Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm thpt định hướng đọc hiểu hồn trương ba, da hàng thịt lưu quang vũ bằng phương pháp tranh biện nhằm phát huy năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.05 KB, 27 trang )

{

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HÀ TĨNH

SÁNG KIẾN
TÊN ĐỀ TÀI:
ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU TRÍCH ĐOẠN HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT LƯU QUANG VŨ (SGK NGỮ VĂN 12) BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRANH BIỆN
NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH.

Môn/lĩnh vực: Ngữ văn
Mã số: 08

Năm học 2022- 2023


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu nghiên cứu

2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3

4. Phương pháp nghiên cứu

4

5. Đóng góp của đề tài

4

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

4

A. Cơ sở lý luận và thực tiễn.

4

I. Cơ sở lí luận

4-5

II. Cơ sở thực tiễn

6-7

B. Định hướng đọc hiểu trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt bằng


8

phương pháp tranh biện nhằm phát triển năng lực học sinh
I. Tiến trình và cách thức tổ chức dạy học bằng phương pháp tranh biện
II- Một số điểm cần lưu ý

8
9-10

III- Giải pháp thực hiện phương pháp tranh biện trong định hướng đọc hiểu Hồn 11- 20
Trương Ba, da hàng thịt (đoạn trích thuộc SGK Ngữ văn 12)
IV- Giáo án thể nghiệm

21- 23

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

24- 26
26

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


ĐỀ TÀI: ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU TRÍCH ĐOẠN HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG
THỊT - LƯU QUANG VŨ (SGK NGỮ VĂN 12) BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRANH
BIỆN NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH.
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Khoảng hơn chục năm nay, từ khi thực hiện chương trình và sách giáo khoa
Ngữ văn hiện hành, việc dạy học tác phẩm văn học có nhiều đổi mới so với chương trình
Ngữ văn trước đó. Một trong những điểm đổi mới dễ thấy đó là việc học văn bản văn học
được chuyển thành việc đọc hiểu văn bản. Học văn tức là học cách đọc văn, đó là một tư
tưởng rất hay mà những nhà nghiên cứu văn học đồng thời là những chuyên gia giáo dục
khởi xướng. Bởi vậy, định hướng học sinh đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại với
nguyên tắc “mỗi thể loại thể hiện một thái độ thẩm mỹ với hiện thực, một cách cảm thụ,
nhìn nhận, giải minh thế giới và con người” (M.Bakhtin) và sử dụng những phương pháp
mới trong trong q trình tổ chức đọc hiểu có vai trị quan trọng. Có thể nói, đó là một
luồng gió mới làm đổi thay diện mạo của việc dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường
phổ thông, làm giảm nhẹ nội dung kiến thức hàn lâm, tăng cường tính kết nối với hiện thực
sinh động của đời sống. Đó cũng là quan điểm của chương trình GDPT năm 2018.
1.2. Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn thường quy tụ quanh nó sự đa dạng, thậm chí
phức tạp trong tiếp nhận. Người đọc ở mỗi thời đại, mỗi góc nhìn lại phát hiện ra những
giá trị khác nhau. Vì thế, có những sáng tác ngỡ như được bàn đến “thiên kinh vạn quyển”
song nhiều giá trị của tác phẩm vẫn tiếp tục được khám phá. Trong lịch sử văn học- nghệ
thuật Việt Nam thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ là nhà văn đã để lại một di sản kịch đồ sộ về số
lượng, đa dạng về đề tài, thể hiện một năng lực sáng tạo phi thường và dấu ấn riêng, khó
lẫn trong lịng người thưởng thức. Trong khoảng thời gian gần mười năm, ông đã sáng tác
được hơn 50 vở kịch, trong đó có những vở xứng đáng là đại diện cho nền kịch nói Việt
Nam trên sân khấu quốc tế như Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
1.3.Trong chương trình Ngữ văn THPT, Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong
những tác phẩm đặc sắc, vì lẽ đó, nó thường xuyên xuất hiện trong các kỳ thi, đặc biệt là
2


kỳ thi tốt nghiệp THPT và chọn học sinh giỏi. Với sức hấp dẫn tự thân ở đứa con tinh thần
của “cây bút vàng” sân khấu, tác phẩm đã trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ vơi
cạn đối với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy Ngữ văn và học sinh THPT,

