Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

“PHÂN TÍCH CÁC VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH CÔNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ HỘI. LIÊN HỆ VIỆC PHÁT HUY CÁC VAI TRÒ ĐÓ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.16 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN TÀI CHÍNH CƠNG
ĐỀ TÀI
“PHÂN TÍCH CÁC VAI TRỊ CỦA TÀI CHÍNH CƠNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ - XÃ
HỘI. LIÊN HỆ VIỆC PHÁT HUY CÁC VAI TRỊ ĐĨ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI”

Nhóm thực hiện: 2
Lớp: 2304EFIN3021
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Minh Hạnh

Hà Nội, 2023


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
STT

Họ tên thành viên

MSV

Nhiệm vụ

11

Nguyễn Thị Ngọc Ánh

20D260068


Nội dung

(Nhóm trưởng)

1.3+1.4; Phân
chia NV

12

Hồ Thanh Bằng

20D260069

Nội dung 2.1

17

Phạm Hồng Hà

20D260017

Nội dung 2.2.2

18

Trần Thị Hậu

20D260018

Nội dung 2.2.2


20

Dương Công Hiệu

20D260079

Nội dung

45

Trịnh Thị Thảo

20D260048

Thuyết trình

46

Tống Thị Thu

20D260049

Power point

47

Hồng Thị Thùy

20D260209


Nội dung
1.1+1.2, word

48

Nguyễn Thị Thanh Thùy

20D260050

Nội dung 2.2.1

Đánh giá


MỞ ĐẦU
Tự do hóa thương mại hiện nay khơng cịn là một xu thế mà đã trở thành một thực
tiễn sôi động và phổ biến của nền kinh tế thế giới. Để phát triển, các quốc gia phải xây
dựng mô hình “kinh tế mở”, chuyển từ xu hướng bảo hộ thương mại (bảo hộ mậu
dịch) sang thương mại tự do nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế mỗi
nước. Tự do hóa thương mại khơng những tạo thuận lợi cho các nước đang phát triển
mở rộng thị trường, có thêm vốn và cơng nghệ, tập hợp lực lượng để bảo vệ lợi ích của
mình mà còn giúp cho các nước này cải cách cơ cấu và thể chế nền kinh tế.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được thành lập năm 1992 trên cơ sở Hiệp
định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và Hiệp định về Chương trình ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung cho AFTA (CEPT) ký năm 1992. Theo đó, các rào
cản thương mại đối với hàng hóa dần được dỡ bỏ cùng với các hoạt động thuận lợi hóa
thương mại hàng hóa được xúc tiến. AFTA đã và đang mang lại những lợi ích rất lớn
cho các nền kinh tế thành viên, doanh nghiệp, người dân ASEAN. Vậy việc thực thi
các cam kết về thuế quan của Việt Nam sau khi gia nhập AFTA cụ thể như thế nào?

Điều này sẽ được phân tích trong bài thảo luận của Nhóm 1 chúng em với đề tài:
“Thuế quan của Việt Nam trong bối cảnh thực hiện AFTA”. Qua thực trạng ấy, chúng
em cũng xin đưa ra một số đánh giá về cơ hội và thách thức mà chính sách thuế quan
của AFTA mang lại.


NỘI DUNG
I.

Cơ sở lý thuyết

1. Thuế quan
1.1. Khái niệm
Thuế quan là thuế do hải quan của một nước thu đối với hàng hóa xuất khẩu hoặc
nhập khẩu khi vận chuyển qua cửa khẩu nước đó. Hàng nhập khẩu bị đánh thuế nhập
khẩu, hàng xuất khẩu bị đánh thuế xuất khẩu.
I.2. Vai trò và tác động của Thuế quan
Vai trò
Điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Lượng hàng hóa xuất khẩu và nhập
khẩu phụ thuộc vào sự tiêu thụ hàng hóa, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả
lên xuống làm giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Một bộ phận quan trọng
tác động đến sự lên xuống của giá cả hàng hóa ngoại thương đó là thuế quan. Thuế
quan đánh thấp hay đánh cao ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, do đó thơng
qua mức thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu người ta gián tiếp Điều tiết hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Thuế quan có tác dụng bảo hộ thị trường nội địa vì đánh thuế cao vào những hàng
hóa nhập khẩu, giúp các nhà sản xuất trong nước bằng giá rẻ có thể cạnh tranh với
hàng hóa nhập khẩu. Đặc biệt thuế quan giúp các xí nghiệp sản xuất non trẻ ở trong
nước có thời gian để phát triển và sinh lời nhằm có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu
trong tương lai. Vì những xí nghiệp non trẻ thường phải chi phí ban đầu cao, chưa có

thị trường rộng lớn nên những xí nghiệp này có thể bị bóp chết trong trường hợp
thương mại tự do khi bị hàng nhập khẩu cạnh tranh.
Thuế quan có tác dụng tăng thu cho ngân sách quốc gia với chi phí rẻ hơn so với
nhiều loại thuế tiêu dùng, vì điểm thu thuế nhập khẩu ít hơn nhiều so với các điểm của
loại thuế tiêu dùng.
Thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì sản phẩm thay thế hàng
nhập khẩu là do việc đánh thuế cao gây nên sẽ đòi hỏi mở thêm sản xuất tạo thêm công
ăn việc làm giải quyết bớt nạn thất nghiệp trong nội địa.
Thuế quan là công cụ phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại và gây áp lực đối
với các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm phán.


