Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu Luận Cuối Kỳ Cnxhh.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.59 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

TIỂU LUẬN

CUỐI KỲ

MÔN HỌC

CHỦ NGHĨA XÃ

HỘI KHOA HỌC

Đề tài:
LÝ LUẬN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
NỀN DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VÀ
LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỔI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM

GVHD: TS: NGUYỄN THỊ QUYẾT
Sinh viên thực hiện:

Lê Bình An
Du Quốc Bảo
Phan Gia Bảo
Đặng Ngọc Duy
Vũ Quốc Việt


Lớp: LLCT120405_23_1_19CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023

22161087
22161090
22162092
22161100
22151160


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỞ
ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài :........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu :..................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu:............................................................................1
CHƯƠNG II: LÝ LUẬN CHUNG....................................................................2
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa....2
1.1. Khái niệm và bản chất về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
xã hội chủ nghĩa..................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm và bản chất về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...................2
1.1.2. Khái niệm và bản chất về Nhà nước xã hội chủ nghĩa.......................4
2. Những giải pháp cơ bản để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay..............................................................................................8
2.1. Nhận định về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.......8
2.2. Những giải pháp cơ bản để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay..............................................................................................9
2.3. Những giải pháp thực tiễn cần được quan tâm của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa............................................................................................................12
2.4. Liên hệ bản thân với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay.............12

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN.............................................................................14
1. Tổng kết.......................................................................................................14
2. Tài liệu và nguồn tham khảo.....................................................................14


CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Về vấn đề nền dân chủ, đặc biệt là nền dân chủ của một Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là vấn đề lúc nào cũng sẽ được bàn luận đến. Bởi chúng ta biết dân chủ
bao gồm là tiếng nói thể hiện quyền con người, còn thể hiện khả năng quản lý
bộ máy chính trị và sự tận tâm dành cho người dân của một Nhà nước xã hội
chủ nghĩa – Nhà nước vốn gắn liền, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân
lao động. Giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có
mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau và gây nhiều sự ảnh hưởng đến đời
sống xã hội, chính trị của cả một đất nước. Mối quan hệ đó cần được hiểu đúng
và rõ ràng hơn. Hơn thế nữa, dân chủ trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vẫn đang được xây dựng, cải thiện và phát triển mỗi ngày. Có nghĩa rằng
nó chưa được hồn thiện. Ở một số cơ quan, một số vùng vẫn còn chưa phát huy
tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thậm chí bị xem nhẹ và làm trái với quyền
dân chủ chính đáng của người dân. Vì lý do đó, tơi chọn đề tài này để thực hiện
nghiên cứu “Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và những giải pháp cơ bản để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu :
Đề tài này được nghiên cứu mục đích chính như nắm vững cơ bản bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt
Nam nói riêng. Khẳng định sự tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Đứng lên phê phán những quan điểm sai trái phủ nhận
sự tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Và biết nhìn nhận những điều chưa
đúng, chưa tốt đang diễn ra về vấn đề dân chủ để đưa ra những giải pháp nhất

định. Đưa ra những giải pháp cơ bản để xây dựng nên dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiên nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm chúng tơi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân
loại và hệ thống hóa lý thuyết, phương pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp
giả thuyết, phương pháp liệt kê so sánh, phương pháp nghiên cứu phân tích tổng
hợp.

1


CHƯƠNG II: LÝ LUẬN CHUNG
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa..
1.1. Khái niệm và bản chất về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm và bản chất về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội hay một chế độ chính trị mà ở
đó, mà tồn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân là chủ, dân
làm chủ thực hiện trực tiếp bằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhằm trở thành mục tiêu cho sự phát triển
xã hội và thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về ý nghĩa, hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hay dân chủ vô sản theo
V.I.Lênin. “Đây không phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; nó chỉ dân
chủ đối với quần chúng lao động và bị bóc lột; Dân chủ vơ sản là chế độ dân
chủ vì lợi ích của đa số. Rằng, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở; dân chủ đó
càng hồn thiện bao nhiêu, càng nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu. Dân chủ
vơ sản, nó đưa quảng đại quần chúng nhân dân lên địa vị của người làm chủ
chân chính của xã hội. Nền dân chủ được thiết lập sau khi giai cấp công nhân

