Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

(Luận văn thạc sĩ) xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố đông hà, tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............

BỘ NỘI VỤ
......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN KHÁNH PHƯƠNG

h

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ,
TỈNH QUẢNG TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............

BỘ NỘI VỤ
......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN KHÁNH PHƯƠNG


h

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ,
TỈNH QUẢNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chun ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH SẢN

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị” do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Minh Sản.

Tôi xin cam đoan tất cả nội dung được sử dụng, nghiên cứu trong luận

văn này là trung thực và là kết quả nghiên cứu là của bản thân. Các số liệu, hồ
sơ và trích dẫn trong nội dung luận văn là chính xác và trung thực.

Thừa Thiên Huế, tháng 7 năm 2022
Học viên


h

Trần Khánh Phương


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Minh

Sản, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu và
hồn thành luận văn này.

Tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các Thầy, Cơ

giáo của Học viện Hành chính Quốc gia, những người đã truyền thụ kiến

thức, hướng dẫn, tư vấn cho tôi trong suốt thời gian học tập cũng như trong
thời gian tơi thực hiện luận văn này.

Để hồn thành các nội dung nghiên cứu của luận văn này, ngoài sự cố

gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể và
cá nhân. Tơi xin cảm ơn chân thành tới các tập thể và cá nhân vì sự giúp đỡ
q báu đó.

h

Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, những người thân và

bạn bè đã chia sẻ cùng tôi những khó khăn, động viên và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tơi học tập, nghiên cứu để hồn thành luận văn này.


Do giới hạn về mặt thời gian và trình độ nghiên cứu nên luận văn không

tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các Thầy, cơ giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Trần Khánh Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN........................................................... 9
1.1. Người chưa thành niên ............................................................................ 9
1.2. Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên...................... 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên... 40
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 46

Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI

VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ ............................................................... 47

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Đông Hà,
tỉnh Quảng Trị .............................................................................................. 47
2.2. Phân tích q trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý


vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, thực trạng vi phạm hành
chính của người chưa thành niên và xử lý vi phạm hành chính đối với người

h

chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. ............... 50
2.3. Đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị .................................. 73
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 85
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ ............................. 86
3.1. Quan điểm bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành

niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị .................................. 86
3.2. Giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị .................................. 89
KẾT LUẬN ................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu

Nguyên nghĩa

CNXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


NCTN

: Người chưa thành niên

THCS

: Trung học cơ sở

TTATGT-TTĐT

: Trật tự an tồn giao thơng

UBMTTQ

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

VPPL

: Vi phạm pháp luật

XLVPHC

: Xử lý vi phạm hành chính

BPXLHC
HĐND
TAND
THPT


TTATXH

XHCN

: Hội đồng Nhân dân

: Tịa án Nhân dân

: Trung học phổ thơng

: Trật tự an tồn xã hội
: Ủy ban Nhân dân

h

UBND

: Biện pháp xử lý hành chính

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ CÁC BIỂU ĐỒ
Bản đồ thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị ................................................. 48

Biểu đồ 2.1. Thống kê số vụ việc vi phạm hành chính do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Đông Hà từ năm từ 2017 đến 2021 .... 54

Biểu đồ 2.2. Thống kê số vụ việc vi phạm hành chính do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Đông Hà từ năm từ 2017 đến 2021,

phân loại theo độ tuổi. .................................................................................. 57

Biểu đồ 2.3: Thống kê số vụ việc vi phạm hành chính do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Đông Hà từ năm từ 2017 đến 2021 phân
loại theo độ tuổi............................................................................................ 58

Biểu đồ 2.4: Thống kê số vụ việc vi phạm hành chính do người chưa thành
niên thực hiện trên địa bàn thành phố Đông Hà từ năm từ 2017 đến 2021),
phân loại theo lĩnh vực vi phạm.................................................................... 59

h

Biểu đồ 2.5: Thống kê số vụ việc vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự án
tồn giao thơng do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố
Đông Hà từ năm từ 2017-2021 ..................................................................... 61


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê các hình thức xử phạt vi phạm hành chính do người chưa
thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Đông Hà từ năm 2017-2021..... 65