Tác động
Tác động tích cực
Điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu hay bảo hộ sản xuất: tạo nên hiệu ứng đối với
người sản xuất, người tiêu dùng cũng như hiệu ứng thương mại.
Thuế quan là một phần cấu thành nên giá cả hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Giá cả
hàng hóa thấp thúc đẩy sức mua và ngược lại với giá cả hàng hóa cao. Bên cạnh đó,
giá cả hàng hóa cao góp phần thúc đẩy sản xuất.
Đối với hàng hóa nhập khẩu, nhà nước giảm mức thuế quan để khuyến khích tăng
quy mơ nhập khẩu.
Là khoản thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước.
Thuế quan có thể bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh từ nước
ngoài. Bằng cách làm tăng giá bán của hàng nhập khẩu.
Tác động tiêu cực
Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất trong nước có lợi, nhưng người tiêu dùng
bị thiệt hại do phải trả thêm tiền của việc tăng giá hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới
cộng thêm với thuế nhập khẩu. Điều này ảnh hưởng đến khả năng mua sắm hàng nhập
khẩu của người dân tại Quốc gia đó. Giá xe ơ tơ nhập khẩu q đắt như Việt nam hiện
nay chính là một biểu hiện rõ nhất.

Việc áp dụng thuế quan cũng làm giảm hiệu quả tổng thể của tồn bộ nền kinh tế.
Bởi vì khoản thuế này sẽ khuyến khích các cơng ty nội địa sản xuất những sản phẩm.
Mà theo lý thuyết có thể được sản xuất một cách hiệu quả hơn ở nước ngoài.
Tạo nên hiệu ứng phân phối lại thu nhập: Là công cụ để phân biệt đối xử trong quan
hệ thương mại kinh tế, gây áp lực trong quá trình đàm phán kinh tế thương mại.
Phân loại thuế quan
Thuế quan được phân chia dựa trên nhiều yếu tố.
Theo đối tượng đánh thuế:


Thuế quan xuất khẩu



Thuế quan nhập khẩu



Thuế quan quá cảnh


Theo phương pháp tính thuế
 Thuế quan tính theo giá trị đơn hàng: Là tỷ lệ % thỏa thuận quy định giữa các
bên. Ví dụ quy định mức thuế suất là 10% trên giá CIF đối với hàng nhập khẩu, 5%
trên giá FOB đối với hàng xuất khẩu.
 Thuế quan tính theo trọng lượng: Được tính theo trọng lượng, số lượng của
hàng hóa. Với phương pháp này, thuế xuất nhập khẩu khó tính tốn do sự cập nhập
thay đổi liên tục trên thị trường.
Theo mức thuế:



Thuế quan tối thiểu,



Thuế quan tối đa,



Thuế quan ưu đãi

Theo mục đích:


Thuế quan tài chính



Thuế quan bảo hộ

II. Thực trạng thuế quan của Việt Nam trước và sau khi gia nhập AFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
2.1. Chính sách thuế quan của Việt Nam trước khi gia nhập AFTA.
Một số văn bản quy phạm pháp luật về thuế quan của Việt Nam trước khi gia nhập
AFTA:
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được ban hành ngày 29 tháng
12 năm 1987, có hiệu lực từ ngày 29 tháng 12 năm 1987.
Luật 64-LTC/HĐNN8 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành ngày 26
tháng 12 năm 1991, có hiệu lực từ ngày 4 tháng 1 năm 1992.
Văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

được ban hành ngày 5 tháng 7 năm 1993.
Pháp lệnh số 32-LCT/HĐNN8 về Hải quan, ban hành ngày 23 tháng 2 năm 1990,
có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 1990.


Nghị quyết số 292/NQ-UBTVQH9 về chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt
Nam để thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) của các nước ASEAN, ban hành và có hiệu lực từ ngày 8 tháng 11 năm 1995.
Nghị quyết số 91/CP về ban hành Danh mục hàng hóa để thực hiện Hiệp định về
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho
năm 1996, được ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1
năm 1996.
Quyết định số 280/TTg về việc ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu
kèm theo Nghị định số 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993, được ban hành ngày 28
tháng 5 năm 1994.
1.2. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA)
1.2. Giới thiệu chung về AFTA
AFTA là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối
ASEAN, được ký kết vào năm 1992. Ban đầu, có 6 nước tham gia AFTA là Brunei,

Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Sau đó, các nước
Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam tham gia AFTA khi được kết nạp vào
ASEAN
AFTA là một sáng kiến nhằm giảm hoặc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế
quan đối với thương mại nội khối ASEAN. Sáng kiến này liên quan đến việc ký kết
Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa các quốc gia ASEAN để thúc đẩy hợp tác
kinh tế sâu sắc hơn với tổng dân số hơn 660 triệu người.
Hoàn cảnh ra đời:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong
mơitrường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN trước

nhữngthách thức to lớn không dễ dàng vượt qua nếu khơng có sự liên kết chặt chẽ và
nỗ lực vủatồn hiệp hội, những thách thức đó là:
Q trình tồn cầu hố kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt
trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày càng
mấtđi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế.
Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như Khu
vựcMậu dịch Tự do Bắc Mỹ và Khu vực Mậu dịch Tự do châu Âu của EU, NAFTA sẽ
trởthành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hóa ASEAN khi thâm
nhậpvào những thị trường này.


Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng
rãicho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông
Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa
phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực. Để đối
phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái Lan, Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu
dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA).
Mục tiêu chính của AFTA là thúc đẩy hội nhập kinh tế và hợp tác khu vực giữa các nước
thành viên. Thương mại được thành lập để tạo thuận lợi cho việc tạo ra một thị trường và

cơ sở sản xuất duy nhất trong khu vực ASEAN để đạt được các mục tiêu sau:
Tạo thuận lợi thương mại: AFTA đặt mục tiêu thúc đẩy thương mại và hợp tác giữa các
quốc gia ASEAN. Nó giảm thuế (0% đến 5%) dựa trên lịch trình, hợp lý hóa các quy tắc
thương mại và đơn giản hóa các quy trình hải quan. Hiệu quả này giúp tăng cường hoạt động
kinh tế và mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Tiếp cận thị trường được mở rộng, cho phép các
doanh nghiệp ASEAN tiếp cận nhiều người tiêu dùng hơn bằng cách giảm các rào cản

thương mại, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xuất khẩu cạnh tranh do chi phí

nhập khẩu thấp hơn.
Thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế: Hiệp định thương mại ưu tiên thúc đẩy đầu tư

bằng cách thiết lập một mơi trường an tồn khuyến khích đầu tư trực tiếp trong khu
vực và nước ngồi (FDI), do đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, điều này
cũng đảm bảo khả năng cạnh tranh toàn cầu. Bằng cách thúc đẩy một cộng đồng kinh
tế hội nhập, hiệp định mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua
việc mở rộng phạm vi tiếp cận thị trường và khả năng phục hồi tốt hơn trước những
biến động kinh tế.
Phát triển vùng: Thương mại thúc đẩy tăng trưởng mạng lưới sản xuất địa phương, hợp lý
hóa dịng chảy hàng hóa xuyên biên giới để tăng khả năng cạnh tranh của ngành và tăng
cường hợp tác khu vực để giải quyết vấn đề chung. Điều này chuẩn bị cho ASEAN cạnh

tranh tồn cầu thơng qua hội nhập và hợp tác kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh
của ngành và vị thế thương mại quốc tế.
Quy định của AFTA về hạn ngạch - thuế quan
Mục tiêu chiến lược của Hiệp định AFTA là tăng cường năng lực sản xuất và khảnăng
cạnh tranh của ASEAN, thúc đẩy hiệu quả kinh tế trong một thị trường và cơ sở sảnxuất đơn
nhất. Trên cơ sở đó, nội dung cơ bản của AFTA là Chương trình ưu đãi thuếquan có hiệu

lực chung (CEPT) với ba vấn đề chủ yếu, không tách rời là cắt giảm thuế,loại bỏ các
hàng rào phi thuế và hài hòa các thủ tục hải quan.


Về thuế quan, ban đầu, các nước thống nhất sẽ cắt giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN
xuống mức từ 0-5% trong giai đoạn 15 năm, tức là hoàn thành vào năm 2008.Tuy nhiên, vào
tháng 9 năm 1994, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26, cácnước ASEAN
quyết định đẩy tiến độ thực hiện AFTA sớm hơn 5 năm. Theo đó, sáu nướcthành viên cũ

là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan sẽ hồnthành

CEPT (Chương trình thuế ưu đãi có hiệu lực chung) vào ngày 1 tháng 1 năm 2003.Bốn
nước tham gia AFTA sau là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam sẽ có thời
hạnhồn thành CEPT muộn hơn.
Trong CEPT, các mặt hàng cũng được phân loại để đưa vào các lộ trình cắt giảm thuế khác
nhau, tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của mặt hàng đó đối với nền kinh tế từng nước thành
viên. Ngay từ khi mới thực hiện CEPT, hầu hết các mặt hàng thuộc diện trao đổi thương mại
trong ASEAN đều được đưa vào danh mục thông thường (IL) để cắt giảm thuế về 0-5% theo
lộ trình nhanh nhất. Một phần nhỏ các mặt hàng nhạy cảm được các nước đưa vào danh mục
nhạy cảm (SL), nhạy cảm cao (HSL) và danh mục loại trừ (GE) với lộ trình cắt giảm chậm
hơn. Đến nay, hơn 99% số dòng thuế của các nước ASEAN-6 đã được đưa về 0% và các nước
CLMV cũng đã có gần 99% dịng thuế được cắt giảm xuống 0-5%, đưa các nước ASEAN

gần hơn bao giờ hết tới mục tiêu thiết lập một thị trường và cơ sở sản xuất đơn nhất,
tạo tiền đề xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành
đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm
các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép, v.v.), các khoản phụ thu, các quy định về
tiêu chuẩn chất lượng, v.v... Các hạn chế về số lượng có thể được xácđịnh một cách dễ

dàng, do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình
CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, việc xác định và loại bỏ các rào cản phi thuế quan khác phức tạp hơn rất
nhiều và quy địnhphải được xóa bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được
hưởng ưu đãi. Ngoàira, CEPT cũng quy định việc các nước tiến tới thống nhất các tiêu
chuẩn chất lượng, cơngkhai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của
nhau.
Trên cơ sở Hiệp định CEPT, trong quá trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN,các
nước thành viên đã đưa ra và cam kết thực hiện việc xóa bỏ các rào cản phi thuế theo3 gói
lịch trình là giai đoạn 2008-2010 đối với các nước ASEAN-6, giai đoạn 2010-2012đối với
Phi-líp-pin và giai đoạn 2013-2015, linh hoạt tới 2018 đối với CLMV. Hiện nay,việc xóa


bỏ này vẫn đang được các nước ASEAN thực hiện theo kế hoạch đề ra. Dự kiến trong
thời gian tới, ASEAN sẽ xây dựng một cơ chế phù hợp để rà soát và tổng hợp các rào
cản được loại bỏ.
Việc đảm bảo thơng thống, minh bạch các thủ tục hải quan, tạo thuận lợi chothương mại
cũng là một nội dung cần thực hiện khi thiết lập khu vực thương mại tự do ASEAN. Để tạo


điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành buôn bán
trong nội bộ khu vực và để các cơ quan Hải quan các nước dễ dàng xác định mức thuế

cho các mặt hàng, ASEAN đã thống nhất một biểu thuế quan chung(AHTN) trên cơ sở
Hệ thống hài hoà (HS) của Cơ quan hải quan thế giới (WCO). Biểu AHTN này được
sửa đổi 5 năm một lần nhằm rà sốt, cập nhật chính xác các mặt hàngđang được trao
đổi, buôn bán trong khu vực. ASEAN xây dựng Biểu AHTN 2012 để bắt đầu chính
thức áp dụng từ đầu năm 2012. Mẫu tờ khai hải quan chung của khu vực đốivới các
hàng hóa thuộc diện được hưởng thuế suất CEPT cũng đã được thống nhất; cácthủ tục
hải quan được đơn giản và minh bạch hóa để việc trao đổi thương mại diễn ranhanh
chóng, thuận tiện.
II. Thực trạng thuế quan của Việt Nam trước và sau khi gia nhập AFTA
2.1. Chính sách thuế quan của Việt Nam trước khi gia nhập AFTA
Chính sách thuế quan giai đoạn này tập trung vào mục đích tăng thu ngân sách nhà
nước và hướng về xuất khẩu, bảo hộ và thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển
trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động.
Năm 1992, Luật thuế xuất nhập khẩu ra đời đã thống nhất được chế độ thu thuế giữa
hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch. Vì vậy, đối tượng nộp thuế đã có sự thay đổi.
Thuế xuất nhập khẩu sẽ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu của các tổ chức kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế thông qua cửa khẩu biên giới, khơng phân biệt đó là hàng
hóa mậu dịch hay phi mậu dịch kể cả hàng hóa trong nước đưa vào khu chế xuất vào
thị trường trong nước.

Giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu theo hợp đồng thương
mại quốc tế, kể cả chi phí vận tải và bảo hiểm.
Giá tính thuế của hàng hóa xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu theo hợp đồng thương
mại quốc tế, khơng bao gồm chi phí vận tải và bảo hiểm.
Một số hạn chế:
Thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này cịn có một số hạn chế như
sau:
Biểu thuế nhập khẩu có mức thuế suất khá là cao, bao gồm 36 mức áp dụng cho hơn
3000 mặt hàng với mức chênh lệch thuế suất lớn (0% đến 120%).
Có quá nhiều thuế suất thấp hơn 5% (chiếm hơn 50% tổng danh mục hàng hóa
trong Biểu thuế xuất nhập khẩu). Mức thuế cao chỉ tập trung vào một nhóm nhỏ các
mặt hàng. Điều này làm cho thuế suất được phân bổ không đều, khiến cho chính sách


bảo hộ chỉ tập trung vào một số mặt hàng, đồng thời làm hạn chế nguồn thu ngân sách
nhà nước.
Mức thuế suất khá cao trong giai đoạn này sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình Việt
Nam gia nhập AFTA. Bởi gia nhập AFTA sẽ giảm thuế gần như toàn bộ các mặt hàng,
trong đó có cả các mặt hàng có mức thuế cao trước khi Việt Nam tham gia vào AFTA.
Khi mặt hàng có mức thuế suất khá cao được giảm thuế theo lộ trình xuống mức thấp
sẽ làm nguồn thu ngân sách nhà nước bị thiếu hụt, ngành sản xuất mặt hàng đó trong
nước có thể chưa đủ sức cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.
Một số mặt hàng tiêu dùng trong nước chưa được sản xuất hoặc sản xuất với giá cao
và chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn để thỏa mãn nhu cầu ngày càng thay đổi của người
tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, một số mặt hàng tiêu dùng này được nhập khẩu lại có
mức thuế suất khá cao, khiến cho giá thành của hàng hóa sau khi nhập khẩu cao hơn
rất nhiều so với hàng hóa tương tự trong nước. Điều này có thể dẫn đến việc các
thương nhân sẽ có xu hướng gian lận thương mại gia tăng, do đó, cơng tác quản lý
cũng gặp nhiều khó khăn hơn.
Có thể nói rằng, thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trước khi gia nhập AFTA chủ

yếu đóng vai trị tăng thu ngân sách nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước còn non
trẻ. Tuy nhiên, trẻ có thể hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, thay đổi chính
sách thuế quan phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện trong nước là điều tất yếu
khách quan.
2.2. Chính sách thuế quan Việt Nam sau khi gia nhập AFTA
2.2.1. Sự thay đổi của các chính sách
Sau khi trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào
năm 1995, một năm sau Việt Nam tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do của ASEAN
(AFTA). Đây là những bước đi đầu tiên của Việt Nam thực hiện chiến lược đối ngoại
trên cơ sở đa phương hóa và đa dạng hóa các mối quan hệ với đối tác, trong đó lấy hợp
tác kinh tế là nền tảng quan trọng. Nội dung cơ bản của AFTA là Chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) với 3 vấn đề chủ yếu không tách rời nhau là cắt
giảm thuế, loại bỏ các hàng rào phi thuế và hài hịa hóa các thủ tục hải quan.
Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ, chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận những
nguyên tắc trong kinh tế thị trường ở mức độ của khu vực và liên khu vực. Kể từ khi
chính thức ký thỏa thuận tham gia CEPT/AFTA, Việt Nam đã nghiêm chỉnh thực hiện
các cam kết đã ký kết với các nước ASEAN, trong đó có các cam kết về thuế và hải
quan. Cụ thể:
Cắt giảm thuế quan