giành được chính quyền về tay mình và nhân dân lao động thông qua cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoặc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mang ý
nghĩa là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân và có sự thống nhất
giữa tính giai cấp cơng nhân với tính dân tộc và tính nhân dân, do lợi ích của
giai cấp cơng nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp dân tộc và của đại đa số
nhân dân lao động.
Do Đảng cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng đảm bảo quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được
thực hiện toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, tư
tưởng – văn hóa – xã hội. Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con
người, đồng thời còn là nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng người trong xã hội, nhất là trong xã hội văn minh. Dân chủ gắn liền với
tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ khác
nhau. Mặc dù, cịn có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm dân chủ
nhưng khái quát nhất có thể hiểu: “Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh chủ
thể quyền lực là nhân dân, khẳng định những quyền cơ bản của con người”. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa chủ yếu được thực hiện bằng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản. Nhờ nắm
vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lê-nin và đưa nó
vào quần chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần chúng tính tự giác cao qua
2


quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để họ thực hiện những điều
liên quan đến lợi ích và yêu cầu dân chủ.
Với tư cách là đỉnh cao trong tồn bộ lịch sử tiến hố của dân chủ, dân chủ xã
hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
Bản chất chính trị: Chỉ duy nhất việc lãnh đạo được đặt dưới một Đảng
của giai cấp công nhân mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền

lực của nhân dân, thể hiện qua quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người
phải thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Dễ
dàng thấy thông qua việc ở nước Việt Nam, theo chế độ xã hội chủ nghĩa
thì cơng nhân từ 18 tuổi trở lên sẽ được phép tham gia bầu cử hay việc
trước khi ban hành bộ luật mới hay sửa đổi lại bộ luật thì phải trưng cầu ý
dân và phải thông báo đến dân về việc thay đổi trên các trang tin tức, thời
sự.
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã
hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu toàn bộ xã hội nhằm đáp ứng sự
phát triển ngày càng cao cảu lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa họccông nghệ hiện đại nhằm thoả mãn nhu cầu vật chát và tinh thần cảu toàn
thể nhân dân lao động. Tuy nhân bản chất kinh tế chỉ được bộc lộ đầy đủ
qua q trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống
toàn xã hội. Điển hình như việc Nhà nước ban hành những chính sách
đốc thúc cơng nghiệp phát triển từ trung ương đến địa phương, tạo ra
ngành nghề cho nhân dân nhằm giảm bớt tình trạng thất nghiệp. Qua đó
tạo động lực cho nhân dân cũng như tạo động lực phát triển kinh tế - xã
hội.
Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ
tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo
đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó
kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu
những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại
đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hố tinh thần; được nâng
cao trình độ văn hố, có điều kiện để phát triển cá nhân. Đây là một thành
tựu văn hố, một q trình sáng tạo văn hố, thể hiện khát vọng tự do
được sáng tạo và phát triển của con người.Như việc Nhà nước ban hành
bộ luật giáo dục. Qua đó mọi cơng dân khơng bị phân biệt tơn giáo, tín
ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội,
hồn cảnh gia đình, tuổi tác thì đều được bình đẳng về cơ hội học tập.