Bảng 2.2.Những vụ việc người chưa thành niên vi phạm hành chính trên địa
bàn thành phố Đơng Hà, tỉnh Quảng Trị. ...................................................... 76

Bảng 2.3. Kết quả kết quả chung về việc áp dụng các hình thức xử lý vi phạm

hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính qua các năm
như sau: ........................................................................................................ 76

h



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Thanh thiếu niên ví như sức mạnh, là mầm xanh, là tương lai của đất

nước, đất nước có ổn định, phát triển bền vững hay không phụ thuộc rất nhiều

vào thế hệ này. Chính vì tầm quan trọng như vậy, nên vấn đề chăm sóc, giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ và đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn thế hệ trẻ, người
chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được Đảng và Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ Nghĩa (CNXHCN) Việt Nam đặc biệt quan tâm. Đảng và

Nhà nước luôn coi người chưa thành niên, đặc biệt là những người dưới 18
tuổi, là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất, trí tuệ. Do

đó, họ cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã thành niên và
cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Quan điểm,

h

chính sách cơ bản này đã được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong Hiến
pháp nước CNXHCN Việt Nam và được cụ thể hóa trong một số các Bộ luật,

luật quan trọng ở cả hai hệ thống hành chính và hình sự, được quy định riêng

(có chương riêng, các điều khoản riêng) về các loại trách nhiệm pháp lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật áp dụng đối với người chưa thành niên.


Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo

của Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đã có

những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được giữ vững, trật

tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hệ thống pháp luật nói chung, và pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính ngày càng được bổ sung, hồn thiện hơn đã quy
định cụ thể, chặt chẽ việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên.

1


Đối với đối tượng người chưa thành niên vi phạm, Luật Xử lý vi phạm

hành chính (XLVPHC) đã dành một phần riêng để quy định về chính sách xử

lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính và quy định về các biện

pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính (bao gồm nhắc nhở, quản lý tại gia

đình); điều kiện, thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp thay thế. Ðây
là một nội dung mới, tiến bộ, thể hiện chính sách nhất quán của Ðảng và Nhà

nước ta thường xuyên quan tâm đến đối tượng người chưa thành niên nói
chung, người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng, nâng cao một bước

phát triển về thể chế pháp lý bảo vệ quyền con người trong bối cảnh hội nhập
quốc tế. Đồng thời góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, thực hiện tốt


việc phịng, chống, ngăn ngừa, xử lý và tun truyền có hiệu quả những hành
vi vi phạm của các đối tượng là người chưa thành niên.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện

h

những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến qui định của pháp luật về
người chưa thành niên, về xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với người

chưa thành niên, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị đề xuất để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật hiện hành và giải quyết những vướng mắc của

thực tiễn áp dụng là việc làm cần thiết. Điều này không những có ý nghĩa

quan trọng về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam, và đảm bảo cho pháp
luật thực thi đạt được hiệu quả cao nhất, góp phần ngăn ngừa, đấu tranh,
phịng chống những hành vi vi phạm pháp luật do chủ thể là người chưa thanh
niên thực hiện, vừa không lạm dụng các biện pháp cưỡng chế hạn chế quyền

và lợi ích của người chưa thành niên, vừa quản lý, giáo dục có hiệu quả với
đối tượng này.

Điều này đặc biệt có ý nghĩa hơn đối với sự thay đổi và phát triển của

địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, hiện nay bên cạnh những thành
2



quả tốt đẹp đạt được đã xuất hiện một thực trạng đáng lo ngại là người chưa

thành niên vi phạm pháp luật đang dần gia tăng. Hậu quả tiêu cực của người
chưa thành niên vi phạm pháp luật không chỉ ảnh hưởng một cách khơng tốt

đến tình hình kinh tế - xã hội, trật tự an toàn xã hội đang trên đà phát triển của
thành phố Đơng Hà mà cịn ảnh hưởng lớn đến những giá trị tốt đẹp, chuẩn

mực sống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta nói chung và các giá trị
Đơng Hà nói riêng.

