch chi tiết và
thực hiện đầu tư một số công trình hạ tầng thiết yếu trong khu công nghiệp Long - Bình -
An, các cụm công nghiệp ở Sơn Dương, Chiêm Hoá và một số điểm công nghiệp, đã có
25 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn trên 7.040 tỷ đồng.
Cùng với chú trọng phát triển công nghiệp, tỉnh đã quan tâm đầu tư phát triển tiểu
thủ công nghiệp, làng nghề như: Ban hành chính sách phát triển tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề; thành lập trung tâm khuyến công và quỹ khuyến công; bước đầu khôi phục,
hình thành và phát triển một số ngành nghề thủ công nghiệp như dệt thổ cẩm, mây giang
đan , góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn.
Hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển khá mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân 21,4%/năm. Kim ngạch xuất khẩu năm
2008 đạt 18 triệu USD (năm 2001 đạt 8,4 triệu USD) tiềm năng tài nguyên du lịch bước
đầu được phát huy. Đã hoàn thành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch và quy
hoạch 3 khu du lịch trọng điểm. Sản xuất nông, lâm nghiệp có chuyển biến mạnh và vững
chắc, nhất là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thâm canh, sản xuất hàng
hoá gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ.
Quan tâm chỉ đạo sản xuất lương thực để đảm bảo an ninh lương thực; bình quân
lương thực đạt 427kg/người/năm (năm 2001 đạt 420kg/người). Tiếp tục xây dựng, phát
triển một số vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây thực phẩm có giá trị kinh tế cao, có
thị trường tiêu thụ như cam, chè, mía, lạc, góp phần tăng nhanh sản lượng hàng hoá và
thu nhập trên một đơn vị diện tích.
Chăn nuôi phát triển khá và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, mô hình hộ gia
đình chăn nuôi tập trung, theo hướng công nghiệp như nuôi lợn hướng nạc, nuôi thuỷ sản,
gia cầm bước đầu cho hiệu quả tốt và đang có xu thế phát triển; quản lý và khai thác có
hiệu quả các công trình thuỷ lợi, đảm bảo tưới chủ động cho 80% diện tích lúa. Tỷ lệ dân
số được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh cuối năm 2008 đạt 61%.
Công tác quản lý, điều hành thu, chi ngân sách và hoạt động tín dụng có nhiều tiến
bộ. Cùng với chú trọng phát triển, bồi dưỡng nguồn thu, việc nắm nguồn và tổ chức thu
đảm bảo sát thực tế phát sinh và đúng chính sách Nhà nước. Khoa học - công nghệ, tài
nguyên và môi trường có chuyển biến tích cực. Hoạt động khoa học - công nghệ đã tập
trung hơn vào chọn lọc, ứng dụng, đưa tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào phục vụ
sản xuất; đồng thời đã tập trung triển khai một số đề tài nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã
hội và nhân văn, góp phần đưa hoạt động khoa học - công nghệ phát triển toàn diện hơn.
Hoạt động của hội đồng khoa học và công nghệ các cấp, cơ chế quản lý, nghiên cứu đề
tài khoa học đã có bước đổi mới, thiết thực, hiệu quả hơn. Việc xây dựng, quảng bá
thương hiệu sản phẩm được chú trọng hơn, như đã xây dựng được thương hiệu sản phẩm
cam sành Hàm Yên.
Hoàn thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; cơ bản hoàn thành quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất cấp xã; tập trung thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
đến nay đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp được khoảng 57% diện tích.
Công tác di dân tái định cư Dự án Thuỷ điện Tuyên Quang và quy hoạch, bố trí dân
cư đạt được kết quả quan trọng. Đã hoàn thành di chuyển hơn 4 nghìn hộ với hơn 2 vạn
khẩu và tiếp tục di chuyển các hộ dân cư trú ở những vùng có nguy cơ bị cô lập, không
có đường giao thông thuộc khu vực lòng hồ Thuỷ điện Tuyên Quang, các hộ dân cư trú ở
vùng rừng phòng hộ xung yếu, vùng có nguy cơ bị sạt lở về nơi tái định cư theo kế hoạch
gắn với hướng dẫn, hỗ trợ các hộ dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Rà soát lập
dự án bố trí dân cư vùng dân tộc thiểu số giai đoạn (2007 - 2010 ).
Nhìn chung, kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá cao và tương đối toàn diện, hài hoà với
phát triển văn hoá xã hội, chăm lo đời sống nhân dân. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông, lâm
nghiệp trong GDP.