Hơn thế nữa, Nhà nước cũng ra nhiều chính sách cho những học sinh có
hồn cảnh khó khăn, ở các vùng núi; con của thương binh hay người
khuyết tật.
Bản chất xã hội: Sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi
ích của tồn xã hội. Qua việc đảm bảo lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi
3


ích toàn xã hội Đảng và Nhà nước ta sau khi đổi mới khơng chỉ ban hành
những chính sách xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ y tế, nâng cao giáo dục,...
còn nâng cao củng cố phòng chống tham nhũng nhằm ngăn cản việc vì
lợi ích cá nhân ảnh hưởng đến lợi ích của tập thể xã hội.
Đặc trưng của xã hội chủ nghĩa qua quyền dân chủ của công dân sẽ không
ngừng được được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của xã hội, Nhà
nước. Thông qua hệ thống cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội với sự tham gia tích cực của đơng đảo quần chúng
nhận dân lao động vào các hoạt động chính trị hàng ngày. Mục tiêu của dân chủ
xã hội chủ nghĩa chính là xố bỏ chế độ người bóc lột người, tạo các điều kiện
thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, cơng bằng xã hội, cơng lí cho mọi người,
bình đẳng thực sự giữa nữ và nam, văn minh, giữa các dân tộc. Từ đó, tạo ra cơ
hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc khẳng định và thừa kế những
quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy
phạm pháp luật. Từ đó đặt ra những bảo đảm vật chất và tinh thần để thực hiện
các quyền đó và khơng ngừng mở rộng các quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, luôn đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước và xã hội cũng
như phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.
1.1.2. Khái niệm và bản chất về Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu Nhà nước mà ở đó sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ
mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị

làm chủ trên tất cả các mặt cả đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao xã hội xã hội chủ nghĩa. Quá trình hình thành từ khát vọng về một xã hội công
bằng, dân chủ, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Xuất phát
từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự áp bức, bất công,
chuyên chế. Ước mơ xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, những giá trị của
con người được tôn trọng và bảo vệ, có điều kiện phát triển năng lực, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và
nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô
sản và nhân dân lao động tiến hàng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy
nhiên tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những
đặc điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song điểm chung giữa các Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân,
thực hiện việc tổ chức quản lý kinh tế văn hóa xã hội của nhân dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về bản chất, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước của đại đa số nhân dân lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các đặc trưng sau:
4


Bản chất về chính trị: Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai
cấp công nhân, giai cấp của lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần
chúng nhân dân lao động. Trong xã hội chủ nghĩa giai cấp vơ sản là lực
lượng giữ vị trí thống trị về chính trị. Tuy nhiên sự thống trị của giai cấp
vơ sản có sự khác biệt về chất so với sự thống trị của các giai cấp bóc lột
trước đây. Sự thống trị của các giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số
đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội nhằm
bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Cịn sự thống trị về chính trị của giai
cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm

giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao
động khác trong xã hội. Do đó Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho
ý chí chung của nhân dân lao động. Vì vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc
sâu sắc.Nếu nói nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ được tham
gia bầu cử khi đến tuổi 18 nhưng đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì
khi đến độ tuổi nhất định nhân dân được quyền tham gia bầu cử và ứng
cử trở thành người quản lí Nhà nước.
Bản chất về kinh tế: bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy
định của cơ sở kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội
về tư liệu sản xuất chủ yếu, do đó, khơng tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột.
Nếu như tất cả các Nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là bộ máy của
thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức,
bóc lột; thì Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành
chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh kinh tếxã hội của nhân dân lao động, nó khơng cịn là Nhà nước theo đúng nghĩa
mà chỉ là “nửa Nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân
dân lao động trở thành mục tiêu hàng đầu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng
trong lao động sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có
việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực,
hưởng theo lao động”. Vì vậy bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
chịu sự quy định của cơ sở kinh tế của xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, khơng cịn tồn tại quan hệ sản xuất bóc
lột. Co thể hiểu đơn giản qua việc bản thân ta mở kinh doanh nhỏ về quán
cà phê thì mội tư liệu sản xuất chủ yếu của ta về cà phê, máy pha, ly, bàn
ghế hay kể cả tiền kiếm từ việc mở quán,…‬‬‬‬‬‬‬‬
Bản chất về văn hoá, xã hội, Nhà nước Nhà nước xã hội chủ nghĩa được
xây dựng trên nền tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang
những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân hóa giai cấp tầng lớp từng bước

