Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận cuối kỳ Vai trò của các giáo sĩ thừa sai Paris trong kế hoạch xâm lược và bình định Việt Nam của thực dân Pháp từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.56 KB, 20 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

NGUYỄN THỊ KIM THOA
1582203130016

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
VAI TRÒ CỦA CÁC GIÁO SĨ THỪA SAI PARIS TRONG KẾ HOẠCH
XÂM LƯỢC VÀ BÌNH ĐỊNH VIỆT NAM CỦA THỰC DÂN PHÁP TỪ
THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX

Chuyên đề:
TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã ngành: 60220313
Lớp: CH15LS01

PGS.TS ĐỖ QUANG HƯNG

BÌNH DƯƠNG, THÁNG 7 NĂM 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

2



TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

MỤC LỤC

Contents

3


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

1.

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

Sự thành lập Hội thừa sai Paris – nơi đào tạo bài bản cho các giáo sĩ
thực hiện công cuộc truyền giáo gắn với nhiệm vụ chính trị

Truyền giáo là hoạt động đương nhiên của Thiên Chúa Giáo ngay từ khi tôn
giáo này mới ra đời. Những người tiên phong của hoạt động đó là Thánh Pierre,
Thánh Paul, và sau đó là các vị tông đồ của Jésus. Trải qua nhiều thế kỷ hoạt
động tích cực và nhiệt thành của các sứ đồ, dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, hy
sinh, đạo Thiên Chúa đã thành công rực rỡ. Và từ cuối thế kỷ IV trở đi, nó trở
thành một tôn giáo lớn mạnh nhất Châu Âu. Không những thế, từ đó Giáo hội

Thiên chúa còn là một thế lực chính trị mạnh nhất, bao trùm lên cả chính quền
phong kiến ở Châu Âu trong suốt 10 thế kỷ của thời trung cổ.
Từ cuối thế kỷ XV trở đi, đặc biệt là từ sau khi xảy ra sự kiện phát kiến địa lý
– tìm ra châu Mỹ, ở các nước phương Tây đã xuất hiện sự bùng nổ về truyền giáo,
Giáo hội La Mã và các quốc gia sớm phát triển ở Châu Âu đều cho thành lập
những giáo đoàn và liên tiếp cử các giáo sĩ Thừa sai đi sang các miền đất mới –
chủ yếu là Trung và Nam Mỹ, hay vùng đất Viễn Đông để truyền đạo.
Sự bùng nổ và truyền giáo đó, trước hết, thể hiện ý đồ của Giáo hội La Mã
muốn gây thế lực thần quyền cũng như thế quyền ở những vùng đất mới như là
một đối trọng đối với sự lấn lướt của thế lực tư bản Châu Âu.
Song nguyên nhân quan trọng nhất của hiện tượng này lại chính là nhu cầu
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu. Muốn thâm nhập vào những vùng đất
mới, chinh phụ thổ dân, phát hiện những tài nguyên phong phú,…giai cấp tư sản
thấy cần phải có một đội ngũ những người có tri thức về khoa học tự nhiên cũng
như về khoa học xã hội, lại ít gây ra sự hoài nghi và phản ứng của những người
bản xứ. Vào thời điểm ấy, những con người như thế chỉ có thể tìm thấy ở các giáo
sĩ được đào tạo có bài bản trong các nhà Dòng của Giáo hội. Thế là các nước
Châu Âu sớm phát triển như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp, …đua nhau thành
lập các giáo đoàn, tập hợp và đào tạo các thầy tu thành các giáo sĩ Thừa sai để
đáp ứng cho yêu cầu nói trên. Kinh phí, mục đích, yêu cầu đào tạo cũng như
nhiệm vụ cụ thể của các giáo đoàn đều do nhà nước hoặc các tổ chức tư nhân, chủ

4


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA


yếu là những nhà tư sản quyết định. Do đó bản chất của các giáo đoàn và sứ mạng
của các giáo sĩ Thừa sai đã thay đổi cơ bản về chất. Về mặt hình thức thì đây là
các tổ chức tôn giáo để các nhà truyền giáo thực hiện lời dạy của chúa Jesus, song
về thực chất, công cuộc truyền giáo lúc này đã mang một nội dung ý nghĩa khác
hẳn.
Giữa thế kỷ XVII, kinh tế của Pháp cũng đang ở vào thời kỳ chuyển hóa sang
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thế kỷ XVI và XVII ở Pháp đang thịnh hành chủ nghĩa
trọng thương. Chủ nghĩa này đề ra hai yêu cầu cho thương mại lúc bấy giờ: tăng
gia tiền bạc ở trong nước bằng cách mua ở ngoài càng ít càng tôt và tăng gia xuất
cảng công nghệ phẩm càng nhiều càng tốt. Chủ trương này đã được chính phủ
đương thời thừa nhận. Nó cũng dẫn đến việc tăng cường tìm kiếm thêm đất mới
để phục vụ cho chủ trương trê. Sự ổn định về chính trị và tôn giáo từ thời Henry
IV trở đi càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngoại thương và thuộc địa.
Giáo chủ Richelieu, Tể tướng của triều Louis XIII là người rất tích cực phát
triển thuộc địa và ngoại thương. Ông cho thành lập chừng 20 công ty lớn (từ năm
1626 đến 1661) và cho hưởng những đặc quyền rất lớn: đặc quyền thương mại và
được trợ cấp. Nhiệm vụ của các công ty này là tổ chức và sắp xếp các đất thực
dân, đưa đón các “cô lông” (người đi thực dân) và các giáo sĩ đến các thuộc địa.
Nhờ hoạt động của các công ty này, nước Pháp đã chiếm và xây dựng được một
hệ thống thuộc địa ở châu Mỹ, Phi và châu Á. Ở châu Mỹ, Pháp có thương điếm
Montréal, đảo Martinique, Grenade, Tobago. Ở châu Phi, Pháp lập thương điếm
Saint Louis. Công ty Đông Phương (thành lập năm 1642) chiếm đảo Bourbons,
Sainte Marie, hải cảng Dauphin.
Đồng thời với việc thành lập các công ty thương mại, chính phủ Pháp cũng
tích cực thành lập các Hội truyền giáo đối ngoại – Giáo đonà Franciscains và giáo
đoàn Sulpiciens được thành lập để truyền giáo và hoạt động ở châu Mỹ. Hôi thừa
sai Paris được thành lập năm 1663, dưới thời Colbert, nhằm hoạt động ở Viễn
Đông. Đằng sau mỗi giáo đoàn là quyền lực và quyền lợi của một quốc gia đang
ngày càng bị chi phối bởi giai cấp tư sản đang lớn mạnh, Hội thừa sai Paris do

giai cấp tư sản Pháp chi phối. Các giáo sĩ Thừa sai không còn là những người
truyền giáo thuần túy nữa, họ đã trở thành những người tuy mang danh nghĩa tôn