Tuy nhiên, lĩnh vực kinh tế còn tồn tại, hạn chế là: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng công nghiệp so với yêu cầu còn chậm. Thực hiện một số dự án đầu tư chưa
đạt tiến độ đề ra; sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chưa đạt kế hoạch. Mặt hàng
xuất khẩu chưa đa dạng, chất lượng, sức cạnh tranh chưa cao. Chậm xây dựng, quảng
bá thương hiệu một số sản phẩm của tỉnh. Chất lượng dịch vụ du lịch còn hạn chế, sản
phẩm du lịch còn ít. Tình trạng khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép, lấn chiếm, sử
dụng đất lâm nghiệp trái mục đích xẩy ra ở một số nơi. Việc xây dựng quy hoạch cấp
huyện, cấp xã, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giải ngân vốn xây dựng cơ bản tập
trung, vốn chương trình mục tiêu, tiến độ sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh
vực nông, lâm nghiệp, giải quyết một số tồn tại của chương trình di dân tái định cư Thuỷ
điện Tuyên Quang còn chậm.
- Phát triển văn hoá - xã hội
Giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển về quy mô, chất lượng từng bước được nâng
lên. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 07 - NQ/TU ngày 20/6/2007
về phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo tỉnh Tuyên Quang đến năm 2010,
cùng với thực hiện "hai tốt" và hưởng ứng cuộc vận động "hai không" trong ngành giáo
dục.
Sự nghiệp văn hoá - thông tin, thể dục-thể thao tiếp tục phát triển, phục vụ hiệu quả
các nhiệm vụ chính trị và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Phong trào văn nghệ
quần chúng, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" tiếp tục được
đẩy mạnh, tỷ lệ đạt danh hiệu gia đình, thôn, bản, tổ nhân dân văn hoá hằng năm đều
tăng. Công tác phục hồi, tôn tạo các di tích lịch sử và kháng chiến, bảo tồn, phát huy giá
trị di sản văn hoá các dân tộc thiểu số được quan tâm. Lắp đặt máy phát sóng chương
trình truyền hình VTV5 tại 02 huyện Nà Hang và Chiêm Hoá; sự nghiệp chăm sóc, bảo
vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Hoàn thành và từng bước triển khai
thực hiện quy hoạch phát triển sự nghiệp y tế của tỉnh. Mạng lưới y tế được củng cố, các
bệnh viện tuyến tỉnh và một số bệnh viện tuyến huyện được đầu tư nâng cấp về cơ sở vật
chất, triển khai một số kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị. Đội ngũ cán bộ y tế tiếp
tục được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn; 65% xã, thị trấn đạt chuẩn
quốc gia về y tế xã.
Lao động, việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội được đặc biệt coi trọng và quan
tâm đầu tư. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình lao động việc làm; xuất khẩu
lao động được đặc biệt quan tâm và đạt hiệu quả cao, đã đưa 5.448 người đi lao động tại
nước ngoài, đồng thời đã kịp thời chỉ đạo chuyển hướng đưa hàng ngàn lao động đi làm
việc tại các cơ sở sản xuất trong nước khi thị trường lao động nước ngoài gặp khó khăn.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện công tác giảm nghèo; xây dựng,
triển khai Chương trình giảm nghèo với nhiều giải pháp cụ thể, huy động được sức mạnh
của cả cộng đồng cùng tham gia; thực hiện đề án hỗ trợ xoá nhà ở tạm nhưng bị dột nát
cho 3.532 hộ nghèo với tổng số tiền là 18,45 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35,64%
cuối năm 2005 xuống còn 22,2% cuối năm 2007, cuối năm 2008 còn 20%. Quan tâm chỉ
đạo tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có
công với cách mạng; thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng bảo trợ xã hội,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Thực hiện có hiệu quả chương trình phòng chống ma tuý
và các tệ nạn xã hội; đến nay, số người nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý trên địa bàn toàn
tỉnh là 1.210 người, giảm hơn so với những năm trước, tỷ lệ tái nghiện là 5,12% [37].