Bản chất của CEPT là thỏa thuận giảm thuế trong nội bộ khối xuống cịn 0 - 5%,
tiến tới xóa bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác. Theo
lộ trình đã cam kết thì Việt Nam bắt đầu thực hiện ưu đãi thuế quan từ năm 1996, ngay
sau khi tham gia AFTA. Khi đó, mức thuế quan trung bình của Việt Nam đối với hàng
nhập khẩu từ AFTA đã giảm xuống còn 7,3% so với mức 13,8% khi mới gia nhập.
Việt Nam cũng đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT, ở khung thuế suất 0 5%. Đến năm 2003, mức thuế suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2%, là mức thuế
suất trung bình thấp thứ ba trong ASEAN, sau Singapore và Brunei.
Trên cơ sở các thỏa thuận đã ký kết, hàng năm Bộ Tài chính đã ban hành thơng tư
quy định chi tiết danh mục các mặt hàng thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu đối với

hàng hóa có xuất xứ ASEAN và cắt giảm thuế xuất khẩu theo cam kết với các nước
ASEAN. Theo quy định của Hiệp định CEPT, các mặt hàng của Việt Nam được chia
thành 2 nhóm chính:
Nhóm các mặt hàng cắt giảm và xóa bỏ thuế quan: chiếm hầu hết các mặt hàng, có
lộ trình giảm thuế từ năm 1996, giảm thuế suất xuống mức 0 - 5% vào năm 2006 và
xoá bỏ thuế quan vào năm 2015, một số mặt hàng được linh hoạt đến 2018. Ngồi ra,
các mặt hàng cơng nghệ thơng tin (phù hợp với diện mặt hàng của WTO) sẽ được xoá
bỏ thuế quan trong 3 năm: 2008 - 2010. Đồng thời các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên
hội nhập (12 lĩnh vực) sẽ được xóa bỏ sớm hơn là vào năm 2012, trong đó có 9 lĩnh
vực hàng hố gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, ơ tơ, cao su, dệt may, sản phẩm nông nghiệp,
thuỷ sản, điện tử, cơng nghệ thơng tin, y tế.
Nhóm hàng nơng sản nhạy cảm: gồm 89 dịng thuế là các mặt hàng nơng sản chưa
chế biến, gồm một số loại gạo, hoa quả, thực phẩm, đường. Những mặt hàng này
khơng phải xố bỏ thuế quan, có lộ trình giảm thuế từ năm 2004 xuống mức thuế suất
cao nhất là 5% vào năm 2013. Để bảo vệ sức khỏe con người, môi trường, giá trị văn
hóa, đạo đức hay an ninh, quốc phịng, các nước được phép loại trừ (không phải cắt
giảm thuế) những mặt hàng vì mục đích này. Trên cơ sở đó, mỗi nước đã tự xây dựng
một Danh mục các mặt hàng để loại trừ khỏi phạm vi thực hiện CEPT (GEL) và đã
đưa vào đó những mặt hàng mang tính bảo hộ. Từ năm 2005 đến nay, Việt Nam đã
đưa nhiều mặt hàng GEL vào thực hiện CEPT, trong đó quan trọng nhất là các thiết bị
truyền phát (ra đa, điện thoại di động…), đồ uống có cồn và ơ tô, xe máy.
Theo Quyết định 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi để
thực hiện CEPT/AFTA, trong năm 2010 Việt Nam áp dụng mức thuế 0 - 5% đối với
99% dịng thuế nhập khẩu từ ASEAN. Tính đến hết năm 2014, Việt Nam đã thực hiện
cắt giảm thuế nhập khẩu về 0% cho gần 6.900 dòng thuế có xuất xứ ASEAN, chiếm
khoảng 72% trong tổng số 9.558 dòng thuế nhập khẩu. Từ ngày 1/1/2015, Việt Nam
đã cắt giảm thêm 1.720 dòng thuế từ thuế suất hiện hành 5% xuống 0%. Như vậy, chỉ