Với những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Xử lý vi phạm hành

chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà,

tỉnh Quảng Trị” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
hành chính

2. Tình hình nghiên cứu

Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính

h

nói riêng là cơng cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy

trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đồng thời đây
cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của tồn xã hội.
Trong đó có vấn đề đặc biệt quan trọng là xử lý vi phạm hành chính với đối

tượng áp dụng là người chưa thành niên theo quan điểm Đảng và Nhà nước ta.

Chính vì vậy nên việc nghiên cứu trong lĩnh vực này nhận được nhiều

quan tâm và đã có nhiều tác giả, chuyên gia, nhà nghiên cứu tiến hành thực

hiện. Tuy vậy, nhìn chung các cơng trình, nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung, tổng quan.

Trong đó có thể tìm hiểu một số cơng trình khoa học sau:

Luận án tiến sỹ luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành

chính về “Biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật” của tác

giả Hồng Minh Khơi, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2014) có phạm
vi nghiên cứu rộng. Luận án này trên cơ sở tiếp cận những khái niệm chung
3


nhất về các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật và căn cứ làm phát sinh trách

nhiệm pháp lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật, luận án đã xây
dựng lý luận về bản chất, đặc điểm của người chưa thành niên vi phạm pháp
luật thuộc đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và bản chất, đặc

điểm của các biện pháp đó. Làm rõ các yếu tố đặc thù và tính tồn tại khách
quan của chúng với tư cách là phạm trù pháp lý cần được Pháp điển hóa.

Đồng thời, từ cơ sở lý luận trên, hệ thống những nội dung cơ bản hình thành

khung lý thuyết của luận án đã được nghiên cứu và làm sáng tỏ.

Luận văn thạc sỹ luật học về “Hồn thiện pháp luật về xử lý hành

chính với người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích. TS. Nguyễn

Văn Mạnh hướng dẫn, Đại học Luật Hà Nội (2003); Luận văn thạc sỹ luật học

về “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn” của tác
giả Bùi Tiến Đạt, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008); Luận văn

h

“Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên - Lý luận và thực

tiễn”, tác giả Đồng Thúy An, TS. Phạm Hồng Quang hướng dẫn (2011); Các

nghiên cứu này nghiên cứu một cách tổng quan những vấn đề lý luận liên
quan đến xử lý vi phạm hành chính, về chủ thể là người chưa thành niên…

“Thực trạng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật của người

chưa thành niên” của tác giả Đinh Xuân Nam (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

số 20, tháng 12 năm 2011), viết về tình hình vi phạm pháp luật của người

chưa thành niên, tìm phương hướng và giải pháp tối ưu nhất hạn chế sự vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên (NCTN) trong công cuộc đổi mới

đất nước. Đồng thời, kiêu gọi các phòng, ban, nghành từ Trung ương đến cơ


sở và tồn xã hội cùng chung tay có hướng chăm sóc và bảo vệ NCTN đã,

đang vi phạm pháp luật và cũng như chưa vi phạm pháp luật nhằm hạn chế tối
đa sự lặp đi lặp lại vi phạm pháp luật của NCTN và đưa người chưa thành

4


niên trở về hồn lương, có cơng ăn việc làm ổn định thu nhập và góp phẩn
vào cơng cuộc hội nhập sâu rơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

“Tìm hiểu nguyên nhân trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật” của tác

giả Đỗ Thị Phương Điệp (Tạp chí lao động và xã hội, số 417), viết về nguyên

nhân người trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật. Trong đó, nguyên nhân chủ

quan trách nhiệm cấp ủy đảng ở địa phương trong phòng ngừa NCTN vi

phạm pháp luật chưa cao, quy định pháp luật nhiều “khe hở” trong công tác
đấu tranh xử lý các hành vi phạm pháp luật và tội phạm do NCTN gây ra -

Nguyên nhân khách quan, NCTN nhận thức chưa đầy đủ các vấn đề xã
hội…dẫn đến phạm tội. Đồng thời, tìm giải pháp tối ưu kiềm chế trẻ vị thành
niên vi phạm pháp luật và tội phạm, chính là đẩy mạnh cơng tác tun truyền

các cuộc vận động “Tồn dân tham gia phịng, chống tội phạm” và “Toàn dân
đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”.


