Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Ebook Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.74 MB, 59 trang )



CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM

ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO
HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA


HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN
Chủ tịch Hội đồng
TS. NGUYỄN THẾ KỶ
Phó Chủ tịch Hội đồng
TS. NGUYỄN DUY HÙNG
Thành viên
TS. NGUYỄN AN TIÊM
TS. KHUẤT DUY KIM HẢI
NGUYỄN VŨ THANH HẢO


UỶ BAN BIÊN GIỚI QUỐC GIA

CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM

ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO
HỒNG SA VÀ TRƯỜNG SA

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SƯ THẬT
HÀ NỘI - 2012




LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao
đời nay đã thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhà
nước Việt Nam đã không ngừng thực thi và bảo
vệ chủ quyền trước mọi hành động có tính chất
xâm phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Thực hiện Đề án trang bị sách cho cơ sở xã,
phường, thị trấn của Ban Tuyên giáo Trung ương
và nhằm tuyên truyền rộng rãi về chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật phối hợp với Ủy ban biên giới quốc gia, Bộ
Ngoại giao Việt Nam xuất bản cuốn sách Chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuốn sách tóm lược những tư liệu lịch sử xác
thực, rõ ràng, gồm các sách địa lý, lịch sử và bản
đồ cổ; các hiệp định, nghị định, sắc lệnh đã ký;
bia chủ quyền của Việt Nam dựng trên các quần
đảo, cũng như những tuyên bố tại các hội nghị
5


quốc tế khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2012

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


LỜI NI ĐẦU

Việt Nam có hơn 3.000 hòn đảo ven bờ và hai
quần đảo ngoài khơi là quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa chỗ gần
nhất cách Quảng Ngãi 120 hải lý về phía Đông.
Điểm gần nhất của quần đảo Trường Sa cách
Vịnh Cam Ranh, thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa khoảng 250 hải lý về phía Đông.
Hai quần đảo này là bộ phận không tách rời
của lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã
thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo
trong hàng trăm năm nay. Chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
phù hợp với luật pháp quốc tế và được công nhận
bởi hàng loạt các bằng chứng pháp lý và lịch sử.
Với mong muốn giúp cho độc giả hiểu rõ hơn
về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, Ủy ban Biên giới quốc gia trân trọng phát
hành cuốn sách Chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

7




1. Chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về
Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu còn khá mơ hồ;
họ chỉ biết có một khu vực rộng lớn rất nguy hiểm
cho tàu thuyền vì có những bãi đá ngầm. Ngày
xưa, người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng
Sa, Vạn lý1 Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn
lý Trường Sa như các sách và bản đồ cổ của Việt
Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả các bản đồ của
các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XVIII đều vẽ chung quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel,
Parcel hay Paracels2.
Về sau, với những tiến bộ của khoa học và
hàng hải, người ta đã phân biệt có hai quần đảo:
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Mãi
cho đến năm 1787-1788, cách đây hai trăm năm,
đoàn khảo sát Kergariou - Locmaria mới xác định
được rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo
Hoàng Sa như hiện nay, từ đó phân biệt quần đảo
này với quần đảo Trường Sa ở phía Nam. Các bản
đồ trên nói chung đều xác định vị trí khu vực
1. Lý: đơn vị đo độ dài thời xưa, tương đương với
khoảng 0,5 km.
2. Bản đồ của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Pháp như Lazaro Luis, Fernão Vaz Dourdo, Joaõo Teixeira,
Janssonius, Willem Jansz Blaeu, Jacob Aertsz Colom,
Theunis Jacobsz, Hendrick Doncker, Frederich De Wit
Pietre du Val, Henricus E. Van Langren, v.v..


