Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

NUÔI VỖ CÁ TRA, CÁ BASA BỐ MẸ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.16 KB, 4 trang )

NUÔI VỖ CÁ TRA, CÁ BASA BỐ
MẸ

Cá tra và ba sa là hai loài cá da trơn thuộc họ cá tra (Pangasidae), có giá
trị kinh tế, phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng Nam Bộ nước ta và một
số nước Đông Nam á và là những loài nuôi quan trọng của khu vực này.
Cá tra phân bố ở lưu vực sông Mêkông, có mặt ở các nước Lào, Việt
vođược ở vùng nước hơi lợ (độ mặn 1‰), chịu đựng được nước phèn
với pH ≥ 4. Cá tra có tính ăn tạp, thiên về ăn thức ăn động vật và dễ
chuyển đổi loại thức ăn. Nuôi trong ao, tốc độ tăng trưởng đạt 1- 1,5
kg/con/năm.
Cá tra đực thành thục ở tuổi thứ 2 và cá cái ở tuổi thứ 3. Trong tự nhiên,
mùa vụ thành thục của cá bắt đầu từ tháng 5- 6 (dương lịch). Trong sinh
sản nhân tạo, ta có thể nuôi vỗ cho cá thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn
trong tự nhiên. Hệ số thành thục của cá đực 1-3%, ở cá cái có thể đạt tới
20%.
Cá ba sa cũng sống ở nước ngọt, phân bố ở Thái Lan, Indonêxia,
Campuchia và Việt Nam. Cá ba sa khác với cá tra là không có cơ quan
hô hấp phụ và ngưỡng oxy cao hơn cá tra, nên chịu đựng kém ở môi
trường nước tù bẩn, nơi hàm lượng oxy hòa tan thấp. Cá có tính ăn tạp,
thiên về thức ăn động vật, nhưng không háu ăn và ít tranh mồi ăn hơn cá
tra. Cá thành thục ở 3 - 4tuổi. Nuôi trong tự nhiên, cá cũng di cư sinh
sản, hệ số thành thục của cá nuôi vỗ trong ao và bè đạt 4,03- 6,2%, sức
sinh sản đạt tới 67.000 trứng ( đối với cá có trọng lượng 7 kg)
Đồng bằng Nam Bộ có truyền thống nuôi cá tra và cá ba sa, phổ biến
trong ao và bè. Hiện nay, phương thức nuôi thâm canh cho năng suất rất
cao, nuôi trong ao đạt tới 300 tấn/ ha, trong đăng quầng tới 500 tấn/ha,
trong bè đạt 100- 150kg/ m3 bè nuôi. Cá tra và ba sa đã trở thành đối
tượng xuất khẩu quan trọng thời gian qua.
Những năm trước đây, ở nước ta nguồn cá tra và cá ba sa giống chủ yếu
được vớt tự nhiên trên sông Tiền. Hiện nay, chúng ta đã hoàn toàn chủ


động trong việc sinh sản nhân tạo và sản xuất giống hai loài cá này và
cung cấp đủ giống cho người nuôi.
I- Điều kiện nuôi vỗ cá bố mẹ
1 - Nuôi vỗ cá bố mẹ trong ao
Ao nuôi vỗ cá tra có diện tích ít nhất 500 m2, còn ao nuôi vỗ cá ba sa bố
mẹ nên có diện tích 1.000 m2 trở lên, độ sâu mức nước từ 1,5 -3 m.
Nhiệt độ nước ao thích hợp từ 26- 30
0
C, pH thích hợp từ 7- 8, hàm
lượng oxy hòa tan từ 2mg/l trở lên.
Nhìn chung ao càng rộng, thoáng càng tốt. Ao rộng sẽ giữ được ổn định
các yếu tố môi trường, dễ dàng tạo sự đối lưu giữa các tầng nước, điều
hòa lượng khí ôxy hòa tan trong nước.
Ao phải gần nguồn nước cấp, nước sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải
sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, không nhiễm phèn, mặn hoặc chứa
các kim loại nặng.
Bờ ao phải chắc chắn, không rò rỉ, đỉnh bờ phải cao hơn mực nước cao
nhất trong ao là 0,5m. Ao phải có cống cấp và thoát nước. Đáy ao bằng
phẳng và hơi nghiêng về phía cống thoát. Nên giữ mặt ao thoáng đãng,
không để tán cây lớn che khuất mặt ao.
Ao nên ở vị trí thuận lợi về giao thông để thuận tiện đi lại và vận chuyển
vật tư, sản phẩm. Phải có điện ổn định để phục vụ cho hoạt động sản
xuất.
2- Nuôi vỗ cá bố mẹ trong bè
Cá tra và ba sa bố mẹ cũng được nuôi vỗ trong bè, thực tế cho thấy, nuôi
vỗ cá bố mẹ trong bè thì tỷ lệ thành thục cũng như chất lượng sản phẩm
sinh dục của cá bố mẹ đều rất tốt.
Bè có dạng khối hình hộp chữ nhật, 4 mặt xung quanh (gồm 2 bên hông
bè, 2 đầu bè trước và sau), đáy bè và mặt (sàn) bè. Sàn bè đóng ván và
chừa 2- 3 cửa có thể nâng hạ được để cho cá ăn hoặc kiểm tra cá. Trên