h

Luận văn “Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với

người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Nhi (2012), Nhằm giáo dục NCTN

trở thành một công dân tốt, lương thiện và không coi là đã bị xử lý VPCH bằng
cách đưa trực tiếp vào Luật những điều khoản cho phép người có thẩm quyền xử

lý VPHC căn cứ vào tính chất của từng vụ việc VPHC để lựa chọn và miễn áp

dụng các hình thức xử phạt vi phạm, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

cho NCTN vi phạm pháp luật hành chính và thay vào đó là các biện pháp thay
thế như biện pháp nhắc nhở, quản lý tại gia đình.

Bên cạnh đó, có một số các bài viết nghiên cứu, báo cáo đánh giá như:

“Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật Xử lý vi phạm hành hành chính” của Bộ Tư pháp (2016), ”Xử lý vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên”, tác giả Phạm Hồng Giang,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Pháp luật về xử lý vi phạm hành
5


chính (2013),.. chủ yếu đánh giá một cách tổng quan chung về tình hình thực
hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Và rất nhiều bài báo, bài viết các tác
giả trên các tạp chí, diễn đàn, hội thảo.. nhưng chỉ tiếp cận, đề cập, phân tích,

hoặc dự báo, bình luận từng vấn đề, khía cạnh của xử lý vi phạm hành chính,

chứ chưa tập trung phân tích xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên.

Vì vậy có thể nói đề tài thạc sỹ nghiên cứu về “Xử lý vi phạm hành

chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh

Quảng Trị” tại thời điểm này là thực tiễn và không trùng lặp với các cơng
trình nghiên cứu có liên quan.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra những giải pháp bảo đảm

xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

h

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ luận văn được xác định là:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính đối với

người chưa thành niên.

Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính đối


với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Thứ ba, đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành

chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn được

xác định là xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên trên địa
bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
6


4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian, luận văn nghiên cứu xử lý vi phạm hành chính đối

với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu xử lý vi phạm hành chính đối

với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị từ
năm 2017 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận


Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên phương pháp

luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối,

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về xử lý vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên. Luận văn có kế thừa, phát triển

h

kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để phù hợp với nội dung, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu, luận văn

sử dụng linh hoạt và hiệu quả các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, v.v...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu đã góp phần làm hồn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản

về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, từ

đó tạo cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn nhất về biện pháp xử lý vi phạm

hành chính đối với người chưa thành niên; áp dụng những vấn đề lý luận này
nhằm nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luât, bồi dưỡng nâng cao nhận
thức của các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng, đặc biệt là của những người

chưa thành niên, nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

7


Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu

khoa học về các vấn đề liên quan tới việc xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên.

Kết quả của quá trình nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu trong

các buổi tuyên truyền, tư vấn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nhằm nâng cao nhận
thức cho người chưa thành niên, qua đó góp phần làm giảm số lượng vụ việc
vi phạm hành chính do lứa tuổi này gây ra.

Nghiên cứu giúp cơ quan chức năng có cái nhìn sâu sắc hơn về những

nguyên nhân và động cơ dẫn đến hành vi vi phạm hành chính của người chưa
thành niên, từ đó đưa ra phương hướng giải quyết nhanh, hợp lý và hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn được chia thành 3 chương:
chưa thành niên.

h

Chương 1: Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính đối với người

Chương 2: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa

thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành

chính đối với người chưa thành niên trên địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh
Quảng Trị.

8


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. Người chưa thành niên

1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên

Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy

đủ về thể chất và tinh thần chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một
công dân. Do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người

chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái
niệm này thì Cơng ước về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ

cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay


trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về

h

vấn đề này.

Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp

quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.

Như vậy người chưa thành niên là những người chưa trưởng thành do

họ còn non nớt về thể chất và trí tuệ [20]. Do đó, người chưa thành niên cần

được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã thành niên và cần được
gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Quan điểm, chính

sách cơ bản này đã được thể hiện trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
cũng như trong một số luật quan trọng ở cả hệ thống hành chính và hình sự.
Theo đó, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân

sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
9


khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành


niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người

chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy cần lưu ý khái niệm
người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ,

chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là cơng dân Việt Nam dưới
16 tuổi”.