5


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

giáo, song thực chất lại là những phái viên của một quốc gia với nhiệm vụ phục
vụ cho lợi ích của quốc gia đó, cụ thể trong bản điều trần của Hội thừa sai Paris
gửi Chính phủ Pháp năm 1790 đã ghi: “Hội thừa sai Paris là tổ chức duy nhất của
Hội các thầy tu thế tục gồm toàn người Pháp (…), có sứ mạng đem ánh sáng của
Đức tin và phát huy ảnh hưởng của nước Pháp đến các nước phương Đông”, giáo
sĩ của Hội “không quyên lợi ích của nước mình…Họ đã và sẽ mãi mãi có nhiệu
vụ thông báo cho Nhà nước mọi phát kiến và tin tức cần thiết mà họ đạt được
bằng con đường khoa học, văn học, hoặc bằng con đường thương mại. Họ tạo
điều kiện cho việc buôn bán mà nước Pháp đã tiến hành ở các nước phương Đông
và chính họ đã đứng ra tổ chức Công ty Đông Ấn đầu tiền…” [Nguyễn Văn Kiệm
(2003); tr. 84].
Hội thừa sai Paris ra đời trong lúc nền kinh tế Pháp đang trên đà chuyển hóa
mạnh sang chủ nghĩa tư bản và cùng với sự chuyển hóa đó, chủ nghĩa thực dân tư
bản và cùng với sự chuyển hóa đó, chủ nghĩa thực dân Pháp đã bắt đầu hoạt động.
Sự ra đời của Hội trong hoàn cảnh ấy sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc
đẩy mạnh giai đoạn chuyển hóa mạnh sang tư bản chủ nghĩa của kinh tế Pháp.
Chính quyền và thương nhân Pháp tích cực hoạt động cho sự ra đời của Hội thừa
sai Paris cũng là lẽ đương nhiên, đáp ứng được kịp thời yêu cầu của lịch sử nước

Pháp lúc ấy xét về phương diện phát triển kinh tế. Hoàn cảnh lịch sử ấy có tác
dụng quyết định tới phương hướng hoạt động của Hội thừa sai Paris sau này. Cha
đẻ tinh thần của Hội thừa sai Paris là Alexandre de Rohodes. Ông là người truyền
đạo thành công nhất ở Việt Nam.
Có thể nói, sự ra đời của Hội thừa sai cho phép ta nhận định rằng đây là một tổ
chức truyền giáo do nha nước Pháp đứng ra tổ chức, bảo trợ. Hội này có nhiệm vụ
thông qua và kết hợp với truyền giáo để hỗ trợ cho công cuộc thực dân của Pháp
ở địa bàn hoạt động của hội.
2.

Mối quan hệ giữa Hội thừa sai Paris với Nhà nước Pháp – mối quan hệ
bất diệt giống như mối quan hệ giữa “cá” với “nước”.

Để trả lời cho câu hỏi “ Công giáo, cụ thể là Hội thừa sai Paris có liên quan
đến cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp hay không?” Chúng

6


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

ta cùng tìm hiểm mối quan hệ giữa Hội thừa sai Paris với Nhà nước Pháp sẽ
phần nào hé lộ được câu trả lời.
Về bản chất thì bất kỳ một tôn giáo nào cũng tốt cả, tôn giáo là cái thiêng
liêng, là nơi để con người gửi gắm niềm tin làm cho họ thấy cuộc sống tươi đẹp
hơn. Nhưng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp thì tôn

giáo, cụ thể là Công giáo đã đi sai hướng, sai nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của
nó. Các giáo sĩ của Hội thừa sai Paris đã câu kết chặt chẽ, thậm chí đóng vai trò
là kẻ chủ mưu, là đầu tàu dẫn đường cho Nhà nước Pháp tiến hành cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, mối quan hệ đó là mối quan hệ “cá” với “ nước”: Mọi
hoạt động của “cá” làm cho môi trường “nước” trở nên linh hoạt, sinh động
hơn, ngược lại nước chính là môi trường duy nhất để cá phát huy hiệu quả của
mọi hoạt động.
Trước hết, ai cũng thấy sự phát triển song song, trong lịch sử thuộc địa ở Châu
Âu, giữa hành động thuộc địa và hành động truyền giáo. Ở bất cứ đâu trong thế
giới Á Phi, sự truyền giáo đều được phát triển nhờ xâm chiếm thuộc địa, chiếm
đóng quân sự, cắt nhượng lãnh thổ, trấn áp chính trị. “…Giáo hội Thiên Chúa
công nhận rành mạch chính nguyên tắc của việc xâm chiếm thuộc địa. Xâm
chiếm thuộc địa là một “công trình giáo dục về kinh tế, xã hội, chính trị” , là
“thực hiện chức năng đem lại văn minh do luật thiên nhiên ban cho các quốc gia
tự do và có ý thức trách nhiệm”. Hồng y Verdirer nói rõ: xâm chiếm thuộc địa
“nằm trong chương trình của Thượng Đế, như một hành động bác ái tập thể mà
trong một thời điểm nào đó, một dân tộc thượng đẳng phải làm đối với các giống
dân xấu số như một bổn phận phát sinh từ chính văn hóa thượng đẳng của dân tộc
đó”. Nói một cách khác, các nhà đạo đức Thiên Chúa giáo tìm cách biện minh
cho một quyền thuộc địa ngay trong cả thời gian mà việc xâm chiếm thuộc địa bị
chỉ trích toàn bộ” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 9].
Từ đó, dựa vào nhau là đặc điểm thứ hai: nếu sự truyền giáo dựa vào đô hộ
của Âu Châu thì, ngược lại, sự đô hộ này, để được vững chắc, cũng phải tìm hậu
thuẫn về lý thuyết cũng như về thực hành nơi các thừa sai và nơi chính tôn giáo
mới.