còn khoảng 7% dòng thuế, tương đương 687 mặt hàng được xem là nhạy cảm theo

thỏa thuận với ASEAN chưa cắt giảm ngay về 0% trong năm 2015 mà thực hiện dần
đến năm 2018 (gồm các mặt hàng nhạy cảm cần có lộ trình bảo hộ dài hơn, chủ yếu là:
sắt thép, giấy, vải may mặc, ô tô, linh kiện phụ tùng ơ tơ, máy móc thiết bị, ngun vật
liệu xây dựng, đồ nội thất...).
Thông tư 165/2014/TT-BTC cũng quy định cụ thể lộ trình cắt giảm thuế đối với 7%
số mặt hàng nhạy cảm trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2018. Qua đó, đã đảm
bảo rằng, đến năm 2018, ngoại trừ danh mục 3% dòng thuế trong danh mục loại trừ,
tồn bộ số dịng thuế cịn lại được thực hiện cắt giảm theo đúng cam kết.
Ngoài ra, Việt Nam còn loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi
thuế quan khi tham gia trao đổi hàng hóa với các nước thành viên AFTA. Những mặt
hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số
lượng. Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xóa bỏ dần trong vịng 5 năm sau khi
sản phẩm được hưởng ưu đãi. Cuối cùng, Việt Nam và các nước ASEAN tiến tới
thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, cơng khai chính sách và thừa nhận các chứng
nhận chất lượng của nhau cũng như thống nhất các biểu thuế, cách tính thuế, và các
thủ tục hải quan.
Hài hịa hóa mã hàng hóa
Để đảm bảo thuận lợi cho giao thương hàng hóa và thực hiện thỏa thuận với
ASEAN, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy
định về phân loại và xác định mã hàng hóa. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
49/2010/ TT-BTC ngày 12/4/2010 hướng dẫn việc phân loại, áp dụng mức thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là một bước tiến lớn trong việc đưa các quy
định về hải quan của Việt Nam gần hơn với các thông lệ quốc tế và theo thỏa thuận
ASEAN. Theo đó, danh mục biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở Danh mục Biểu thuế quan hài hoà ASEAN (AHTN). Đây là danh mục
hàng hoá của các nước ASEAN được xây dựng trên cơ sở Hệ thống hài hịa mơ tả và
mã hóa hàng hóa (HS) của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO).
Năm 2014, Luật Hải quan ra đời, nhiều bất cập trong lĩnh vực hải quan đã được giải
quyết triệt để. Đây là nền tảng để Việt Nam tiếp tục hồn thiện quy định về phân loại
hàng hóa. Ngày 30/01/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thơng tư số 14/2015/TT-BTC

hướng dẫn về phân loại hàng hóa, phân tích để phân loại hàng hóa, phân tích để kiểm
tra chất lượng, kiểm tra an tồn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Việt Nam đã tham gia tích cực vào hoạt động hợp tác hải quan với các nước khi là
một trong 7 quốc gia thuộc ASEAN thử nghiệm áp dụng Cơ chế hải quan một cửa
ASEAN (ASEAN Single Window - ASW). Mục tiêu của ASW là đẩy nhanh thời gian


thơng quan hàng hóa trong bối cảnh hội nhập ASEAN bằng cách đơn giản hóa, minh
bạch hóa thủ tục hải quan trên cơ sở trao đổi thông tin đáng tin cậy và an toàn qua
phương tiện điện tử. Đến năm 2014, Việt Nam và 6 nước khác tham gia thử nghiệm đã
kết nối thành công cổng ASW về trao đổi dữ liệu điện tử giấy chứng nhận xuất xứ (C/
O) mẫu D và tờ khai hải quan điện tử.
Điều chỉnh hệ thống thuế nội địa
Tuy không trực tiếp nằm trong nội dung cam kết với ASEAN, song trong những
năm qua, hệ thống thuế nội địa của Việt Nam đã được điều chỉnh phù hợp với các cam
kết về thuế của Việt Nam với ASEAN, WTO và các cam kết quốc tế khác. Quá trình
điều chỉnh ấy nhằm các mục tiêu chủ yếu sau đây:
Làm cho hệ thống thuế Việt Nam phù hợp với các thơng lệ quốc tế;
Đơn giản hóa và minh bạch hóa hệ thống thuế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh;
Xác định mức động viên hợp lý, đảm bảo số thu cho ngân sách nhằm phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội đất nước.
Về cơ bản, các mục tiêu nêu trên đã được hiện thực hóa trong những năm qua. Cụ
thể:
Từng bước sửa đổi các sắc thuế chủ yếu trong hệ thống thuế để bao quát nguồn thu
và tăng thu hợp lý bù lại cho sự suy giảm nguồn thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Điều chỉnh hợp lý thuế suất của các sắc thuế trong hệ thống thuế để vừa sức dân,
vừa đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước. Theo đó, thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp phổ thơng đã nhiều lần được điều chỉnh giảm từ mức 32% đối với doanh
nghiệp trong nước và 25% đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi

thống nhất thành một mức 25% (năm 2004), xuống 20% vào năm 2016. Thuế thu nhập
cá nhân từ mức cao nhất là 50% giảm xuống còn 35% (năm 2009).
Ban hành thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thay thế cho thuế nhà đất (có hiệu lực từ
01/01/2012), thay đổi cơ bản căn cứ tính thuế theo hướng phù hợp với khả năng sinh
lợi của đất và thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả.
Ban hành sắc thuế mới - thuế bảo vệ mơi trường (có hiệu lực từ 01/01/2012), buộc
các nhà sản xuất sản phẩm gây ô nhiễm hoặc nhập khẩu sản phẩm gây ơ nhiễm mơi
trường phải tính đủ chi phí xã hội vào giá thành sản phẩm; tạo nguồn thu bổ sung để
Nhà nước thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường.