Tóm lại: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển

hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.

1.1.2. Đặc điểm người chưa thành niên

Việc tìm hiểu đặc điểm người chưa thành niên là điều quan trọng đối

với cơ quan pháp luật nói chung, và các cơ quan tiến hành xử lý vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên nói riêng.

h

Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể

lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơng dân.

Chình vì vậy mà họ có những đặc điểm riêng về tâm lý và các nghiên cứu
khoa học về tâm lý học đã phân tích rõ các đặc điểm này, đó là:
Thứ nhất: về trạng thái cảm xúc


Người chưa thành niên là người đang trong q trình phát triển cả về

sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt,

đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân
bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trên thực tế, trạng

thái thần kinh, trạng thái cảm xúc khơng cân bằng có thể là yếu tố gây nên
các hành vi lệch chuẩn. Có khơng ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu

thuẫn nhỏ, nhưng khơng kiềm chế được sự nóng giận q khích mà người
chưa thành niên đã phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành
vi phạm tội.

10


Thứ hai: về nhận thức pháp luật

Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển như “vũ

bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa tuổi mà

kinh nghiệm trong cuộc sống cịn q ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về
pháp luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực

hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của
cá nhân, không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được
giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.

Thứ ba: về nhu cầu độc lập

Nhu cầu độc lập có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra

quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác.
Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập khơng chỉ có mặt tích
cực mà cịn có mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá.

h

Đặc biệt, ở lứa tuổi chưa thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu
hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái,

gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này của người chưa thành niên đều
mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm tội.
Thứ tư: về nhu cầu khám phá cái mới

Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu cầu của các em ở

lứa tuổi chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới cũng có thể
trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em,

nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, khơng
tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai [24].

Như đã phân tích trên, điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự

hạn chế về nhận thức, do vậy việc xử lý họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó

giúp họ nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Và xuất

phát từ những đặc điểm khác biệt về thể chất và tinh thần của người chưa
11


thành niên so với người trưởng thành mà pháp luật xử lý vi phạm hành chính
có quy định riêng đối với người chưa thành niên vi phạm.

Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm

sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi

mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu chính chắn và
đặc biệt họ dễ bị kích động, lơi kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi

trường xấu và khơng được chăm sóc giáo dục chu đáo, người chưa thành niên

dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến có những hành vi vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, so với người đã thành niên thì ý thức hành vi vi phạm của người

chưa thành niên nói chung chưa sâu sắc, và người chưa thành niên cũng dễ
tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để điều chỉnh

hành vi. Việc am hiểu về những vấn đề, đặc điểm riêng, tính cách của người

chưa thành niên giúp cho việc đánh giá, nhận xét được một cách xác đáng về

h

tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nguyên nhân, điều kiện, động cơ mục


đích cũng như nhân thân của người chưa thành niên, để rồi từ đó có thể áp
dụng biện pháp xử lý thích hợp.

1.1.3. Vị trí, vai trị của người chưa thành niên

Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng

trong cả q trình phát triển và hoàn thiện. Ở giai đoạn này các em chưa phát
triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, người chưa thành
niên là những người không phải trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn.

Trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu hiểu

biết về pháp luật, thiếu điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế

chưa cao, dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu,
mạo hiểm. Họ thường chưa làm chủ được những hành vi của mình, ln
hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu động, bồng bột, nhẹ dạ, thiếu kinh

nghiệm sống, dễ va vấp. Chính vì vậy, họ khơng ý thức được hậu quả của
12


những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Nghiên cứu người chưa thành

niên qua các đặc điểm tâm sinh lí sẽ lí giải được cơ sở khoa học của những

qui định pháp luật nói chung và của Luật Xử lý VPHC nói riêng dành cho đối
tượng đặc biệt này.