nhiều phương diện giá trị từ nội dung đến hình thức đã được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, về
phía giáo viên, việc sử dụng phương pháp tranh biện trên tinh thần khoa học để tổ chức các
giờ dạy chưa được chú ý. Dạy học thể loại kịch bằng phương pháp tranh biện là một sự
lựa chọn phù hợp với đặc trưng thể loại, từ khơng khí căng thẳng, kịch tính, giàu đối thoại
của văn bản kịch mà lan tỏa đến khơng khí sơi nổi của giờ học. Trong thời đại bùng nổ
thông tin như hiện nay, việc tổ chức giờ học với sự tác động hai chiều có vai trị rất lớn. Vì
lẽ đó, chúng tơi lựa chọn đề tài “Định hướng đọc hiểu Hồn Trương Ba, da hàng thịt
bằng phương pháp tranh biện nhằm phát huy năng lực học sinh” với mong muốn
mang lại những khám phá mới mẻ, độc đáo trong giờ đọc hiểu đoạn trích này, góp phần
đem lại hứng thú cho các em học sinh, đặc biệt là đối với đối tượng học sinh khá, giỏi.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Xác lập được cơ sở lý thuyết chắc chắn, làm điểm tựa cho q trình triển khai
đề tài thơng qua việc giới thuyết về phương pháp tranh biện trong dạy học.
2.2. Dựa trên điểm tựa lý thuyết đã xác lập, phân tích làm sáng tỏ những luận điểm
cơ bản về đặc điểm của phương pháp tranh biện và cách sử dụng nó trong định hướng đọc
hiểu văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (đoạn trích SGK). Đây là mục tiêu chính của đề
tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trích đoạn Hồn Trương Ba, da
hàng thịt (SGK Ngữ văn 12, tập 1 (cơ bản), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2011).
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, để tăng thêm tính thuyết phục
của những luận điểm, ngồi văn bản trên, chúng tôi khảo sát thêm một số đoạn trích khác
của tác phẩm và các tác phẩm khác của cùng một tác giả.

3


4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp; so sánh, đối chiếu
- Phương pháp hệ thống…

5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp nổi bật của đề tài là gợi ý một cách tổ chức đọc hiểu mới, cách này vừa
phù hợp với đặc trưng thể loại kịch, vừa hướng đến sự phát triển toàn diện năng lực, phẩm
chất học sinh. Hướng tổ chức đọc hiểu này không loại trừ các hướng đọc hiểu đã biết. Tuy
nhiên, những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích
trong q trình dạy học đọc hiểu đoạn trích nói riêng, các tác phẩm chứa đựng tình huống
có vấn đề nói chung, cũng như ôn tập cho các kỳ thi, khơi sâu các lớp nghĩa của văn bản,
tăng cường khả năng soi chiếu văn bản vào thực tế cuộc sống.
PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I- Cơ sở lý luận
1. Những vấn đề cơ bản về năng lực
Theo “Từ điển Tiếng Việt” thì “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” hoặc: “Năng lực là khả năng huy động
tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối
cảnh nhất định”. Năng lực là một khái niệm khá rộng, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, từ
tâm lý đến xã hội học…tức là khái niệm này không mới nhưng vấn đề dạy học và kiểm tra
đánh giá theo định hướng năng lực vẫn còn là vấn đề cần được định hình. Chúng ta cũng
cần nhắc lại các thành phần và biểu hiện của năng lực. Năng lực bao gồm kiến thức, kỹ
năng, thái độ…nhưng bao gồm khơng có nghĩa là tổng cộng mà là tổng hịa. Với bộ mơn
Ngữ văn, có những năng lực đặc trưng như: năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực giao tiếp,
năng lực hợp tác, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sáng tạo,…Hình thành những năng

4


lực này sẽ là tiền đề kéo theo sự hình thành những năng lực khác cũng như những phẩm
chất quan trọng theo định hướng đầu ra. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển
năng lực không chỉ chú ý tích cực hố học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện
năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng

thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập
trong nhóm, đổi mới quan hệ GV- HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm
phát triển năng lực xã hội.
2. Giới thuyết về khái niệm và đặc điểm của phương pháp tranh biện
2.1.“Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại
các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành tranh biện được thể
hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục (educational debate) mà còn qua các
phương tiện truyền thơng (media) và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện
là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy phản biện, nói trước cơng chúng, nghiên
cứu, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép…
“Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, xử lý
thông tin đến xây dựng, hệ thống, sắp xếp các lập luận để đưa ra quyết định. Tranh biện có
thể sử dụng ngơn ngữ (thơng qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biệnself- debate trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề bằng cách chỉ
ra những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện
để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương”. Nói cách khác, tranh biện là q
trình giao lưu ngơn ngữ địi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm
của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ơn hịa
nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Chính vì thế, tranh biện được coi là
tinh hoa của năng lực sử dụng ngơn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư
duy.
2.2. Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ,
đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Sau đó, dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bàn
5