7


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT


HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

+ Trên lý thuyết, tôn giáo mới tạo tính chính đáng cho hành động thuộc địa.
Từ thế kỷ XV, giáo hoàng đã đặt ra nghĩa vụ cho các nước Thiên Chúa giáo phải
chinh phục để cải đạo. Trong giáo chỉ của Bồ Đào Nha do giáo hoàng Alexandre
VI ban hành ngày 4/5/1493 thì đất đai là thuộc về Chúa và đại diện của Chúa có
quyền sử dụng tất cả những đất đai nào không thuộc tín đồ của mình, bởi vì
những kẻ dị giáo và phản giáo không có một quyền chiếm hữu chính đáng nào
trên bất cữ mảnh đất nào. Do đó, việc ban cấp đất đai do những kẻ đó chiếm hữu
mặc nhiên bao hàm nghĩa vụ làm họ thần phục, làm họ cải đạ, tự nguyện hay ép
buộc, và như vậy là vì phúc lợi tối cao của họ. Và trong Hiến chương mà nữ
hoàng Elisabeth nước Anh ban hành năm 1660 cho một công ty thuộc địa buộc
công ty này phải “tôn trọng những bổn phận cao hơn là nghĩa vụ thương mại”:
Bổn phận cải giáo”[Cao Huy Thuần (2003); tr. 10].
Đến giai đoạn bành trướng thuộc địa vào thế kỷ XIX tách rời chính trị và tôn
giáo trên lý thuyết. Nguyên nhân chủ yếu là kinh tế - thị trường làm cho kỹ nghệ
đang mở mang – hoặc chính trị: không để cho một nước Âu châu khá nhanh chân
chiếm trước. Tuy vậy, nước nào cũng có nhu cầu tìm cho ra một lý do để biện
minh và tạo tính minh bạch cho hành động thuộc địa. Và bởi vì văn hóa Châu Âu
là Thiên Chúa Giao, lý thuyết đó chỉ có thể lấy hứng từ đó mà thôi. “Họ bảo:
chinh phục các nước xa xôi là để mang ánh sáng của đạo Chúa, mang văn minh
Thiên Chúa đến cho các giống dân sống trong bóng tối của những tín ngưỡng
man di” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 10].
+ Về thực tiễn, đạo Chúa, theo các lý thuyết gia Thiên Chúa và các viên chức
thuộc địa cao cấp, tạo sự gần gũi giữa các dân tộc bản xứ và các nước Âu châu:
đó là dây liên kết giữa các xã hội bản xứ và xã hội Tây phương. Giám mục
Guébriant làm sáng tỏ điểm này: “Khi môt người bản xứ thuộc bất cứ chủng tộc

gì, vàng, nâu hoặc đen, cải thành đạo Chúa thì dù cho người đó đã nghĩ sai như
thế nào, đã có thành kiến gì, đã sợ hãi gì, đã ghét bỏ gì, chắc chắn trong đầu
người đó không còn một trở ngại gì nữa để gần gũi, hợp tác, hòa lẫn với những
người theo đạo Chúa trong những chủng tộc khác, nhất là với người da trắng và
sẽ hiểu sai họ tận đáy lòng, nếu đừng có chuyện gì xảy ra khiến người đó chướng
mắt, thất vọng. Làm gần gũi trí óc và tình cảm là kết quả của việc cải giáo, và cải
giáo là tận cùng của công sức thừa sai. Công việc của dân tộc có thuộc địa, đứng
8


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

về mặt chính đáng mà xét, sẽ được vô cùng dễ dãi. Công việc đó dễ dãi, dù cho số
dân đã được cải đạo hãy còn rất ít, bởi vì số lượng ít ỏi không phải là cản trở
không thể vượt qua đối với vai trò làm gạch nối….trong cuốn “Về việc khai thác
thuộc địa đối với những dân tộc tiên tiến” , được xem như tứ thư ngũ kinh của
thuộc địa gia: “Nếu nước Pháp phạm một sai lầm khi khai chiến với Hồi giáo thì
nước Pháp cũng sẽ không biết phòng xa gì hơn nếu không tìm cách cải đạo cho
các dân tộc trong tất cả các nước đang chiếm đóng” [Cao Huy Thuần (2003); tr.
13].
Thứ ba, vẫn trên thực tiễn, đạo Chúa là phương tiện hiệu quả nhất để đồng
hóa những dân tộc bị trị. Đồng hóa là chính sách cổ truyền của Pháp, nói chung là
chính sách cổ truyền, thân thuộc, của các nước Latinh. Toàn quyền Pasquier giải
thích: Quả thật người Pháp dễ dàng trong việc tiếp xúc với người bản xứ, đến với
người đó, vui vẻ với người đó. Sự dễ dàng đó có gốc rẽ từ sức mạnh đồng hóa,
hoặc bẩm sinh, hoặc do lý giải, khiến người Pháp tự mình đến gần người bản xứ,