Đặc trưng cơ bản của nhóm vị thành niên biểu hiện trước hết ở vị trí vai

trị của nó trong đời sống xã hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi
người. Nếu trong cuộc đời, tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai
đoạn bản lề có thể quyết định toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì
trong xã hội, thế hệ vị thành niên bao giờ cũng đại diện cho một sự chuyển

tiếp vào các thế hệ mới, hướng tới tương lai. Nguồn nhân lực cho sự phát

triển được nảy sinh, bảo vệ, nuôi dưỡng từ tuổi trẻ em, bổ sung và hoàn thiện
dần về thể chất, tri thức và nhân cách từ vị thành niên và bắt đầu thực sự đóng
góp cho xã hội ở những giai đoạn sau đó. Người chưa thành niên nói chung,

h

người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng là người đang trong q
trình phát triển về sinh lí lẫn tâm lí, ý thức, do sự trưởng thành và tích lũy ở

những giai đoạn trước, người chưa thành niên đã có một vị trí xã hội mới đó

là họ khơng hồn tồn cịn trẻ con nhưng chưa phải là người lớn. Trẻ vị thành

niên có những phức tạp và biến động hơn so với những lứa tuổi khác nên cần

phân tích một cách cặn kẽ để hiểu rõ tâm lý trẻ mà có cách giáo dục thích

hợp. Có thể khái niệm vị thành niên là những người chưa thành niên, chưa đủ
tuổi để chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời của mình, ở góc độ nghiên

cứu của bài, vị thành niên được giới hạn trong độ tuổi 12 đến 18, là độ tuổi

học sinh trung học từ lớp 6 đến lớp 12.

Để rồi, khi vượt qua lứa tuổi này, con người có thể bước vào đời như

những cơng dân tương lai với tất cả những gì được tạo dựng từ đó, những tốt
và xấu, những đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu tranh với nhau trong

suốt quãng đường còn lại của đời người. Ở lứa tuổi này tâm lí các em cũng có
13


những thay đổi rõ rệt. Có thể nói lứa tuổi này được tạo thành bởi nhiều yếu tố

khác nhau. Những biểu hiện của tâm lí khơng diễn ra lập đi lập lại, mỗi biểu

hiện chỉ xảy ra trong một giai đoạn nhất định. Điều này tạo nên đặc trưng cơ
bản cho lứa tuổi này.[24]

1.2. Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

1.2.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa

thành niên

* Khái niệm vi phạm hành chính

Khái niệm vi phạm hành chính lần đầu tiên được nêu ra trong Pháp

lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Và được khẳng định lại
trong Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước CHXHCN Việt


Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, được Chủ tịch nước
ký lệnh công bố số 13/2012/L-CTN ngày 02/7/2012, có hiệu lực từ ngày

h

01/7/2013.

Tại khoản 1 Điều 2 của Luật XLVPHC 2012 đã chỉ rõ: “Vi phạm hành

chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định

của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, Luật XLVPHC
không đưa ra định nghĩa trực tiếp vi phạm hành chính, mà quy định gián tiếp
thơng qua giải thích từ ngữ được hiểu và khái niệm vi phạm hành chính cũng
đã được đề cập rất rõ ràng.

Trên cơ sở quy định này, cho thấy vi phạm hành chính có các đặc

điểm sau:

Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi có lỗi;

Thứ hai, vi phạm hành chính xâm hại tới hoạt động quản lý nhà nước

mà không phải là tội phạm;

14



Thứ ba, vi phạm hành chính phải bị xử phạt hành chính (tức là phải

chịu một hoặc nhiều hình thức xử phạt đã được quy định trong Luật XLVPHC
2012 như cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn…) [8].

Mặc dù đây là một khái niệm đã được “luật hóa”; tuy nhiên theo quan

điểm của một số nhà nghiên cứu thì khái niệm này vẫn còn một số điểm chưa
thực sự hợp lý như:

Ấn định khách thể của vi phạm hành chính là hoạt động quản lý nhà

nước như tại khoản 1, Điều 2 Luật XLVPHC 2012 thực chất khơng nói lên
được khách thể của vi phạm mà chỉ nói lên được tính trái luật của hành vi, bởi

ở đây chúng ta thấy khách thể của vi phạm pháp luật luôn là quan hệ xã hội
chứ khách thể không thể là “quy định…”, như đã được miêu tả tại khoản 1,
Điều 2 Luật XLVPHC.

h

Hơn thế, nội hàm của “quản lý nhà nước” là vơ cùng rộng, chính vì vậy

khi đồng nhất khách thể của vi phạm hành chính với “trật tự quản lý nhà
nước” dễ tạo ra sự lúng túng khi tiếp cận khái niệm khoa học, bởi suy cho
cùng tất cả các ngành luật đều bảo vệ “trật tự quản lý nhà nước”.