9


Bản đồ hàng hải của người Bồ Đào Nha thế kyû XVI

10


Pracel (tức là cả Hoàng Sa và Trường Sa) là ở giữa
Biển Đông, phía Đông Việt Nam, bên ngoài những
đảo ven bờ của Việt Nam.
Hai quần đảo mà các bản đồ hàng hải quốc
tế ngày nay ghi là Paracels và Spratley hoặc
Spratly chính là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa của Việt Nam.
Từ lâu nhân dân Việt Nam đã phát hiện quần
đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối
với hai quần đảo đó một cách thật sự, liên tục và
hòa bình.
a) Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của
Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng
Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc
Vạn lý Trường Sa (cả quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa) từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.
“Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư”,
tập bản đồ Việt Nam do Đỗ Bá, tên chữ là Công
Đạo, soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú
giải bản đồ vùng phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam:

“Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng,
dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa
biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh1 mỗi lần
có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở
phía trong trôi dạt ở đấy,... có gió Đông Bắc thì
thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy,
1. Cửa Đại Chiêm nay là cửa Đại thuộc tỉnh Quảng Nam;
cửa Sa Vinh nay là cửa Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

11


“Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư”

đều cùng chết đói hết cả, hàng hóa thì đều để lại
ở nơi đó”.
Trong “Giáp Ngọ Bình Nam Đồ”, bản đồ xứ
Đàng Trong do Đoán quận công Bùi Thế Đạt vẽ
năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được vẽ là một bộ
phận của lãnh thổ Việt Nam1.
“Phủ Biên Tạp Lục”, cuốn sách của nhà bác
học Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn năm 1776,
viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong
dưới thời Chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được
triều đình bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép
rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường
Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi.
1. Trong tập Hồng Đức bản đồ.

12



“Phủ Biên Tạp Lục”


“Xã An Vónh1, huyện Bình Sơn, phủ Quảng
Nghóa, ở ngoài cửa biển có núi2 gọi là cù lao Ré,
rộng hơn 30 dặm3, có phường Tứ Chính, dân cư
trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa
lại có đảo Đại Trường Sa. Trước kia có nhiều hải
vật và hóa vật của tầu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi
ba ngày đêm mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”.
“... Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã
An Vónh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc
có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn,
cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia
hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi
có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát
vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn,
nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào;
các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người
1. Ở phía nam cửa biển Sa Kỳ, phường An Vónh ở cù
lao Ré cũng thuộc xã này.
2. Đối với người Việt Nam cũng như người Trung Quốc,
chữ “sơn” trong tiếng Hán có nghóa là núi, nhưng cũng được
dùng để chỉ các hải đảo. Thí dụ: Phần lớn các đảo ở ngoài
cửa vịnh Hàng Châu (Nam Thượng Hải) đều được người
Trung Quốc gọi là “sơn”: Bạch Sơn, Đại Ngư Sơn, Đại
Dương Sơn, Tiểu Dương Sơn, Trường Bạch Sơn, Trúc Sơn,
Tù Sơn, v.v.. Người Trung Quốc cũng dùng “sơn” để chỉ một

số đảo của Việt Nam như Cửu Đầu Sơn (đảo Cô Tô), Bất
Lao Sơn (cù lao Chàm), Ngoại La Sơn (cù lao Ré), v.v..
3. Dặm: Đơn vị đo lường thời xưa của Việt Nam tương
đương 0,5km.

14


thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ
rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc
chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục,
không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm
bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ,
để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều
có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn.
Có con hải ba, tục gọi là trắng bông, giống đồi
mồi, nhưng nhỏ hơn, vỏ mỏng có thể khảm đồ
dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được.
Có hải sâm, tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bến
bãi, lấy về dùng vôi xát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc
ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi, nấu với
tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở
đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70
suất, lấy người xã An Vónh sung vào, cắt phiên
mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang
lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu
nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở
đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa
vật của tầu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc,

vòng sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi,
vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ
tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú
Xuân để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem
bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lónh
bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định,
15


cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của
cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu biên rằng: năm
Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân
được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt
bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quý Tỵ năm năm
ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba.
Cũng có năm được thiếc khối, bát sứ và hai khẩu
súng đồng mà thôi.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định
bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở
Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình
nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu
cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra
các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà
Tiên, tìm lượm vật của tầu và các thứ đồi mồi,
hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng
Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật,
còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.
Trong số tư liệu còn tìm thấy ngày nay, có thể
kể tờ sai sau đây đề năm 1786 của quan Thượng
tướng công:

“Sai cai Hội Đức Hầu đội Hoàng Sa dẫn bốn
chiếc thuyền câu vượt biển đến thẳng Hoàng Sa
và các cù lao trên biển thu lượm đồ vàng bạc, đồ
đồng và đại bác, tiểu bác1, đồi mồi, hải ba cùng
cá quý mang về kinh đô dâng nộp theo lệ”.
1. Chỉ loại pháo cỡ nhỏ.

16


“An Nam Đại Quốc Họa Đồ”

17


“Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ”, bản đồ nước
Việt Nam đời Nguyễn vẽ vào khoảng năm 1838,
ghi “Hoàng Sa - Vạn lý Trường Sa” thuộc lãnh thổ
Việt Nam, phía ngoài các đảo ven bờ miền Trung
Việt Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam.

“Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ”

18


“Đại Nam Nhất Thống Chí”, bộ sách địa lý
Việt Nam do Quốc sử quán nhà Nguyễn (1802-1945)
soạn xong năm 18821 ghi Hoàng Sa là bộ phận
lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ngãi.


“Đại Nam Nhất Thống Chí”

Đoạn nói về hình thể tỉnh Quảng Ngãi, cuốn
sách viết:
“Phía Đông tỉnh Quảng Ngãi, có đảo cát (tức
đảo Hoàng Sa) liền cát với biển làm hào; phía
Tây Nam miền sơn man, có lũy dài vững vàng,
phía Nam liền với tỉnh Bình Định, có đèo Bến Đá
chắn ngang, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, có
ghềnh Sa Thổ làm giới hạn...”.
1. Phần viết về các tỉnh Trung Bộ được soạn lại và
khắc in năm 1909.

19


“... Đầu đời vua Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt
đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời Minh Mệnh,
thường sai người đi thuyền công đến đấy thăm dò
đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi
1.070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có
giếng, phía Tây Nam còn có ngôi miếu cổ, không
rõ dựng từ thời nào, có bia khắc bốn chữ “Vạn lý
Ba Bình” (muôn dặm sóng yên). Cồn cát này xưa
gọi là Phật Tự Sơn, phía Đông và phía Tây đảo đều
có đá san hô nổi lên một cồn chu vi 340 trượng,
cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là Bàn
Than Thạch. Năm Minh Mệnh thứ 16 sai thuyền
công chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở

phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba
mặt tả hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào
được đồng lá và gang sắt có đến hơn 2.000 cân”.
Nhiều nhà hàng hải, giáo só phương Tây trong
những thế kỷ trước đều xác nhận Hoàng Sa
(Pracel hay Paracels) thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Một giáo só phương Tây đi trên tàu Amphitrite
từ Pháp sang Trung Quốc năm 1701 viết trong
một lá thư rằng: “Paracel là một quần đảo thuộc
Vương quốc An Nam”1.
1. J.Y.C trích dẫn trong bài “Bí mật các đảo san hô Nhật ký về cuộc hành trình đến Hoàng Sa” (Mystere des
atolls - Journal de voyage aux Paracels) đăng trong tuần
báo Indochine (Đông Dương) trong các số ngày 3, 10 và
17-7-1941. Danh từ “Vương quốc An Nam” trong tài liệu
chỉ nước Việt Nam thời bấy giờ.