không phải để bắt gặp hay hiểu biết tư tưởng của người đó, mà để áp đặt tư tưởng
của mình trên người đó. Lý tưởng đồng hóa đó đã ngự trị lâu đời trên lịch sử, trên
đời sống chính trị của nước Pháp. Theo lời của giám mục Bruno de Soluges, là
khuynh hướng tự nhiên của một nhà giáo dục nhân từ, tin chắc nơi phương pháp
tuyệt diệu đã đào tạo nên mình, muốn áp dụng cho học trò của mình để họ cũng
thành ra chính mình. Bởi vậy, dù cho đồng hóa là chính sách cai trị thuộc địa, thật
bất công nếu người ta không xem đó như cũng có một giá trị tâm linh. [Cao Huy
Thuần (2003); tr. 15].
Thứ tư, các ý tưởng của các giáo sĩ thừa sai có ảnh hưởng đến chính sách
thuộc địa của thực dân Pháp. Bằng sự tuyên truyền khéo léo và mạnh mẽ, các
giáo sĩ thừa sai đã làm cho dư luận ở Pháp cũng như ở thuộc địa tranh chấp nhận
rộng rãi rằng:
+ Bắc kỳ và Trung kỳ là đất đai của hai giống dân rất khác nhau, thù ghét
nhau, và dân Bắc kỳ thích sự đô hộ của ngoại bang hơn là của triều đình Huế.
+ Nho sĩ và quan lại là những kẻ thù không đội trời chung của Pháp; quan lại
là một loại quí tộc khác biệt với dân chúng và bị dân chúng ghét, đến nỗi dân
chúng sẵn sàng phục vụ cho bất cứ ai đến dẹp bỏ giúp họ những quan lại đó.
9


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

+ Vua An Nam có uy quyền độc tôn, vì thế phải cùng với ông ta mà cai trị, và
còn phải dùng ông ta để hủy diệt các quan lại.
+ Triều đình Huế không đứng ngoài tình trạng rối loạn ở Bắc kỳ, vì thế phải
nắm chắc họ trong tay để ngăn cản không cho họ điều khiển từ xa các hoạt động

chống Pháp.
Như vậy, chính phủ thuộc địa bị định hướng ngay từ đầu, rồi bị giữ mãi như
vậy một cách có ý thức hoặc không – bởi ảnh hưởng của Gia Tô giáo trên con
đường trước tiên là đồng hóa, rồi sau đó là thống trị.
3.

Các hoạt động của các giáo sĩ Thừa sai –đòn bẩy thúc đẩy cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam

Vào những năm trước khi Pegneau de Béhaine đến Việt Nam, các giáo sĩ Hội
thừa sai Paris đã đống góp tích cực vào việc môi giới cho thương nhân Pháp và
cung cấp cho âm mưu thực dân của Pháp nhiều thông tin quan trọng. Đó là những
việc làm của Đại diện Tông tòa Lambert, Pallu và các giáo sĩ Thứa sai Bourges,
Deydier…
De Lamotte Lambert, sau khi nhận chức Đại diện Tông tòa, do sự phong toản
của người Bồ nên không có phương tiện sang phương Đông, đã phải đi bộ và đến
Thái Lan năm 1661; và năm 1669 đến Việt Nam trên một chiếc tàu buôn của Pháp
cùng với giáo sĩ Bourges. Lambert cùng với thương nhân Pháp đã đưa tặng vật
phẩm cho vua Lê ở Đàng Ngoài và được nhà vua cho phép họ được mua đất để
mở cửa hàng. Sau đó, Lambert vào Đàng Trong hoạt động một thời gian rồi về
Thái Lan. Từ đây, Lambert vẫn thường xuyên gửi thư và tặng phẩm cho chúa
Nguyễn. Năm 1679, Lambert chết ở Thái Lan, để lại cuốn sách Monito ad
misionnarios và nhiều tập hồi ký chứa đựng rất nhiều tài liệu quý giá cho thương
nhân và thực dân Pháp về tình hình Việt Nam.
Pallu đến Thái Lan năm 1664. Năm 1674, ông định đi kinh lý các giáo phận ở
Đàng Ngoài song không thành vì bị bão lớn phải dạt sang Philippines. Năm 1681,
sau khi được cử giữ chức Giám mục tổng toàn Trung Quốc, Pallu đã cử hai giáo
sĩ Gefrard và Lefebre đem tặng vật và thư của vua Louis XIV đến vua Lê ở Đàng
Ngoài xin cho Công ty Ấn Độ của Pháp được phép lập thương điếm ở Bắc Kỳ và
10



TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

cho phép 2 giáo sĩ Bourges và Deydier được đến truyền đạo, cho phép dân chúng
bản xứ được theo đạo và mong mỏi nhà vua cải giáo. Nhờ đó sau này 2 giáo sĩ
này đã được phép vào truyền giáo ở Việt Nam. Từ Viễn Đông, Pallu thường
xuyên viết thư về cho vua Louis XIV, Ban lãnh đạo công ty Đông Ấn và thủ
tướng Colbert, cung cấp cho họ những tài liệu cụ thể về khả năng thương mại với
Đàng Ngoài và thúc giục họ phải có hành động gấp.
Mối quan hệ mật thiết giữa các giáo sĩ Thừa sai Pháp với Công ty Đông Ấn
xung quanh việc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam đã dẫn tới một chương trình
hành động quy mô lớn mà Pigeau de Béhaine là người thực thi.
Năm 1766, Pigeau de Béhaine cùng với 4 giáo sĩ Thừa sai khác được cử sang
truyền giáo ở Đàng Trong. Pigeau de Béhaine đã có dịp nghiên cứu kỹ những kế
hoạch xâm lược Đàng Trong của Công ty Đông Ấn và ông thấy rằng có thể thông
qua việc truyền giáo, nhất là cải giáo được người có cương vị sẽ thừa kế vương
quyền ở Việt Nam thì có thể chinh phục được nước này một cách êm thấm. Do
đó, ông đã tìm cách bắt liên lạc với người trong dòng họ chúa Nguyễn và với sự
nỗ lực của mình, cộng với sự giúp đỡ của giáo dân, Pigeau de Béhaine cứu được
Nguyễn Ánh trong một trận bao vây của quân Tây sơn tại trấn Hà Tiên. Mối quan
hệ gắn bó giữa Pigeau de Béhaine với Nguyễn Ánh bắt đầu từ đây.
Nguyện vọng của Pigeau de Béhaine là sự cải giáo của Nguyễn Ánh song song
với việc cải giáo hàng loạt của dân chúng Việt Nam. Để thực hiện ý đồ đó, Pigeau
de Béhaine đã yêu cầu Nguyễn Ánh tha cấm đạo; mặt khác, ông ta tuyên bố cho
các con chiên được phép thờ cúng tổ tiên theo phong tục Việt Nam để đẩy mạnh