được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các
nguồn lực và cơ hội để phát triển. Thông qua nhiều hoạt động tưởng niệm
như: Quốc Khánh, Thương Binh Liệt Sĩ,.. được Nhà nước tổ chức. Đồng
5


thời, thành lập nhiều bảo tàng lưu giữ di tích lịch sử, trùng tu xây dựng
các cơng trình kiến trúc lâu đời, duy trì các phong tục tập quán lâu đời
như đua thuyền, ăn trầu, kéo co, đấu vật, rối nước,…‬‬‬‬‬‬‬‬
Về chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa tuỳ theo góc độ tiếp cận, chức
năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước, chức năng Nhà
nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Về chức
năng này có ý nghĩa chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an
tồn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của cơng dân. Đồng thời
củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của
các nước xã hội chủ nghĩa. Bởi thông qua chức năng này nhằm mục đích
bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm hịa bình ổn định đất nước. Bởi vì
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong pháp luật cũng như thực
hiện các cơ chế được quy định trong pháp luật một cách hữu hiệu nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân; tạo mọi điều kiện để
công dân phát huy các quyền tự do của mình và xử lý nghiêm minh mọi
hành vi vi phạm quyền và lợi ích của công dân. Qua mối quan hệ Việt
Nam và Lào đã có 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, đồng thời Việt
Nam cũng thiết lập quan hệ rộng khắp thế giới như Nga, Mỹ, Nhật Bản,
Cuba, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan,…‬‬‬‬‬‬‬‬
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực Nhà nước, chức năng cửa
Nhà nước được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
…‬‬‬‬‬‬‬‬Tổ chức quyền lực chính trị, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân
lao động; là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân đối với các tư liệu

sản xuất chủ yếu; có quyền quản lý, kiểm soát việc sử dụng tài sản của
quốc gia. Đồng thời phản ánh thuộc tính xã hội của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các vấn đề như văn hóa, giáo
dục, sức khỏe, việc làm,…‬‬‬‬‬‬‬‬ cần phải được giải quyết trong mối quan hệ
với sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải nhận
thức đúng đắn quy luật khách quan của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế
thị trường và phân tích thực trạng kinh tế –xã hội của đất nước và quốc tế.
Từ đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng một chiến lược đúng đắn và
một cơ chế quản lý hợp lý với đội ngũ cán bộ cơng chức có năng lực quản
lý và kinh doanh. Để khắc phục những khó khăn mà nước ta chưa chú
trọng nhưng rất quan trọng trong việc phát triển đất nước cần thực hiện
nhiều chính sách về văn hóa giáo dục như xây dựng trường học, tu sửa
trường học, tổ chức các kỳ thi hàng năm để đánh giá chất lượng giáo dục
và tìm ra nhân tài bồi dưỡng cho sau này. Đồng thời Quốc Hội cần ban
hành Hiến Pháp và pháp luật mới. để sửa chữa những thiếu sót lúc ban
đầu.
Căn cứ vào tính chất của quyền lực Nhà nước, chức năng cửa Nhà nước
được chia thành chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng giai
cấp là chức năng bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp cầm
6


quyền. Vậy nên, ngày nay nền kinh tế đất nước càng phát triển kéo theo
ý thức mọi người và các chính sách càng đổi mới và hiện theo vậy nên
khơng có sự phân chia bóc lột về giai cấp như trong xã hội cũ, mọi cơng
dân đều được bình đẳng về mọi mặt. Chức năng xã hội là chức năng đảm
bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Nếu chức giai cấp nhằm bảo vệ
quyền lực và địa vị mọ người thì ở chức xã hội lại quan trọng hơn trong
việc hội nhập quốc tế hiện nay. Bởi vì đây là xu hướng quan hệ với các
nước khác để cùng nhau phát triển hay giữ vững hồ bình cả hai bên,