bạc, phản biện về vấn đề đó. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời
thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực
nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân
theo yêu cầu của mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình dạy học, GV có thể lựa

chọn sử dụng tranh biện trong việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến
thức mới; củng cố và kiểm tra, đánh giá. Trong giờ học, GV đề xướng, tổ chức, còn HS
chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững
chắc và hiệu quả, ở đây, HS thực sự là trung tâm của lớp học.
II- Cơ sở thực tiễn
1. Việc phát triển tư duy phản biện cho học sinh thông qua các hoạt động tranh biện
là một trong những phương pháp để hình thành và phát triển các năng lực cần thiết của
người học. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng ý thức được điều đó. Thực tế cho
thấy, các tiết dạy đọc hiểu văn bản vẫn diễn ra theo lối truyền thụ một chiều, nặng về kiến
thức và thiếu tính thực tiễn, khơng khơi dậy được hứng thú cho học sinh, nhất là đối tượng
học sinh khá giỏi. Với kiểu dạy học chú trọng nhiều đến kiến thức “học gì thi nấy”, học
sinh khơng có nhiều cơ hội để rèn luyện tư duy phản biện và phát triển năng lực, nhất là
năng lực cảm thụ văn học, năng lực tự chiếm lĩnh kiến thức, phương pháp để đáp ứng u
cầu của những cơng dân tồn cầu.
2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là đỉnh cao trong di sản kịch Lưu Quang
Vũ, và có lẽ cũng là một trong những đỉnh cao của kịch nói Việt Nam cho đến thời điểm
này. Là một văn bản văn học xuất sắc, nhưng việc dạy học vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong trường phổ thông đang tồn tại những bất cập như: đóng
khung nội dung của vở kịch, không thể phát triển các lớp nghĩa phong phú khác; học sinh
tiếp nhận thụ động. Bên cạnh đó, học sinh khơng thể bàn luận về các vấn đề xã hội, các
triết lý nhân sinh trong tác phẩm khi soi chiếu với thực tế đời sống. Một trong những
nguyên nhân chính nằm ở phương pháp giảng dạy và học tập. Thực tế, khi lên lớp, giáo
viên thường chỉ dạy luận điểm, áp đặt, dạy cái đã biết trước, không phải dạy cái đang được

6


phát hiện. Cách dạy này buộc học sinh phải chấp nhận một chiến lược đã được định trước,
phần việc còn lại chỉ là tìm ngữ liệu để minh họa cho những luận điểm có sẵn.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi mạnh dạn đề xuất cách “Định hướng đọc

hiểu trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt bằng phương pháp tranh biện nhằm
phát triển năng lực học sinh”. Đề tài một mặt phát huy được tính chủ động, tích cực của
học sinh, mặt khác mang đến khả năng xâu chuỗi, kết nối các đơn vị kiến thức khơ khan
với tính đa dạng của đời sống.
B- ĐỊNH HƯỚNG ĐỌC HIỂU TRÍCH ĐOẠN HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG
THỊT - LƯU QUANG VŨ (SGK NGỮ VĂN 12) BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRANH
BIỆN
I- Tiến trình và cách thức tổ chức dạy học bằng phương pháp tranh biện
Như chúng ta đã biết, thơng qua tranh biện, học sinh có được: kỹ năng nghiên cứu,
sắp xếp thơng tin; triển khai các lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục, trình bày thơng tin một cách
hấp dẫn, lôi cuốn người nghe. Tranh biện cũng giúp cải thiện kỹ năng thuyết trình, hình
thành tư duy phản biện, chủ động tìm hiểu các vấn đề nảy sinh trong bài học,...Song, cách
thức tổ chức như thế nào để phát huy những ưu điểm trên không phải là điều dễ dàng. Giáo
viên có thể vận dụng các hình thức sau:
1. Tổ chức tranh biện theo nhóm
Khi tổ chức tranh luận theo nhóm sẽ diễn ra đồng thời hai hoạt động: việc thảo luận
giữa các thành viên trong nhóm để thống nhất ý kiến chung và tranh luận giữa các nhóm.
Mục đích của hoạt động nhóm là để học sinh cùng trao đổi, tìm tịi, học hỏi lẫn nhau. Để
đạt hiệu quả, giáo viên cần định hướng cho nhóm hoạt động theo yêu cầu công việc được
giao. Giáo viên phát phiếu học tập hoặc nêu yêu cầu cho các nhóm, ấn định thời gian làm
việc, các nhóm nhận nhiệm vụ, tập trung giải quyết vấn đề, đưa ra câu hỏi để cùng tìm tịi,
trao đổi và cả những suy nghĩ, bài học rút ra từ văn bản đó (khuyến khích học sinh tự do
phát biểu suy nghĩ của mình).