việc cải giáo. Việc này không thành, vì Tòa Thánh La Mã phản đối kịch liệt.
Từ năm 1843 đến năm 1857, theo yêu cầu của các giáo sĩ, các tàu chiến Pháp
đã 6 lần đến Cảng Đà Nẵng yêu sách nhà Nguyễn: đòi thả các giáo sĩ, đòi được
quyền tự do truyền đạo và tự do buôn bán với một thái độ hết sức ngạo mạn và
khiêu khích trắng trợn, gây nên sự căng thẳng cao độ giữa hai Nhà nước Pháp và
Việt Nam.
Trong quá trình xâm lược và bình định Việt Nam, ở đâu thực dân Pháp cũng
nhận được sự giúp đỡ tận tình của các giáo sĩ của Hội thừa sai Paris.

11


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

Khi quân Pháp kéo đến Gia Định, Giám mục Lefebre đã từ làng Tam Hội lén
ra gặp Rigault de Genouilly để thông báo tường tận với hắn về sự bố phòng, quân
số, vũ khí và mọi tình hình của thành Gia Định và hướng dẫn Pháp đánh thành.
Ông huy động giáo dân tiếp tế cho quân Pháp, vận động giáo dân đi lính. Ví dụ
“Lefebre cùng với các giáo sĩ ở Nam Kỳ cũng tích cực giúp đỡ Pháp đào tạo lớp
thông dịch viên đầu tiên để phục vụ cho chính quyền Pháp mới được thành lập.
Có giáo sĩ Pháp còn trực tiếp tham gia bộ máy chính quyền như Le Grand de la
Lyraye đã làm Thanh tra dân vụ trong bộ máy chính quyền phôi thai của Pháp ở
Nam Kỳ [Nguyễn Văn Kiệm (2003); tr. 95,96].
Trong quá trình truyền đạo, các giáo sĩ Hội thừa sai cùng với các linh mục bản
xứ, các nữ tu, ngay cả trong thời kỳ cấm đạo khó khăn, vẫn không quên làm việc
thiện, một công việc vừa có ý nghĩa tâm linh, vừa có ý nghĩa xã hội, đồng thời

cũng qua đó, mối quan hệ giữa giáo và lương trở nên tốt đẹp hơn. Trong cuộc từ
thiện này, các nữ tu, nhất là các nữ tu của Dòng Chị em Mến Thánh giá đã đóng
vai trò hết sức quan trọng và có hiệu quả. Giáo hội Công giáo rất quan tâm đến số
phận của các trẻ nhỏ ốm đau, bệnh tật, mồ côi, những người bệnh hiểm nghèo,
bệnh hủi, bị gia đình xa lánh, cụ thể:
-

-

-

Năm 1877 đến năm 1902, chỉ riêng các nữ tu Mến Thánh giá ở nhà mụ Cái
Mông (Nam Kỳ) đã rửa tội cho 8.535 trẻ nhỏ chết yểu. Những đứa trẻ sống
sót được giao cho các gia đình Công giáo nhận làm con nuôi hoặc đưa vào
trại cô nhi.
Năm 1864, ở Giáo phận Bắc Kỳ đã lập trại cô nhi và nhận nuôi 60 trẻ. Năm
1865, Bắc Kỳ bị dịch tả và nạn đói, cô nhi viện nhận ngày càng nhiều trẻ
em hơn.
Từ năm 1884 trở đi, nhà thương hủi được thành lập ở nhiều giáo phận
trong cả nước, do các nữ tu chăm sóc.
Song song với việc chăm sóc những người bị bệnh hiểm nghèo, nhà thờ
Công Giáo còn quan tâm tới việc áp dụng thành tựu và kiến thức y học
phương Tây để cứu giúp dân chúng.

Chính những việc làm từ thiện đã góp phần che giấu đi những hành động xấu
xa đen tối của các giáo sĩ thừa sai, đây cũng chính là biện pháp hữu hiệu nhất để
lôi kéo dân xứ An Nam giao nhập đạo Gia Tô. Vì thế, trong xã hội Việt Nam vẫn
12



TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

lưu truyền câu “đi đạo lấy gạo mà ăn”. Rõ ràng dân chúng theo đạo chỉ để có cái
ăn, cái để sinh tồn, chứ họ vẫn chưa ý thức được nguồn gốc sâu xa của vấn đề. Đó
chính là lý do mà các giáo sĩ thừa sai hướng mục tiêu truyền đạo vào quần chúng
nhân dân.
4.

Thay cho lời kết: Nhận xét về vai trò của các giáo sĩ thừa trong kế
hoạch xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp

Qua những phần trình bày trên ta có thể kết luận: các giáo sĩ của Hội thừa sai
Paris chính là những người đưa ra chủ đích xâm lược Việt Nam, các giáo sĩ này
đã vẽ sẵn đường ray xe lửa tại Việt Nam, Nhà nước Pháp chỉ việc mang tàu hỏa
sang chạy trên đường ray đấy, đón khách và thu tiền.
Trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ có điều kiện để dễ dàng len lỏi vào
khắp nơi trên đất nước ta tìm hiểu địa lý, tài nguyên, phong tục và khả năng kinh
tế của “xứ An Nam” để giới thiệu với Nhà nước Pháp và thuyết phục họ xâm
lược Việt Nam, điều này được thể hiện rõ qua lời thỉnh cầu của Linh mục Huc,
Giám mục Pellerin và Linh mục Legrand de Liraye, cụ thể:
1.

Linh mục Húc

Trong văn thư gửi lên Hoàng Đế năm 1857, linh mục Huc trình bày các mối
lợi mà việc chiếm Việt Nam có thể mang lại cho Pháp.

-

-

-

2.