Nhìn chung, lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, trong đó có những mặt nổi
bật và tạo được sự đột phá như: Đã làm thay đổi sâu sắc nhận thức của cán bộ, nhân dân
về phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; việc đánh giá chất lượng dạy và
học đi vào thực chất hơn, chất lượng giáo dục - đào tạo tiến bộ hơn. Đào tạo nghề, giải
quyết việc làm, giảm nghèo, xuất khẩu lao động đã đạt được một số kết quả quan trọng
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hoá - xã hội còn những hạn chế, tồn tại sau: chất lượng giáo
dục - đào tạo vẫn còn thấp so với mặt bằng chung và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực,
chưa đồng đều giữa các huyện; tôn tạo, phục hồi các di tích lịch sử văn hoá còn chậm;
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ở một số nơi chưa tốt.
Một số chỉ tiêu về dân số, trẻ em đạt thấp. Chất lượng giảm nghèo một số nơi chưa bền
vững, nguy cơ tái nghèo cao. Đời sống của một bộ phận nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu,
vùng xa tuy đã được cải thiện so với trước, song thực tế còn gặp không ít khó khăn.
- Quốc phòng - an ninh
Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân đạt
nhiều kết quả. Lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục được xây dựng, củng cố về tổ
chức, quân số; lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,76% so với tổng dân số trong tỉnh.
Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì thường xuyên, ngăn
chặn có hiệu quả các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm hình sự, kinh tế, ma tuý; làm tốt
công tác phòng chống các tệ nạn xã hội.
Thực hiện có hiệu quả chủ trương và lộ trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49
- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái quát về Đảng bộ các huyện ở Tuyên Quang
- Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang có 10 Đảng bộ trực thuộc: Đảng bộ huyện Nà Hang,
Đảng bộ huyện Chiêm Hoá, Đảng bộ huyện Hàm Yên, Đảng bộ huyện Yên Sơn, Đảng bộ
huyện Sơn Dương, Đảng bộ thị xã Tuyên Quang, Đảng bộ khối Dân chính Đảng, Đảng bộ
khối doanh nghiệp, Đảng bộ Công an, Đảng bộ Quân sự.
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, có 541 cơ sở đảng, trong đó có 229 Đảng bộ cơ sở, 312
chi bộ cơ sở; chi bộ trực thuộc Đảng uỷ cơ sở 3.080; tổng số đảng viên 37.770, trong đó
đảng viên dự bị 2.394 (6%); là nữ 12.072 (32%) dân tộc ít người; 15.088 (40%).
Cụ thể năm Đảng bộ huyện:
- Đảng bộ huyện Nà Hang:
+ Có 64 tổ chức cơ sở đảng, gồm 19 đảng bộ cơ sở, 45 chi bộ cơ sở; chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở 226.
+ Tổng số đảng viên 3.875 trong đó: Dự bị 252; nữ 1.278; dân tộc ít người 2.951.
- Đảng bộ huyện Chiêm Hoá:
+ Có 80 tổ chức cơ sở đảng, gồm 33 đảng bộ cơ sở, 47 chi bộ cơ sở; chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở 544.
+ Tổng số đảng viên 5.981 trong đó: Dự bị 387; nữ 1.866; dân tộc ít người 4.581.
- Đảng bộ huyện Hàm Yên:
+ Có 67 tổ chức cơ sở đảng, gồm 21 Đảng bộ cơ sở, 46 chi bộ cơ sở; chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở 411.
+ Tổng số đảng viên 4.056, trong đó: Dự bị 241; nữ 1.266; dân tộc ít người 1.726.
- Đảng bộ huyện Yên Sơn:
+ Có 74 tổ chức cơ sở đảng, gồm 37 Đảng bộ cơ sở, 37 chi bộ cơ sở; chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở 610.
+ Tổng số đảng viên 6.265, trong đó: Dự bị 580; nữ 2.070; dân tộc ít người 2.124.
- Đảng bộ huyện Sơn Dương:
+ Có 64 tổ chức cơ sở đảng, gồm 37 Đảng bộ cơ sở, 27 chi bộ cơ sở; chi bộ trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở 563.
+ Tổng số đảng viên 7.088, trong đó: dự bị 404; nữ 1.946; dân tộc ít người 2.273.