Ban hành Luật Quản lý thuế (có hiệu lực thi hành từ 01/07/2007) nhằm thống nhất
các quy định pháp luật về quản lý thuế và tạo nền tảng pháp lý thực hiện minh bạch
hóa và đơn giản hóa các thủ tục quản lý thuế. Đặc biệt, trong 2 lần sửa đổi, bổ sung
gần đây, nhiều thay đổi về thuế đã hướng đến cắt giảm thủ tục về thuế với mục tiêu
giảm thời gian thực hiện để người nộp thuế thực hiện các thủ tục về thuế ở Việt Nam
tương đồng với các nước ASEAN. Năm 2014 đã giảm thời gian làm thủ tục về thuế từ
872 giờ xuống còn 537 giờ và phấn đấu xuống còn 171 giờ vào năm 2015.
2.2.2. Tác động của việc thay đổi chính sách thuế quan khi gia nhập AFTA
đến nền kinh tế Việt Nam
2.2.2.1. Thương mại
Kể từ khi là thành viên chính thức của ASEAN, thương mại Việt Nam và ASEAN
phát triển nhanh hơn so với thương mại giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN tăng 20% ngay năm đầu
tiên thực hiện CEPT (1996). Tổng kim ngạch thương mại đã tăng gấp 4,5 lần chỉ trong
một thập niên, từ 8,9 tỷ USD năm 2003 lên 40 tỷ USD năm 2013, trong đó Singapore
hiện là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam và lớn nhất trong ASEAN với giá
trị buôn bán hai chiều năm 2013 tăng hơn 20% lên 17 tỷ USD. Tuy nhiên, thương mại
giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng trưởng chậm trong thời gian gần đây.
Về xuất khẩu:

Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác
Nếu chỉ xét trên phương diện lý thuyết, việc tham gia AFTA chắc chắn sẽ khuyến
khích Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang ASEAN vì 2 lý do sau:
Thứ nhất, hàng hóa Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang các
nước ASEAN do các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị bãi bỏ. Điều này làm tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường khu vực.
Thứ hai, các nước ASEAN với số dân khoảng 630 triệu người là một thị trường
rộng lớn không đòi hỏi cao về chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hội nhập vào thương
mại khu vực và thế giới.
Xuất phát từ hai lý do trên, nên ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của
Hiệp hội các nước Đơng Nam Á, Việt Nam đã không ngừng đẩy mạnh quan hệ buôn
bán với các nước thành viên ASEAN, biến các nước này trở thành bạn hàng hết sức
quan trọng của mình. Theo Tổng cục Thống Kê năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN đạt 17,08 tỷ USD, tăng 25,7% so với


năm 2011 và chiếm 14,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Với số lượng này,
ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam trên thế giới, sau EU và Mỹ.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang ASEAN gồm dầu thô, điện thoại
và linh kiện, máy tính, máy móc thiết bị,gạo, cà phê, cao su, hàng dệt may... Đồng
thời, ASEAN cũng là thị trường cung ứng quan trọng thứ hai, sau Trung Quốc. Trong
đó, Singapore, Thái Lan và Lào là 3 thị trường nhập khẩu chính với các mặt hàng có
kim ngạch nhập khẩu đang tăng mạnh là khí hóa lỏng, sắt thép, gỗ và sản phẩm gỗ, rau
quả, đá quý…
Tuy vậy, sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN
không lớn do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, xét về cơ cấu hàng xuất khẩu: Trong giai đoạn 2011 - 2014, ASEAN
thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam. Đây là một
con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần

20% kim ngạch XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của
Việt Nam năm 2011. Và mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước
ASEAN khác cũng không lớn.
Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình
độthua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc
đáocủa chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước
đốitác.
Thứ hai, xét về bạn hàng: 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được
thực hiện với Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái
xuất sang các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước
AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối
ASEAN, 1/3 kimngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN
khác sẽ chưa làm thayđổi nhiều XK Việt Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu
đãi thuế NK thấp.
Trên thực tế, xét 9 tháng đầu năm 2014, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu
hàng hóa sang khu vực thị trường ASEAN đạt trị giá 13,64 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 0,3%
và chiếm 12,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước ra thế giới. Dẫn đầu về đóng góp
vào tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN trong 9 tháng tính từ đầu
năm 2014 bao gồm các nhóm hàng sau: dầu thơ, sắt thép, máy móc thiết bị dụng cụ &
phụ tùng, gạo, hàng dệt may và hàng thủy sản. Tuy nhiên, một số nhóm hàng bị suy
giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước như: nhóm hàng máy vi tính sản phẩm điện tử &
linh kiện, điện thoại các loại & linh kiện, xăng dầu các loại, phương tiện vận tải & phụ
tùng.


Bảng 1: Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm và tỷ trọng một số nhóm hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam sang ASEAN trong 9 tháng tính từ đầu năm 2014
Stt

1


Tên hàng

Điện thoại
các loại &
linh kiện

Kim
ngạch
9
tháng đầu
năm 2013
(Triệu
USD)

Kim
Tốc độ
Tỷ
Tỷ
ngạch
9 tăng/giảm trọng 1 trọng 2
tháng đầu (%)
(%)
(%)
năm 2014
(Triệu
USD)

1.876


1.802

-4,0

13,2

10,4

984

1.142

16,0

8,4

19,7

2

Dầu thơ

3

Sắt
thép
các loại

1.108


1.113

0,4

8,2

74,9

Máy
vi
tính,
sản
phẩm điện tử
& linh kiện

1.402

896

-36,1

6,6

12,0

Máy móc,
thiết bị, dụng
cụ phụ tùng
khác


729

850

16,7

6,2

16,0

529

785

48,5

5,8

34,4

Phương
tiện vận tải &
phụ tùng

712

620

-13,0


4,5

14,9

Xăng dầu
các loại

649

495

-23,7

3,6

67,6

4

5

6
7

8

Gạo


9


10

11

Hàng dệt,
may

308

327

6,0

2,4

2,1

Hàng thủy
sản

273

326

19,3

2,4

5,7


Hàng hóa
khác

5.031

5.286

5,1

38,7

12,0

13.602

13.642

0,3

100,0

12,4

Tổng cộng

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Ghi chú:
Tốc độ tăng/giảm là tốc độ tăng/giảm nhóm hàng đó 9 tháng/2014 so với 9
tháng/2013