Về chiến lược: “Đà Nẵng nằm trong tay người Pháp sẽ là một hải cảng
không ai tấn công nổi và là cứ điểm quan trọng nhất để chế ngự Bắc Á”
[Cao Huy Thuần (2014); tr. 38].
Về kinh tế: “Lãnh thổ Cochinchine mầu mỡ có thể trồng trọt mọi sản phẩm
thuộc địa. Các sản phẩm chính và phương tiện đổi hiện có là đường, gạo,
gỗ xây dựng, ngà voi,…; sau hết là vàng và bạc mà các mỏ rất phong phú
đã được khai thác từ lâu” [Cao Huy Thuần (2014); tr. 38].
Về tôn giáo: “Dân chúng hiền hòa, cần mẫn, rất dễ dãi đối với việc truyền
bá đức tin Gia Tô…Chỉ cần một ít thời gian là có thể cải hóa toàn bộ thành
tín đồ Gia Tô và con dân trung thành với Pháp” [Cao Huy Thuần (2014); tr.
38].
Giám mục Pellerin

13


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA


Năm 1857, Giám mục Pellerin viết thư gửi Napoléon và thỉnh cầu: “Xin
Hoàng thượng cho phép hạ thần nhắc lại một lần nữa về những người mới cải đạo
khốn khổ ở xứ Cochinchine và các thừa sai Pháp ở nước An Nam; hiện giờ máu
họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ khi có cuộc vận động sau chót
của nước Pháp. Nếu bây giờ chẳng ai làm gì cả cho chúng tôi, e rằng Gia Tô giáo
sẽ bị tiêu diệt tại các vùng đất có vẻ rất sẵn sàng đón nhận ân đức của tôn giáo
này và của văn minh,….Chúng tôi kính xin Hoàng thượng đừng bỏ rơi chúng tôi.
Điều mà Hoàng thượng ban cho chúng tôi sẽ khiến cho ân phúc của Thiên Chúa
ban xuống cho Hoàng thượng và triều đại huy hoàng của Hoàng thượng…” [Cao
Huy Thuần (2014); tr. 41].
3.

Linh mục Legrand de Liraye

-

Về chính trị và chiến lược

Theo linh mục Legrand, “Xứ An Nam” có vị trí chiến lược vô cùng quan
trọng: “Trong hiện tình, khi Anh chiếm trọn Ấn Độ đến tận Singapour và chuẩn bị
xiết chặt hơn nữa Trung Quốc, cần cắt đứt sự giao thông giữa các thuộc địa của
họ, rồi cùng với Tây Ban Nha ở Phi Luật Tân, Hà Lan ở Java và Sumatra dựng
lên một chứng ngại nào đó, một điểm trọng tài cho người thu trận nếu muốn nói
thế, một điểm giám sát đối với kẻ thắng trận quá tham lam, một điểm nương thân
và trú ẩn cho tàu bè của chúng ta hình như đang lang thang phiêu bạt khắp vùng
Viễn Đông này, và cuối cùng là một điểm tiếp tế và thương mại cho những người
trung gian buôn bán gia vị của chúng ta vốn chỉ được các lá cờ nước ngoài bảo
đảm và che chở nơi vùng đất quá xa Tổ quốc này”. [Cao Huy Thuần (2014); tr.
42].
-


-

Về Kinh tế:Xứ này là vùng đất giàu có về đất đai, tài nguyên của xứ ấy “sẽ
khiến nước Pháp yêu thích vùng đất đẹp nhất và quý nhất này so với các thuộc
địa cũ và mới của Pháp” [Cao Huy Thuần (2014); tr. 42].
Khả năng xâm chiếm: Ông đã đưa ra những lý do mà xứ An Nam này sẵn sàng
rơi vào tay Pháp như sau:
Một là, dân chúng luôn luôn trung thành với nhà Lê bị truất ngôi “bởi các
biến cố lớn của thế kỷ trước”; họ đau khổ dưới chính phủ hiện thời, “một

14


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

chính phủ tàn bạo, bất công, lừa dối và đầy cưỡng đoạt khiến cho đất nước
này ngày càng thêm đau khổ và vì thế đang cựa mình và sẵn sàng nổi dậy”.
[Cao Huy Thuần (2014); tr. 43].
Hai là, quân binh “run sợ và chán nản trong hầu hết các tỉnh miền Bắc”; và
quân đội này vừa mới chứng tỏ sự bất lực qua việc cầu hòa với những người
Trung Quốc nổi loạn và cướp phá ở vùng đó thay vì phải đánh tan. [Cao Huy
Thuần (2014); tr. 43].
Ba là, ở phía Nam, nơi có 2 dân tộc thiểu số đang sống nhục nhã: đó là
người Chăm (trước kia gọi là người Chàm) bị đẩy lùi về tình trạng bộ lạc ở
tỉnh Bình Thuận, và người Cam Bốt “bị buộc phải nhượng cho kẻ chiến

thắng tất cả các cửa sông và các vùng phù sa mênh mông của con sông lớn
được tạm dùng làm biên giới” [Cao Huy Thuần (2014); tr. 43].
Bốn là, Vua không có con nối dõi sau mười hay mười lăm năm kết hôn,
“đang đắm chìm trong những khoái lạc sa đọa nhất, chỉ biết sống giữa hơn
năm nghìn cung phi mà ông chỉ vui thú lúc tắm hoặc lúc đóng tuồng với họ”.
Còn quan lại, “họ chia làm hai phe để giành giật chức vụ và thu nạp bộ hạ;
họ tạo nên đầy rẫy những kẻ tham lam, ăn của đút và gian ác, tại các tỉnh bọn
này lấy sự đau khổ của dân chúng làm vui và đàn áp họ”. [Cao Huy Thuần
(2014); tr. 43].
Ông động viên, vận động Nhà nước Pháp “Hãy yên tâm! “Hải quân An Nam
có thể nói là không còn nữa từ sau vụ Đà Nẵng năm 1847: đã có lệnh không đóng
thuyền theo kiểu Âu châu nữa, còn ghe trong nước thì thiếu vũ trang và thiết bị”.
Vậy không có gì phải sợ về mặt thủy chiến. Trên bộ ư? “Quân đội thiếu tổ chức
và khí giới: quân đội đó có tính dân sự hơn là quân đội, họ không biết dùng đại
bác và súng chỉ có một số rất hiếm là có khả năng sử dụng”. Quân đội có khoảng
60.000 hay 70.000 người cho toàn xứ, không thể tập hợp tại một địa điểm quá số
10.000 hay 15.000 tinh binh, mà “theo ý tôi, kỹ thuật chiến ddaaus và lòng can
đảm không thể chống nổi một trung đoàn Pháp”. “Thành lũy bị hư nát, chỉ còn
các lũy tre bao bọc thành phố và làng mạc là còn đáng ngại đôi chút, nhưng với
các chất liệu dễ cháy đó, không có gì khó khăn cho việc chiến thắng, vả lại tôi
không tin rằng dân tộc đó có đủ can đảm, để quyết tâm chiến đấu sau thành lũy
này” .