Năm Đảng bộ huyện thuộc Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang là những Đảng bộ thuộc địa
bàn nông thôn, miền núi kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm qua công tác
đổi mới, chỉnh đốn Đảng ở những đảng bộ này đã thu được những kết quả đáng kể, cụ
thể:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên được đẩy mạnh. Nội dung, phương pháp, hình thức quán triệt, học tập, tổ chức thực
hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng được đổi mới, phù hợp hơn với từng đối tượng, từng
địa bàn; đã gắn học tập với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cụ thể
của từng tổ chức đảng, đơn vị, cá nhân cán bộ, đảng viên và công tác kiểm tra, giám sát,
sơ kết, tổng kết để kịp thời nhân rộng điển hình thực hiện tốt, điều chỉnh, bổ sung mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp với thực tiễn. Thường xuyên quan tâm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền; kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ báo
cáo viên, tuyên truyền viên. Công tác nắm tình hình tư tưởng, tâm trạng của nhân dân, dư
luận xã hội được chú trọng.
Triển khai thực hiện tốt cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” với nhiều sáng tạo, đạt hiệu quả thiết thực, được các tầng lớp nhân dân đồng
tình hưởng ứng tham gia, tạo được sự chuyển biến bước đầu về nhận thức và hành động,
đã xuất hiện một số điển hình tốt về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Việc củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, chất
lượng đảng viên gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở được các cấp uỷ đảng quan
tâm. Các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã chủ động thực hiện Nghị quyết số 05 - NQ/TU
ngày 30/11/2006 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 10 - CT/TW ngày
30/3/2007 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chất lượng tổ chức cơ
sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đã từng bước được nâng lên.
Công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, phát triển đảng viên và giảm chi bộ sinh hoạt
ghép được quan tâm. Từ năm 2005 đến nay, đã kết nạp 3.976 đảng viên tỷ lệ đảng
viên trên dân số đạt 4,8%; giảm 139 chi bộ thôn, bản, tổ nhân dân và 71 chi bộ trường
học có đảng viên phải sinh hoạt ghép. Việc đánh giá xếp loại tổ chức cơ sở đảng và
đảng viên được tiến hành nghiêm túc, sát thực tế hơn. Hàng năm, tỷ lệ tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh đạt trên 71%; tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành
nhiệm vụ đạt trên 99%.
Chú trọng lãnh đạo công tác cán bộ, đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã xây
dựng Quy định về phân cấp quản lý cán bộ; công tác quy hoạch cán bộ được chỉ đạo
chặt chẽ, đúng quy trình và đi vào nề nếp, đảm bảo đúng nội dung, nguyên tắc, phương
châm động và mở; chất lượng cán bộ, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, cán bộ
trẻ trong quy hoạch đều vượt so với yêu cầu. Công tác luân chuyển cán bộ được thực
hiện chặt chẽ, hiệu quả; qua luân chuyển, đa số cán bộ tiếp cận nhanh với môi trường
công tác mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ và tạo được sự chuyển biến tích cực ở cơ quan,
đơn vị nơi được luân chuyển đến. Đã chú trọng thực hiện đào tạo cán bộ đa ngành, đa
lĩnh vực, gắn đào tạo chuyên môn với đào tạo về lý luận chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ
và rèn luyện năng lực thực tiễn cho cán bộ, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ cấp xã,
nhằm nâng cao trình độ và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được duy trì thường xuyên. Các cấp uỷ đảng triển
khai và thực hiện nghiêm túc Quy định số 57 - QĐ/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị
"Quy định một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng"; chú trọng công tác thẩm định
tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác kết nạp đảng viên, công tác qui hoạch cán bộ, nhân
sự đại hội Đảng các cấp, bổ nhiệm, tuyển dụng cán bộ
Công tác dân vận của Đảng được thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng được tăng cường hơn theo đúng phương châm kiểm tra để
phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã ban hành quy chế
làm việc của uỷ ban kiểm tra và xây dựng chương trình công tác kiểm tra, giám sát cả
nhiệm kỳ và cho từng năm.
Các cấp uỷ đảng đã đẩy mạnh đổi mới phương pháp và lề lối làm việc theo hướng
khoa học, kế hoạch hoá hơn thông qua việc xây dựng và điều hành công việc theo
chương trình công tác theo từng tháng, quý, năm; cấp trên nghe và cho ý kiến chương
trình công tác của cấp dưới trực tiếp; duy trì và nâng cao chất lượng giao ban, đồng thời
tăng cường kiểm tra trực tiếp đối với cấp dưới và cơ sở trong việc thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch công tác. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các
cấp uỷ đảng gắn chặt với cải cách hành chính và phân cấp mạnh, tạo điều kiện cho các
cấp, các ngành chủ động trong công việc, đồng thời nâng cao trách nhiệm, năng lực của
người đứng đầu các địa phương, ban, ngành. Trong sinh hoạt và hoạt động của cấp uỷ,
Ban Thường vụ cấp uỷ các cấp luôn chú trọng đảm bảo dân chủ, khách quan, chế độ tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, trong đó đặc biệt chú trọng vai trò, trách nhiệm của
người đứng đầu, của từng đồng chí cấp uỷ viên.