ngồi ra cịn giúp cho nền kinh tế thị trường được củng cố và phát triển
mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều
thành phần xã hội kéo theo là cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ
đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng
về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa
dạng của các thành phần trong xã hội. Và việc hội nhập này giúp đất
nước thu hút được vốn đầu tư cũng như các nhà đầu tư đến và hợp tác,
kinh doanh, trao đổi kinh nghiệm, học tập nhiều hơn. Để đất nước trở lên
lớn mạnh hơn sau này.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một bộ máy
cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động.
Dân chủ là thuộc tính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa với bản chất là Nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội,
Nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân…‬‬‬‬‬‬‬‬ Thông qua các
quy định của pháp luật, Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều
hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một cơ chế
hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ. Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đang phát triển từng ngày, cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ và là mục tiêu của một Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Trong đó xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là một điều
rất quan trọng trong suốt cả q trình đó.

7


2. Những giải pháp cơ bản để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
2.1. Nhận định về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Nền dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta ln coi trọng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ xã
hội chủ nghĩa, vị trí, vai trị, dân chủ ở nước ta đã có nhiều thay dổi mới. Qua
mỗi kỳ đại hội của Đảng, nền dân chủ ngày càng được nhận thức, phát triển,
hoàn thiện đúng đắn, phù hợp hơn với điều kiện của nước ta. Đảng ta đã khẳng
định một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là do nhân dân làm chủ. Dân
chủ đã được dưa vào mục tiêu tổng quát của cách mạng Việt Nam:” Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng,, văn minh.” Đồng thời cũng khẳng định rằng “
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu , vừa là
động lực của sự phát triển đất nước.” Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực của đất nước. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tất yếu là khơng ngừng củng cố, hồn
thiện những điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhâ dân và chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân. Nền dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa đucợ thể
hiện ở việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng ngày
càng mở rộng và hoạt động có hiệu quả. Ý thức lam chủ của nhân dân, trách
nhiệm công dân của người dân trong xã hội ngày càng được đề cao trong pháp
luật và cuộc sống. mọi cơng dân đều có quyền tham gia quản lý xã hội bằng
nhiều cách khác nhau, tùy theo trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Tất cả các
cấp trong các tổ chức chính trị - xã hội đều thực hiện phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.” Đảng khẳng dịnh “Mọi đường lối, chính sách
cảu Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia
ý kiến của nhân dân”. Bên cạnh đó việc xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam diễn ra trong điều kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển lại
chịu hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề. Cùng với đó là những tiêu cực trong
đời sống xã hội chưa được khắc phục triệt để và những âm mưu gây bạo loạn,

8


lật đổ, sử dụng chiêu bài của các thế lực thù địch tự chuyển hóa nảy sinh và diễn
biến hết sức phức tạp đang là trở ngại đối với quá trình thực hiện dân chủ nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị
lấy dân làm gốc. Đây là chế độ bảo đảm quyền làm chủ trong dời sống của nhân
dân từ chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội, qua đó phát huy được tính tích
cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
2.2.

Những giải pháp cơ bản để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Những điểm mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa, và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa hết sức to lớn
về lý luận và thực tiễn; kế thừa những kết quả đã đạt được của nhiều nhiệm kỳ
trong việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc đóng góp vào sự phát triển đất nước trong điều kiện mới, đồng
thời, coi trọng khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước, hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030, và
100 năm thành lập nước vào năm 2045. Thứ nhất, Cương lĩnh năm 2011 khẳng
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương
và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” . Đây là
những quan điểm được tổng kết, có tính khái qt cao về dân chủ, khẳng định
bản chất của chế độ xã hội ta là “dân chủ” và “nhân dân làm chủ”, trở thành một