15


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN


NGUYỄN THỊ KIM THOA

“Trái đã quá chín rồi, không thể không rụng; lạy Chúa đừng có để nó rơi
vào tay người Anh ! Mọi người, dân chúng và chính quyền, “tôi nói, mọi
người mong thấy nước Pháp cắm cờ Pháp trên các bờ biển này”.[Cao Huy
Thuần (2003); tr.43, 44].
-

Kế hoạch xâm chiếm

Về kế hoạch xâm lăng, linh mục Legrand de Liraye đề nghị môt cuộc tấn công
ngoại giao được tiếp nối bằng một can thiệp vũ trang trong trường hợp hợp thất
bại:
“Về ngoại giao, trước hết, hãy dâng một tặng phẩm cho Vua đó là lệ thường
của xứ này, kế đến trình tại Đà Nẵng hoặc tại cửa sông dẫn vào Kinh đô một bức
thư nói về tự do thương mại, về những sỉ nhục mà nước này đã gây cho Pháp,
những bất công đối với người Pháp khi tàn phá việc buôn bán của họ, khi xử tử
các thừa sai Gia Tô giáo, khi kết tội những người Gia Tô là thủ phạm của những
khuyến cáo đúng đắn và ôn hòa mà nước này đã phạm trước mắt toàn thế giới khi
đoạn tuyệt một cách vô liêm sỉ với một nước đồng minh sau khi đã tiếp nhận biết
bao giúp đỡ về người và tiền bạc. Để kết luận, ta đòi:
+ Quyền đại diện bằng một đoàn sĩ quan tại nhiều điểm (Phú Quốc, Cam
Ranh, Đà Nẵng, Cửa Cấm) để đảm bảo tự do lưu thông, tự do buôn bán tại
các cảng lớn trong nước, tự do tôn giáo cho mọi tín đồ Gia Tô và quyền cư
trú cho các thừa sai như dưới thời Gia Long.
+ Chiếm giữa vĩnh viễn Đà Nẵng và các đảo phụ cận, Hội An ở phía Nam
và Hải Vân, Cù Lao Chàm ở phía Bắc để làm điểm trú ẩn, tiếp liệu và kho
tàng.
+ Cuối cùng, một liên minh phòng thủ và tấn công.
Trong hai điều, sẽ có một , hoặc Vua chấp nhận yêu cầu của Pháp hoặc Vua

tức giận và từ chối. Trong trường hợp đầu, Pháp sẽ lập nền bảo hộ, sẽ đối xử đàng
hoàng với Vua và giữ Vua ở lại ngôi cùng các đặc quyền “với các điều kiện hợp
lý”. Nhưng theo tôi “chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh đối
với nước ấy. Phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp Bắc
kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải

16


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

phóng hai dân tộc chiến bại ở Nam kỳ và đặt lên ngôi ở Bắc kỳ một kẻ tự xưng là
con cháu nhà Lê” [Cao Huy Thuần (2003); tr. 44,45].
Trong cuốn“Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam
(1857-1914) của Giáo sư Cao Huy Thuần đã góp phần chứng minh cho luận
điểm các giáo sĩ thừa sai chính là những người đề ra kế hoạch xâm lược Việt
Nam, tuy nhiên do họ không có sức mạnh quân đội, tiềm lực kinh tế,…nên họ đã
xúi dục Nhà nước Pháp thực hiện ý đồ của mình, tại trang 393, tác giả đã ghi
“Lịch sử về vai trò của thừa sai người Pháp trong quá trình chiếm hữu thuộc địa
ở Việt Nam sẽ không đầy đủ nếu chúng ta quên không nhắc đến sự tranh giành
ảnh hưởng giữa thừa sai Pháp và thừa sai Tây Ban Nha. Thư sau đây, của Roche
gửi cho Harmand, ngày 6 tháng 7 năm 1885, sẽ giải thích vấn đề này:
“Tôi hân hạnh lưu ý ngài về một vấn đề, mà theo tôi, có tầm quan trọng to lớn
cho việc chiếm đóng Bắc kỳ của chúng ta, tôi muốn nói đến các phái bộ truyền
giáo”.
“…Các phái bộ truyền giáo ở Bắc kỳ, ở Nam kỳ và nói chung ở mọi vùng đất hải

ngoại của chúng ta… không tạo nên các xã hội riêng biệt vì tất cả đều xuất phát
từ một ngôi nhà chính ở Paris; kế đến, chỉ cần biết những gì các phái bộ ấy đã làm
không ngừng từ hơn hai thế kỷ nay, ở An nam cũng như ở mọi nơi khác, để thừa
nhận rằng các phần tử đi chiếm thuộc địa đã tìm thấy nơi những giáo sĩ thừa sai
của chúng ta những người phụ tá có thế lực và trung thành”.
“Về điểm này, những thừa sai của chúng ta (chứ không phải những thừa sai Tây
Ban Nha, ở đoạn sau tôi sẽ nói tại sao), đã thực sự đóng tại các nơi đó một vai trò
giáo sĩ thế tục, và chỉ có cái áo trùm là làm họ giống với hội viên của các hiệp hội
trước đây bị trục xuất khỏi nước Pháp”...
“Với Phái bộ Tây Ban Nha thì không thế, không những chỉ đối với Chính phủ
Pháp, mà còn đối với cả Chính phủ Tây Ban Nha nữa, bởi một lý do giản dị là các
giáo sĩ Tây Ban Nha đó thuộc Dòng Đa Minh ở Manila, có trụ sở ở Rô- ma và
lãnh tụ là Giáo hoàng”.
…..