1.2. Ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện uỷ ở Tuyên
Quang - Quan niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng, cơ sở khoa học và quy trình
1.2.1. Quan niệm
1.2.1.1. Nghị quyết
Nghị quyết, theo Từ điển tiếng Việt:
"Nghị quyết là quyết định đã được thông qua ở
hội nghị, sau khi vấn đề đã được tập thể thảo luận. hội nghị thông qua nghị quyết. Chấp
hành nghị quyết" [58, tr.656].
Theo Quyết định số 31-QĐ/TW ngày 01/10/1997 của Bộ Chính trị (khoá VIII) ban
hành quy định về thể loại, thẩm quyền ban hành và thể thức văn bản của Đảng thì: "Nghị
quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở đại hội, hội nghị cơ quan lãnh
đạo Đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường.lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch
các vấn đề cụ thể” [2, tr.3]
Nghị quyết là sự cụ thể hoá đường lối của Đảng thành những mục tiêu, nhiệm vụ cụ
thể cho từng lĩnh vực của đời sống xã hội cho cả nước hay cho từng vấn đề cụ thể của một
địa phương hay cơ sở. Nghị quyết phải được hình thành trên cơ sở khách quan khoa học.
Tuỳ theo từng cấp từng ngành từng địa phương đơn vị khác nhau mà có nghị quyết của cấp
mình, nhưng mục đích cuối cùng là phải thực hiện đường lối chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước và có hiệu quả cao nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới mà Đảng ta đã xác định.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, bằng chủ trương, đường lối, nghị
quyết do vậy, các nghị quyết được ban hành thể hiện ý chí của Đảng, ý chí và nguyện
vọng của nhân dân và là cơ sở cho mọi quyết định, chủ trương của Nhà nước. Mọi nghị
quyết của Đảng đều tác động trực tiếp đến xã hội và đời sống nhân dân.
1.2.1.2. Ra nghị quyết
Trong quá trình lãnh đạo các lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, lãnh đạo
chính quyền, đổi mới, chỉnh đốn Đảng các cấp uỷ đảng đã ban hành các nghị quyết lãnh
đạo. Việc ban hành các nghị quyết thuộc về chức năng lãnh đạo của Đảng. Các nghị
quyết được ban hành đã phát hiện giải quyết đúng đắn kịp thời và có hiệu quả những vấn
đề do thực tiễn ở từng địa phương, đơn vị đặt ra và đã góp phần thúc đẩy sự phát triển xã
hội theo đúng qui luật khách quan. Xây dựng nghị quyết là quá trình, mà quá trình đó
bắt đầu từ công tác thu thập thông tin và xử lý thông tin đã thu được. Khi tiếp nhận
thông tin, cơ quan được giao nhiệm vụ phải xử lý nó để tạo ra những thông tin mới.
Những thông tin mới trong việc ra nghị quyết là những tri thức phản ánh bản chất,
mang tính qui luật của đối tượng, các phương án để giải quyết vấn đề đã xác định, trên
cơ sở đó để cấp uỷ lựa chọn và quyết định phương án đảm bảo tính khả thi.
Thu thập thông tin để ra nghị quyết phải toàn diện, các số liệu đảm bảo tính hệ
thống do cơ quan thống kê và các ngành chức năng cung cấp, các thông tin thu được từ
thực tiễn về điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá, về tiềm năng và thế mạnh,
kinh nghiệm thu được từ quá trình lãnh đạo, quản lý ở địa phương, tính đặc thù của từng
địa phương nhất là các địa phương miền núi ở tỉnh Tuyên Quang, kinh nghiệm có được
từ việc thu thập các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các website
Trên cơ sở thông tin thu được, phải tiến hành xử lý thông tin đây là khâu hết sức
quan trọng. Do vậy, khi xử lý thông tin phải đảm bảo tính khoa học, khách quan. Quá
trình thu thập thông tin, xử lý thông tin, phải phát huy trí tuệ, sự sáng tạo của tổ chức
đảng, của cán bộ đảng viên và nhân dân và phải thực sự dân chủ đồng thời cần phải có
những cơ chế, qui định cụ thể để nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, cá nhân, tiếp cận với các thông tin và làm tốt công tác giám sát, phản biện xã
hội.