trong tám đặc trưng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng.
Xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu, đòi hỏi sự nỗ lực của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để dân chủ được thực hành
đầy đủ, phụ thuộc nhiều yếu tố, như: bản chất chế độ xã hội, năng lực thực thi
của bộ máy cơng quyền, trình độ phát triển kinh tế- xã hội, đặc điểm lịch sử,
truyền thống văn hóa, dân trí..., đặc biệt là phải được xây dựng và thực hành qua
từng nhiệm kỳ, các giai đoạn phát triển của đất nước. Vì thế, mỗi nhiệm kỳ đại
hội Đảng cần tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận, định hướng cho việc xây dựng,
hoàn thiện và thực hành dân chủ phù hợp.
Thứ hai, các văn bản quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị- xã hội, Hiến pháp 2013 được ban hành với nhiều điểm
mới, trong đó có vấn đề liên quan đến dân chủ, quyền con người, quyền làm chủ
của nhân dân. Hệ thống các văn bản pháp luật về dân chủ trong hoạt động của
các cơ quan quyền lực Nhà nước được cụ thể hóa và thể chế hóa. Bộ Chính trị
9


đã ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đồn
thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền” và nhiều quy định khác. Các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp) được coi trọng. Việc thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở, cũng như: Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt
những kết quả quan trọng. Bầu khơng khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội mở
rộng hơn. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội có nhiều đổi mới theo
hướng phát huy dân chủ, tinh gọn bộ máy; phát huy vai trị chủ động, tích cực,
dân chủ, tự giác của các hội viên, đoàn viên...
Thứ ba, kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
1991 và đặc biệt là sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh( bổ sung và phát triển năm

2011), trên các lĩnh vực như thực hành dân chủ trong Đảng, tiếp tục có bước
phát triển mới, khuyến khích tự do tư tưởng trong sinh hoạt Đảng, tôn trọng sự
khác biệt trong quan điểm, ý kiến cá nhân trên tinh thần xây dựng. Về thực hành
dân chủ trong các cơ quan Nhà nước, thể hiện trong xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của Quốc hội tiếp tục đổi
mới, theo hướng chuyên nghiệp, dân chủ tiếp tục được coi trọng hơn. Hoạt động
của chính phủ được đổi mới theo hướng xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ
kiến tạo nhằm phát huy dân chủ trong thực thi hành chính cơng. Các cơ quan tư
pháp tiếp tục được kiện toàn, hoạt động theo hướng thượng tôn pháp luật, công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Về thực hành dân chủ trong hoạt
động Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, tiếp tục được phát huy;
tích cực tham gia tư vấn, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và thực
hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước trong từng thời kỳ.
Thứ tư, kết quả và những hạn chế trong thực hành dân chủ nhiệm kỳ Đại hội
XII của Đảng.Về thành tựu, Nghị quyết Đại hội khẳng định, “Dân chủ xã hội
chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng”; “Quyền làm chủ của nhân dân
được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế”. Quyền làm
chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước
được quan tâm. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ của công dân; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã
hội.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, khơng có sự
đồn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi của chủ
nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng. Nắm vững
và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố
quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân làm chủ là bản
10



chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thượng tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất
cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm.
Đảng vừa là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo
hệ thống chính trị và Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo
có chức năng thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành các
văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ và thống nhất. Nhân dân làm chủ thông qua
các cơ quan đại diện và làm chủ trực tiếp qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, giám sát”. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng
dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên;
không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan Nhà nước
và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, cơng chức; góp phần đổi mới phương thức hoạt
động và nâng cao vai trị, uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân.
Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo
nền tảng chính trị, pháp lý, tơn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân
dân. Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát
triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy
tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham
gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ
đảng viên, cán bộ, công chức. Động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế;
góp phần quản lý xã hội thơng qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng và quản lý, thụ

hưởng văn hóa, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, ngoại
giao nhân dân gắn với thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân,
thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng
dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân
chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm thực
hiện đường lối đổi mới, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong
những thành tựu quan trọng về lý luận của Đảng, góp phần quan trọng vào việc
hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đáp ứng được khát vọng của nhân
dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Việt Nam.
Qua hơn 35 năm đổi mới nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành một động
lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang tạo ra những
11


nguồn lực mới cho việc tiếp tục tăng cường, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân trong giai đoạn mới. Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Dân chủ là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội” và “Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ
thực sự thuộc về nhân dân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của
cách mạng Việt Nam”.