20


Giám mục J.L. Taberd, trong bài “Ghi chép
về địa lý nước Cochinchine” xuất bản năm 1837,
cũng mô tả “Pracel hay Paracels” là phần lãnh thổ
nước Cochinchine và nói rõ người Cochinchine
gọi Pracel hay Paracels là “Cát Vàng”1. Trong
“An Nam Đại Quốc Họa Đồ” xuất bản năm 1838,
ông đã vẽ một phần của Paracel và ghi “Paracel
hay Cát Vàng” (Paracel seu Cát Vàng) ở ngoài
các đảo ven bờ miền Trung Việt Nam, vào khu
vực quần đảo Hoàng Sa hiện nay2.
J.B. Chaigneau, cố vấn của vua Gia Long,

năm 1820 đã viết trong phần chú bổ sung vào
cuốn “Hồi ký về nước Cochinchine”3: “Nước
Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi
Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh4…
một vài đảo có dân cư không xa bờ biển và quần
1. “Ghi chép về địa lý nước Cochinchine” (Note on
Geography of Cochinchina) của Giám mục Jean-Louis
Taberd đăng trong “Tạp chí của Hội châu Á Băng-Gan”
(The Journal of the Asiatic Society of Bengal), tập VI,
1837, tr. 745.
2. Đính trong cuốn “Từ điển Latinh - Việt Nam”
(Dictionarium Latino-Anamiticum), 1838.
3. Danh từ Cochinchine (tiếng Pháp) hoặc Cochinchina
(tiếng Anh) trong tài liệu phương Tây trích dẫn ở đây có
hai nghóa tùy theo văn cảnh: a) nước Việt Nam thời bấy
giờ, sách này dịch là nước Cochinchine; b) xứ Đàng Trong
thời bấy giờ, sách này dịch là xứ Cochinchine.
4. Tức Đàng Ngoài (le Tonkin).

21


đảo Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá
không có dân cư hợp thành...”1.
Trong bài “Địa lý vương quốc Cochinchina”2
của Gutzlaff, xuất bản năm 1849 có đoạn nói rõ
Paracels thuộc lãnh thổ Việt Nam và chú thích
cả tên Việt Nam là “Cát Vàng”.
b) Với tư cách là người làm chủ, trong
nhiều thế kỷ, nhà nước phong kiến Việt Nam

đã nhiều lần tiến hành điều tra khảo sát địa
hình và tài nguyên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Các sách địa lý và lịch sử của
Việt Nam từ thế kỷ XVII đã ghi lại kết quả
các cuộc khảo sát đó.
Trong “Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ
Thư” (thế kỷ XVII): “Họ Nguyễn mỗi năm vào
tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến
(Bãi Cát Vàng) lấy hóa vật, được phần nhiều là
vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”.
“Đại Nam Thực Lục Tiền Biên”, bộ sử về
Chúa Nguyễn do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn
1. A. Salles trích dẫn trong bài “Hồi ký về nước
Cochinchine” (Le mémoire sur la Cochinchine) của
J.B. Chaigneau đăng trong “Tạp chí của những người bạn
thành Huế cổ” (Bulletin des amis du vieux Huế), số 21923, tr. 257.
2. Bài “Địa lý vương quốc Cochinchina” (Geography
of the Cochinchinese Empire) đăng trong “Tạp chí Hội
địa lý Hoàng gia Luân Đôn” (The Journal of the Royal
Geography Society of London), tập XIX, 1849, tr. 93.

22


xong năm 1844, có đoạn viết: “Xã An Vónh, huyện
Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài biển, có hơn
130 bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc
vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn
dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa. Trên bãi có
giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc

hoa, vích, v.v..”
“Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm
70 người, lấy dân xã An Vónh sung vào, hằng năm
đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì
đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại
có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình
Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi
thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hóa
vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.
Theo “Đại Nam Thực Lục Chính Biên”, bộ sử
ký do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn, viết về các
đời vua nhà Nguyễn, phần viết về các đời vua Gia
Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị được soạn xong năm
1848, ghi sự kiện Gia Long chiếm hữu các đảo
Hoàng Sa năm 1816, sự kiện Minh Mệnh cho xây
miếu, dựng bia trồng cây, đo đạc, vẽ bản đồ các
đảo này1.
Quyển 52: “Năm Bính Tý, niên hiệu Gia
Long thứ 15 (1816)... Vua phái thuỷ quân và đội
Hoàng Sa cưỡi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò
đường thủy”.
1. Kỷ thứ 2, quyeån 122.

23


×