Những thông tin phản ánh bản chất, mang tính qui luật của đối tượng, các
phương án để giải quyết là cơ sở để cấp uỷ dân chủ thảo luận, thống nhất và ra nghị
quyết.
1.2.1.3. Tổ chức thực hiện nghị quyết
Một nghị quyết dù đúng đắn, có đủ cơ sở khoa học đến mấy vẫn cứ là nghị quyết
nằm trên giấy, nếu sau đó không có một quá trình tổ chức thực hiện. Tổ chức thực hiện
nghị quyết là quá trình đưa quan điểm, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ được xác định
trong nghị quyết vào đời sống xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: nói thì phải làm. Do vậy, khi đã ra được nghị quyết
đúng để tổ chức thực hiện nghị quyết đó hiệu quả thì phải xây dựng chương trình hành
động cụ thể của từng cấp uỷ, từng ngành, từng đơn vị để thực hiện nghị quyết. Chính
quyền căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo luật định để cụ thể hoá mục
tiêu, nhiệm vụ được đề cập trong nghị quyết của cấp uỷ thành các chỉ tiêu, kế hoạch
mang tính pháp lệnh để giao cho các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện. Những nội dung
thuộc thẩm quyền HDND thì sớm trình để thông qua ở một kỳ họp gần nhất.
Đối với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với hành động, lời
nói đi đôi với việc làm, là điều không dễ, nó đòi hỏi cần phải có sự cố gắng, bền bỉ với
một quyết tâm chính trị cao, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay bé, khó
hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể
thành công được. Kết quả công việc là thước đo của mỗi người. Với các cán bộ Đảng
viên và những người làm công tác lãnh đạo thì lời nói và việc làm lại càng quan trọng và
cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc là những tấm gương để quần chúng noi theo.
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ năm khoá IX, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh đã nói: "Nói đi đôi với làm là phong cách lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng ta,
là yêu cầu số một của việc chỉ đạo thực hiện nghị quyết và trong tình hình hiện nay cũng là
yếu tố quan trọng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước" [41, tr.188-
189].
1.2.1.4. Đổi mới việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của các huyện
uỷ ở Tuyên Quang
Trong những năm qua, cùng với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhằm
thoát nghèo, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã tập trung lãnh đạo đổi
mới việc ra nghị quyết đúng và tổ chức thực hiện nghị quyết.
Với tư tưởng lãnh đạo xuyên suốt là phải xây dựng hệ thống qui chế về sự lãnh đạo
của Đảng ở các cấp, các ngành theo tinh thần: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết thực hiện tư tưởng chỉ đạo đó, các huyện
uỷ ở Tuyên Quang đã xây dựng qui chế làm việc của cấp uỷ, xây dựng chương trình công
tác toàn khoá, chương trình công tác hàng năm và chương trình làm việc hàng quí, tháng.
Trong qui chế làm việc đã xác định rõ qui trình ban hành nghị quyết; trong chương trình
công tác toàn khoá, căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị văn bản chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh
uỷ và căn cứ tình hình thực tiễn của địa phương các huyện uỷ ở Tuyên Quang xây dựng
chương trình ra nghị quyết. Chương trình xây dựng nghị quyết cụ thể hoá nội dung xây
dựng nghị quyết, tên nghị quyết, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp thực hiện,
đối tượng chịu sự tác động của nghị quyết, kế hoạch tuyên truyền, học tập nghị quyết,
việc kiểm tra, giám sát, nội dung phải tiến hành sơ kết, tổng kết.
Các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã có sự đổi mới trong việc ra nghị quyết và tổ
chức thực hiện nghị quyết, những vấn đề cấp uỷ các huyện lựa chọn để ra nghị quyết
là những nội dung quan trọng mà cấp uỷ phải tập trung lãnh đạo để cụ thể hoá nghị
quyết của cấp uỷ cấp trên, đồng thời phát huy tiềm năng thế mạnh của từng địa
phương. nội dung nghị quyết ngắn gọn, mục tiêu được xác định đảm bảo tính khoa
học, nhiệm vụ được xác định một cách cụ thể, các giải pháp mà các nghị quyết đề cập
mang tính khả thi. Khi nghị quyết được ban hành, các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã
sớm triển khai, đưa nghị quyết vào đời sống xã hội. Từ việc đổi mới công tác tuyên
truyền, quán triệt, học tập nghị quyết làm cho cấp uỷ đảng, cán bộ đảng viên và nhân
dân có nhận thức đúng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, từ nhận thức
đúng sẽ tạo nên sự đồng thuận toàn xã hội trong tổ chức thực hiện nghị quyết.