2.3.

Những giải pháp thực tiễn cần được quan tâm của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.

Với mong muốn xây dựng, góp ý để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
ngày một tốt hơn, công bằng, văn minh hơn về liên hệ đến các việc làm qua:
Ở các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -xã hội
cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện hiệu quả quy chế
dân chủ cơ sở; đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các quy định về dân
chủ. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Thực hiện tốt việc cơng khai, minh
bạch các chính sách của Nhà nước, đẩy mạnh cơng tác cải cách hành chính,
thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” làm cho mọi
người dân cảm nhận được địa vị và quyền lợi về dân chủ một cách thực sự.
Phát huy vai trị của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đại đồn
kết tồn dân tộc, phải lấy việc phục vụ nhân dân là trên hết, giải quyết đúng
đắn, kịp thời những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân;
quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ để nhân dân thực sự chủ động trong phát triển
sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững.
Mỗi tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị phải thật sự là người đại diện
để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quá trình tham gia thực
hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Nâng cao trách nhiệm, tinh thần,
thái độ phục vụ nhân dân kết hợp với tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành
chính trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Kịp thời phát hiện và xử
lý nghiêm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có hành vi nhũng
nhiễu, tiêu cực. Kiên quyết thực hiện việc tinh giản biên chế, đưa ra khỏi bộ
máy Nhà nước những cán bộ, công chức, viên chức năng lực yếu, thiếu tinh
thần trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Lên tiếng đấu tranh với các thế lực thù địch đang hằng ngày chống phá, âm
mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường phản bác các thông
tin sai trái, bịa đặt, cảnh giác cao với những luận điệu, chiêu trò chống phá
bằng “diễn biến hịa bình”, lợi dụng các vấn đề về dân tộc, tôn giáo. Hơn hết
12



là xử lý rõ ràng, nghiêm khắc những hành động có động cơ lạm dụng quyền
tự do dân chủ. Qua các nơi đào tạo Giáo dục Quốc phòng cần biết đặt câu
hỏi hay tình huống để tạo cho mọi sinh viên hay học sinh về tự do ngôn luận.
2.4. Liên hệ bản thân với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Mỗi sinh viên cần nhận thức được ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
một quá trình,là sự khác biệt về bản chất so với các nền dân chủ khác, muốn có
nền dân chủ đó phải bằng sự tham gia, đóng góp tích cực của người dân – Nhân
dân là chủ thể của quyền lực. Khi đó bản thân đã hiểu rõ cần phê phán, lên án
quan điểm sai lầm về đồng nhất dân chủ với chỉ bản chất chính trị, chỉ có thể
chế đa nguyên đa đảng ở các nước tư bản, nếu hiểu sai về điều này thì các thế
lực bên ngồi u cầu chúng ta phải thực hiện đa nguyên đa đảng, ngụy biện
cho rằng chỉ có đa nguyên đa đảng mới thì mới có dân chủ. Qua đó, mỗi sinh
viên nâng cao nhận thức chính trị, tham gia vào nhiệm vụ bảo về Đảng và Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, mỗi sinh viên cần hiểu về lịch sử ở Việt Nam, dân tộc ta từng giao
phó sự mệnh cho các giai cấp, tầng lớp Đảng phái khác nhưng bản thân các giai
cấp, tầng lớp đó chưa thực hiện được sứ mệnh lịch sử được giao. Chính vì điều
đó khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nhờ đường lối đúng đắn ta vạch ra đã
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác vì vậy vai trị
lãnh đạo Đảng ta chính là xuất phát từ thực tiễn cũng từ chính yêu cầu khách
quan của cách mạng Việt Nam quy định.
Dân chủ ở nước ta được thực hiên thơng qua hình thức dân chủ trực tiếp và gián
tiếp. Vì vậy, mỗi sinh viên phải nghiên cứu, chọn lựa cẩn thận, bầu được các
đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân xứng đáng. Bầu cử Quốc hội khoá XV vào
ngày 23-5-2021, là sinh viên chúng ta đã đủ quyền công dân và thực hiện quyền
công dân qua việc đi bầu cử nhưng việc bầu cử không phải nhiên diễn ra mà
phải qua việc đấu tranh gian khổ, từ việc phải nằm xuống mới có ngày hơm nay.
Trước đây, đâu phải tồn quyền Đơng Dương do nhân dân bầu ra đó sự điều
khiển của bọn thực dân Pháp. Giờ đây, khi cầm lá phiếu bầu cử trên tay ,đây là