sàn thường làm nhà để ở, sinh hoạt và nhà kho. Cỡ bè phổ biến là 6 x
4m, sâu 3m hoặc 8m x 5m, sâu 3m, hoặc có thay đổi chút ít kích thước
chiều ngang và chiều dọc tùy yêu cầu của từng chủ bè. Xung quanh bè,
phần ngập nước đóng ván kín có chừa khoảng 1/3 diện tích để lắp lưới
cho nước lưu thông qua bè. Phao có tác dụng nâng nổi bè và giữ cho
mực nước trong bè luôn ổn định. Phao có thể làm bằng thùng phuy,
thùng nhựa, tre, ống PVC. Bè được cố định bằng neo ở 4 góc, dây neo
buộc vào trụ neo ở đáy hoặc bằng mỏ neo.
Bè truyền thống được đóng bằng gỗ chịu nước như sao, cà chích, vên
vên, sến Hiện nay, có một số nơi đóng bè bằng composite hoặc khung
sắt ghép lưới inox. Bè được đặt nơi không ảnh hưởng đến giao thông
trên sông, không bị bồi lắng, không có dòng xoáy ngầm, có dòng nước
chảy thẳng, tốc độ nước tương đối ổn định. Nguồn nước sạch, không bị
ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, mặn, không bị ô nhiễm từ các nguồn
nước thải sinh hoạt và công nghiệp, xa bến phà, xa nơi có xăng dầu, nơi
nước đổ ra từ các vùng nông nghiệp sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
3- Công tác chuẩn bị ao, bè nuôi vỗ cá bố mẹ
Trước khi thả cá bố mẹ để nuôi vỗ nhất thiết phải cải tạo và vệ sinh lại
ao. Nếu là ao cũ thì tát cạn, bắt hết cá tạp, cá dữ, vét bớt bùn đáy, chỉ để
một lớp bùn mỏng 20 cm. Dọn sạch cỏ mái và bờ ao, lấp hết hang hốc
cua, rắn, ếch, chuột… Dùng vôi bột rải đều đáy và mặt bờ với liều lượng
7- 10 kg/100m2. Sau đó phơi nắng đáy ao 1- 2 ngày và cho nước vào ao
qua lưới chắn lọc đến khi mực nước cao đạt yêu cầu. Ao mới đào cũng
cần phải xem xét đáy ao, nếu bị phèn (nhất là phèn sắt màu vàng đỏ)
phải tháo bỏ và thay nước vài lần trước khi cấp nước mới. Rải vôi bột
đáy và mái bờ ao với lượng vôi 10-15kg/100m2. Trước khi thả cá, phải
kiểm tra lại độ pH, khi đạt trung tính thì mới thả cá.
Bè nuôi vỗ cá bố mẹ phải được dọn vệ sinh, tẩy trùng bằng formol với
nồng độ 30- 50 ppm (ppm = mg/lít). Phải kiểm tra và tu sửa hoàn chỉnh
các chi tiết bè, thay các phần ván, lưới chắn bị mục…


×