Là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội, tuỳ theo tình hình, điều kiện, đặc điểm cụ
thể của từng huyện mà các huyện uỷ ở Tuyên Quang đã kịp thời ban hành nghị quyết và
tổ chức thực hiện nghị quyết đáp ứng yêu cầu đổi mới. Cụ thể:
Ngày 25/8/2001 Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 56 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVII về ổn định và phát triển sản
xuất cho vùng đồng bào dân tộc Mông ở thôn Ngòi Sen, Yên Lâm.
- Ngày 03/10/2001 Huyện uỷ huyện Yên Sơn ra Nghị quyết số 02 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XIX) về mục tiêu biện pháp thực
hiện các dự án phát triển kinh tế trọng điểm.
- Ngày 06/11/2001 Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 57 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVII “về tăng cường công tác phổ
cập trung học cơ sở.”
- Ngày 16/01/2002 Huyện uỷ huyện Yên Sơn ra Nghị quyết số 03 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XIX) “về mục tiêu biện pháp phát
triển kinh tế-trọng điểm năm 2002”
- Ngày 12/6/2002 Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 79 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVII” về tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”
- Ngày 10/5/2003 Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 88 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVII “về tăng cường công tác quản
lý, khai thác hiệu quả đất đai”
- Ngày 10/4/2006 Huyện uỷ huyện Sơn Dương đã ra Nghị quyết số 01 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 5 (khoá XVIII) “về chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá”
- Ngày 10/4/2006 Huyện uỷ huyện Sơn Dương ra Nghị quyết số 02 - NQ/HU. Nghị
Quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XVIII) “về phát triển du lịch huyện Sơn
Dương, giai đoạn 2006 - 2010.”
- Ngày 28/4/2006 Huyện uỷ huyện Yên Sơn ra Nghị quyết số 02 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XX) “về nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ huyện giai đoạn 2006 - 2010-“
- Ngày 25/9/2006 Huyện uỷ huyện Yên Sơn ra Nghị quyết số 03 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XX)”về phát triển các vùng chuyên
canh tập trung”.
- Ngày 30/10/2006 Huyện uỷ huyện Sơn Dương ra Nghị quyết số 04 -NQ/HU. Nghị
quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVIII “về phát triển kinh tế Lâm Nghiệp
giai đoạn 2006 - 2010.”
- Ngày 30/10/20006 Huyện uỷ huyện Sơn Dương ra Nghị quyết số 05 - NQ/HU.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ (khoá XVIII) phát triển công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp huyện Sơn Dương, giai đoạn 2006 - 2010.
- Ngày 27/6/2006 Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 01 - NQ/HU. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XVIII) về đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế trên địa bàn huyện.
- Ngày 15/12/2006 Huyện uỷ huyện Nà Hang ra Nghị quyết số 02 - NQ/HU. Nghị
quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XIX) về lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn (giai đoạn 2006 - 2010).
- Ngày 30/6/2007 Huyện uỷ huyện Chiêm Hoá ra Nghị quyết số 01 -NQ/HU. Nghị
quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khoá XVIII về phát triển nâng cao chất lượng
giáo dục - đào tạo đến năm 2010.
- Ngày 09/10/2007, Huyện uỷ huyện Hàm Yên ra Nghị quyết số 03 -NQ/HU. Nghị
quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khoá XVIII) về nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ huyện Hàm Yên
- Ngày 15/3/2008 Huyện uỷ huyện Nà Hang ra Nghị quyết số 03 - NQ/HU. Nghị
quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
năm 2008.
1.2.2. ý nghĩa, tầm quan trọng của ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị
quyết
1.2.2.1. ý nghĩa
Đảng ta luôn luôn khẳng định CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nhân dân ta;
đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam tuy
nhiên đây là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, gian khổ. Từ một nền nông nghiệp
nghèo nàn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề như nước ta, đi lên CNXH lại càng
khó khăn hơn, phải trải qua nhiều thời kỳ, nhiều chặng đường, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, phải biết kế thừa những thành tựu của dân tộc ta đã dành được và tiếp thu những
tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm của thời đại. Hiện nay đất nước ta còn đang ở trong