niềm tự hào của một công dân của một đất nước được tự do, độc lập như ngày
hôm nay. Ở mỗi sinh viên phải nghiên cứu các đại biểu đó, cần chọn lựa và bầu
ra người xứng đáng bởi vì những người đó họ là người đại diện cho trí tuệ, cho
tiếng nói của nhân dân. Khơng những họ có tài mà họ càng phải có đức, đặc biệt
là vì nhân dân.
Để cho nền dân chủ phát triển và mở rộng hơn mỗi sinh viên phải tích cực tham
gia đóng góp cơng việc của Nhà nước khi Nhà nước trưng cầu dân ý, xin Nhà
nước xin ý kiến đóng góp về các chương trình, dự án về các văn bản luật. Nhằm
giúp cho nền dân chủ ngày càng hoàn thiện và đúng đắn hơn.
Bản thân mỗi người dân hay chính sinh viên phải giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước. Chúng ta phải nắm được thông tin, cơ chế Nhà nước hiện tại
đối với nhân dân, đồng thời phát huy tình thần cao độ, trách nhiệm của cơng dân
đối với đất nước có độc lập, tự do mà bản thân mọi người phải phát hiện và
13


dũng cảm lên án những biểu hiện vi phạm pháp luật, tham ơ, tham nhũng, lãng
phí…‬‬‬‬‬‬‬‬Cần lên án, phê phán những tiêu cực hạn chế đó để giữ và xây dựng xã hội
trở nên trong sạch, văn minh.
Mỗi sinh viên tích cực giáo dục, nâng cao trình độ dân trí phải biết đóng góp
tích cực vào vai trị xây dựng nền dân chủ, có thể thơng qua nhiều con đường
nhằm góp phần nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật cho nhân dân, cho
mỗi người bởi vì khi họ hiểu được về pháp luật, chính sách để người dân thực
hiện tốt các quyền của mình qua việc tuyên truyền, phóng sự.

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
1. Tổng kết
Về mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội chủ nghĩa và nên dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một mối quan hệ không thể tách rời, tác động hỗ trợ và tạo ý nghĩa cho
sự tồn tại cho nhau. Dân chủ của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một phạm

trù lớn chúng ta chỉ có thể cố gắng tìm hiểu bao qt vấn đề chứ khơng nói kĩ
từng chi tiết được. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền
dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta cần một xã hội
vì người dân chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bốc lột, tham mưu, tham nhũng
chà đạp nhân cách của một con người. Là công dân của một đất nước xã hội chủ
nghĩa, bản thân mỗi người cần có trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hội
góp phần để xây dựng một xã hội đất nước cộng đồng văn minh hơn. Trên đây
là toàn bộ tiểu luận về đề tài mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
nên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng giải pháp cơ bản đẻ xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Kính mong cơ theo dõi và góp ý để bài
tiểu luận của nhóm chúng em được hồn thiện và rõ ràng hơn. Càm ơn cô và các
bạn đã lắng nghe.
2. Tài liệu và nguồn tham khảo
- Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
- />- />14


- />- />phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-nay.aspx
- />- />SUvaAKdUf4CG/content/dan-chu-la-ban-chat-cua-che-o-xa-hoi-chunghia
- />- />- />- />
15



×