Cũng tại khoản 1, Điều 2 Luật XLVPHC 2012 sử dụng cụm từ “mà


không phải là tội phạm” để xác định hành vi nào là hành vi bị xử lý hành

chính, thay vì bị xử lý hình sự khi hành vi đó vi phạm các “quy định về quản

lý nhà nước” dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhầm
tưởng mình có thẩm quyền để xác định hành vi nào là vi phạm hành chính,

hành vi nào là vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm), bởi trên thực tế việc xác

định hành vi nào là vi phạm hành chính, hành vi nào là tội phạm thuộc thẩm
quyền của các nhà làm luật chứ không phải của chủ thể áp dụng pháp luật.

Bên cạnh đó, theo quan điểm của một số nhà khoa học thì khơng nên

“định nghĩa khái niệm của ngành luật này thông qua khái niệm của một
15


ngành luật khác” [19]. Dấu hiệu cuối cùng trong khái niệm vi phạm hành
chính cũng như vi phạm pháp luật nói chung là phải chịu một biện pháp

chế tài cụ thể nào đó, mà trong khái niệm này thì đó là “phải bị xử phạt

hành chính”, tức là phải chịu ít nhất một trong năm hình thức xử phạt đã
được Luật XLVPHC quy định.

Tóm lại, từ các phân tích trên, có thể đưa đến khái niệm vi phạm hành

chính như sau: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức có năng

lực trách nhiệm hành chính thực hiện, xâm hại vào các quan hệ được luật

hành chính bảo vệ mà theo quy định của pháp luật thì phải chịu trách nhiệm
hành chính.

* Khái niệm xử lý vi phạm hành chính

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do

nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị

h

trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của tồn xã hội, được đảm bảo thực
hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự

và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội. Pháp luật có ba chức

năng: điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có chức năng bảo vệ vì

trong xã hội vẫn tồn tại những “vi phạm pháp luật” - là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích ủa xã hội, quyền và lợi ích của cơng dân,

do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách có lỗi. Và người
vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý - hậu quả ủa vi phạm pháp

luật và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế (hay là chế tài xử lý).

Như đã nói trên, xử lý vi phạm hành chính là cơng cụ quan trọng trong


hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương hành chính trong
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

16


Khoản 2 Điều 2 của Luật XLVPHC đề cập: “Xử phạt vi phạm hành

chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện

pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”.

Dễ thấy vi phạm hành chính là một trong những loại vi phạm pháp

luật xảy ra khá phổ biến và có ảnh hưởng lớn tới xã hội. Vi phạm hành chính

là hành vi hành động hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc

vơ ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức
thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của
Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích

hợp pháp của cơng dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm hành chính. Và chủ thể thực hiện vi phạm hành chính phải chịu trách
nhiệm hành chính - là hậu quả của vi phạm hành chính, thể hiện ở sự áp

h


dụng bởi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền những chế tài pháp luật
hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ tục do luật hành

chính quy định. Đó là sự phản ứng tiêu cực của Nhà nước đối với người thực

hiện vi phạm hành chính, kết quả là chủ thể thực hiện vi phạm hành chính
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so
với tình trạng ban đầu của họ.

Trong thực tiễn, nhà nước ta thực hiện các hoạt động “xử phạt vi phạm

hành chính” “để đấu tranh phịng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp

phần giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.

* Khái niệm xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Như đã đề cập, xử lý hành chính với người chưa thành niên là hoạt

động cưỡng chế, áp dụng các biện pháp hạn chế những quyền và lợi ích nhất
17


×