Tỷ trọng 1 là tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của từng mặt hàng trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN
Tỷ trọng 2 là tỷ trọng trị giá xuất khẩu nhóm hàng của Việt Nam sang ASEAN so
với kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng đó của cả nước sang tất cả các thị trường.
Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Namsang
các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ hơn từ
các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam có điều
kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ (General
System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất
tại một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự do (như
AFTA) thì được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được
hưởng GSP nếu "giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản
phẩm sau khi hồn thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành
viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị
nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường


tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD
mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị trường
thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi ích
tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất
quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực
Về nhập khẩu
Ở chiều ngược lại, đến hết tháng 9 năm 2014 các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập
khẩu 16,99 tỷ USD hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN, tăng 7,4% và chiếm
15,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ tất cả các thị trường.

Hàng hoá mà các doanh nghiệp của Việt Nam nhập khẩu từ khu vực thị trường này
chủ yếu là những mặt hàng thiết yếu, nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong
nước như: xăng dầu; nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày; máy vi tính, sản phẩm
điện tử & linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng; chất dẻo nguyên liệu…
Trị giá của 4 nhóm hàng này chiếm hơn 46% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
từ ASEAN. Việt Nam cũng nhập khẩu một số lượng lớn hàng hố cơng nghiệp phẩm
củacác nước ASEAN và thông qua các nước ASEAN như hàng may mặc, bánh kẹo,
thực phẩm đóng hộp, máy móc gia dụng…nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng
công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Tuy vậy, các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5%
trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA khơng có tác động trực tiếp tới việc NK
những mặt hàng này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe
máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm
vitác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại
trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần các hàng rào
phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, kim ngạch
NK,nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam có thể sẽ
tăng đángkể nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại
được.
Về bảo hộ trong nước và năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam:
Có nhiều ý kiến cho rằng điểm "yếu" lớn nhất của Việt Nam trong quá trình hội
nhập khu vực cũng như quốc tế là sức cạnh tranh của hàng hóa và của cả nền kinh tế
Việt Nam. Theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh thế
Thế giới tháng 9 năm 2014 thì Việt Nam có điểm cạnh tranh GCI là 4,23 đứng thứ 68


trên thế giới,trong khu vực ASEAN thì đứng sau 5 nước là Singapore 2; Malaysia 20;
Thái Lan 31;Indonesia 34 và Philippines 52.
Một số sản phẩm công nghiệp của Việt Nam đã được cải thiện, nhưng hiện nayhầu

hết số sản phẩm còn lại đều cạnh tranh rất kém, kém ngay ở cả thị trường trong nước.
Một số lợi thế so sánh trước đây với khu vực và thế giới đang mất dần. Qua một số tài
liệu nghiên cứu khảo sát chỉ có 25% nhóm hàng cạnh tranh có điều kiện (cụ thể là phải
có sự bảo trợ, bảo hộ của Nhà nước, 20% nhóm hàng có tính cạnh tranh yếu. Ngay cả
trong25% nhóm hàng có tính cạnh tranh thì chỉ có 7,5% nhóm hàng thuộc về sản phẩm
cơngnghiệp, trong đó chủ yếu là gia cơng sản phẩm nước ngồi.
Lâu nay ta thường nói lợi thế của Việt Nam là tài nguyên thiên nhiên giàu có, phong
phú, rừng vàng, biển bạc, người dân hiền lành chịu khó, ham học hỏi lao động nhiều
và rẻ. Quả thật những lợi thế này đã có lúc đem lại hiệu quả thương mại cho Việt Nam
như xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế từ tài nguyên thiên nhiên khi mà công nghệ
chế biến của ta chưa có gì; gia cơng các sản phẩm cho nước ngồi do giá nhân cơng
của ta rẻ hơn so với các nước khác; sản xuất các sản phẩm tiểu thủ cơng mỹ nghệ, mây
tre, chiếu cói... có hàm lượng nhân công cao. Tuy nhiên theo thời gian lợi thế này đến
nay cũng đã có nhiều biến đổi, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng giá nhân công rẻ, tài
nguyên thiên nhiên phong phú khơng cịn là lợi thế cạnh tranh của hàng hóa nước ta
trong một thế giới đầy biến động và luôn thay đổi như hiện nay. Những lợi thế này
khơng cịn là độc đáo để cạnh tranh, và nếu so với các nước trong khu vực thì các lợi
thế này rất hạn chế, bởi các nước ASEAN cũng có cơ cấu kinh tế, sản phẩm hàng hóa,
nhân cơng rẻ tương tự như ViệtNam
2.2.2.2. Đầu tư nước ngồi
Bất kì một chương trình tự do hố thương mại nào, dù ở cấp quốc gia hay khu vực,
khi được ra đời và thực hiện đều tạo nên một sức hấp dẫn nhất định đối với nhà đầu
tưnước ngoài. Sức hấp dẫn này khơng phải chỉ do cam kết xóa bỏ các rào cản thương
mạitrong chương trình tự do hố thương mại đó tạo nên mà chính là do những cải cách
kinh tế - xã hội sâu rộng luôn đi kèm với nó sẽ được diễn ra ở các nước thực hiện tự do
hoá thương mại.
Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, luồng vốn đầu từ các nước Đông NamÁ
vào nước ta tăng mạnh. Trong 25 năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào
ViệtNam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh vực
côngnghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế

hoạch vàĐầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký
đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ
đầu tư nướcngồi vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt



×