17


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

“Thế đấy! Tôi không nghĩ là thái quá khi nói: “Cái này phải giết chết cái kia.””
Ngoài nhiệm vụ truyền giáo, các giáo sĩ Hội thừa sai Paris còn tham mưu vào
chính trị rất sâu sắc cho chính phủ Pháp:Paul Francois Puginier “hoạt động
hăng hái, tích cực, đưa số giáo dân ở địa phận Tây Bắc kỳ lên gần gấp đôi, củng
cố vững chắc Giáo hội ở đây về tất cả mọi phương diện, khiến cho địa phận này
trở thành một giáo phận mẫu mực ở nước ta với 220.000 giáo dân vùng với một

số công trình văn hóa, xã hội đáng kể như Trại cô nhi, Nhà thương hủi, trường
học tiếng Pháp, xưởng in và hai công trình kiến trúc lớn là Nhà thờ Kẻ Sở và nhà
thờ lớn Hà Nội” [Nguyễn Văn Kiệm (2003);tr. 43]. Ngoài nhiệm vụ của giám
mục, Puginier còn tích cực tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế khiến cho
ông trở thành một giám mục có uy tín nhất ở Bắc kỳ lúc bấy giờ bởi sự hiểu biết
sâu rộng về tình hình mọi mặt của xứ này.
Như vậy, đây cũng là một luận điểm chứng minh các giáo sĩ thừa sai là người
quyết định tất cả mọi sách lược trong cuộc xâm lược và bình định ở Việt Nam,
chính các giáo sĩ thừa sai Pháp là những người tích cực nhất trong việc vận động
chính phủ Pháp can thiệp vào Việt Nam cũng như tạo cớ cho cuộc xâm lược Việt
Nam. Một lần nữa, tôi xin khẳng định rằng chính các giáo sĩ thừa sai là người
đưa chủ đích xâm lược Việt Nam- các giáo sĩ trong Hội thừa sai Paris chính là
những cố vấn đắc lực nhất cho Nhà nước Pháp trong cuộc xâm chiếm và bình
định Việt Nam.
Tuy nhiên, với nhận định của tôi sẽ có rất nhiều người đặt lại vấn đề: Hội
thừa sai Paris do Chính phủ Pháp thành lập với mục đích chính là “cải đạo” để
phục vụ cho cuộc cuộc xâm chiếm thuộc địa. Vậy thì, chủ đích xâm lược Việt
Nam là do chính phủ Pháp khởi xướng mới đúng.
Với khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi cũng xin trình bày ý kiến của
mình về vấn đề này như sau: Theo bài giảng của PGS.TS Lê Hữu Phước thì
thực dân Pháp rất chú trọng đến việc nghiên cứu địa hình đất đai, thổ nhưỡng
của nước thuộc địa, điển hình ở Việt Nam trong thời gian Pháp cai trị, chúng đã
cho thống kê độ dài, độ sâu của từng con kênh, con rạch, từng loại đất,… ở khắp
nơi trên đất nước ta. Và khoảng cách địa lý từ Pháp đến Việt Nam là rất xa, nhà
nước Pháp chỉ nghe nói về “xứ An Nam” chứ không thể hiểu rõ được đặc điểm tự
18


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT


HV CAO HỌC LSVN

NGUYỄN THỊ KIM THOA

nhiên, kinh tế, xã hội của nước ta lúc bấy giờ, nên nhà nước Pháp không thể có
được chủ trương thôn tính “An Nam” tại thời điểm đó. Điển hình, Napoleon III
không có động thái gì về chính trị khi các giáo sĩ thừa sai gửi thư về. Mãi cho
đến khi lời thỉnh cầu của Linh mục Huc, Giám Mục Pellerin và luận cương của
linh mục Legrand de la Liraye thì chính phủ Pháp mới có hành động. Rõ ràng
trước khi các vị giáo sĩ này trình bày kỹ càng về “xứ An Nam” thì Chính Phủ
Pháp không hề có ý định xâm lược Việt Nam. Điều này, chứng tỏ rằng các giáo sĩ
Hội thừa sai Paris chính là kẻ chủ mưu và đề ra kế hoạch xâm lược và bình định
Việt Nam, chính phủ Pháp chỉ là người thực hiện những kế hoạch đấy bằng sức
mạnh quân đội, bằng sức mạnh kinh tế. Đây chính là đặc điểm khác biệt của các
giáo sĩ Hội thừa sai Paris ở Việt Nam với các giáo sĩ Hội thừa sai Paris ở các
thuộc địa khác của Pháp. Điểm khác duy nhất ở chổ: trong trường hợp xâm
chiếm và bình định Việt Nam thì các giáo sĩ Hội thừa sai Paris là người quyết
định, là kẻ chủ mưu, là cố vấn, chính phủ Pháp là người nhận lệnh và thi hành
lệnh; những lời thỉnh cầu của linh mục, chờ đợi quyết định của nhà Nước Pháp
chỉ thể hiện sự phụ thuộc vào sức mạnh quân đội, tiềm lực kinh tế của Hội thừa
sai đối với nhà nước Pháp; trong khi đó quy luật truyền thống là nhà nước Pháp
là người quyết định, các giáo sĩ Hội thừa sai Paris là người nhận lệnh và thi
hành kết hợp với sự hỗ trợ của quân đội Pháp.

19


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

HV CAO HỌC LSVN


NGUYỄN THỊ KIM THOA

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

CAO HUY THUẦN (2014), “Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của
Pháp tại Việt Nam”, Nxb Hồng Đức.
Nguyễn Văn Kiệm (2003), “Góp phần tìm hiểu một số vấn đề Lịch sử cận
đại Việt Nam, Nxb Văn hóa – thông tin.

20



×