7


Trong khi học sinh làm việc, giáo viên nên đến từng nhóm hỗ trợ, động viên, nhắc
nhở để các nhóm làm việc đều tay, đảm bảo thời gian. Mục đích để đơn đốc thái độ hợp tác
tích cực của các thành viên, cần tránh tình trạng dựa dẫm, chỉ một cá nhân làm việc. Mặt

khác, thơng qua q trình kiểm tra để gợi mở cho học sinh, hướng vấn đề thảo luận đi vào
trọng tâm. Sau khi các nhóm hồn thành công việc, giáo viên hoặc lớp trưởng điều khiển
từng nhóm lên báo cáo kết quả bằng trình bày trên giấy lớn hoặc trình bày miệng. Các
nhóm khác bổ sung, thống nhất ý kiến. Giáo viên tóm tắt kết quả đạt được, giúp học sinh tự
nhận xét, đánh giá quá trình làm việc.
2. Tranh biện giữa học sinh và học sinh
Alfred Adler- người sáng lập ra trường phái tâm lý học cá nhân người Áo từng phát
biểu: “Người dạy học phải tin vào sức mạnh tiềm tàng của học trò, và anh ta phải nỗ lực
hết sức để giúp học trị mình trải nghiệm được sức mạnh này”. Thật vậy, khơi dậy khả
năng tiềm ẩn của mỗi học sinh trong các giờ dạy có khó khăn riêng, tuy vậy, giáo viên vẫn
có thể có cách thức để đánh thức những giá trị tiềm ẩn ấy. Việc tổ chức tranh biện giữa học
sinh và học sinh là hình thức có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
các em rất hiệu quả. Học sinh sẽ có cơ hội được thể hiện mình, phát huy năng lực hùng
biện, sự tự tin trong giao tiếp, khả năng tư duy logic…Những giá trị mang đậm màu sắc cá
nhân ấy sẽ được các em phơi mở, bộc lộ một cách tự nhiên nhất, vì thế tiết học chắc chắn
sẽ hấp dẫn, lôi cuốn.
3. Tranh biện giữa giáo viên và học sinh
Nhà văn M.Gorki cho rằng: “Tác phẩm văn học nào cũng có vấn đề”. Đó chính là
cơ sở đầu tiên để xây dựng các tình huống có vấn đề trong dạy học Ngữ văn. Văn bản văn
học là loại hình nghệ thuật có tính đa nghĩa, là những “kết cấu vẫy gọi” luôn hướng tới
những “người đọc tiềm ẩn”, mở ra khả năng “tạo tình huống có vấn đề”. Vì thế, khi dạy
học đọc hiểu văn bản văn học, GV phải khơi gợi được những tình huống có vấn đề để HS
“giải mã”, qua đó khám phá tác phẩm văn học.

8


Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018 đã xác định, ngồi phát triển
các năng chung thì bộ mơn cần hình thành và phát triển năng lực văn học và năng lực
ngơn ngữ cho học sinh. Trong đó, yêu cầu học sinh phải biết tranh luận về những vấn đề

tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có
khả năng nghe thuyết trình và đánh giá bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá
tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin; nói và nghe linh hoạt;...
Hình thành ý tưởng, nội dung có vấn đề là khâu rất quan trọng khi xây dựng tình huống.
Đối với mơn Ngữ văn, đặc biệt là phân môn đọc hiểu văn bản, khi xây dựng tình huống,
GV có thể hướng đến một số vấn đề: So sánh các văn bản cùng thời kỳ, cùng đề tài; từ nội
dung của văn bản, liên hệ đến các vấn đề thực tiễn; khai thác những mâu thuẫn, các góc
nhìn đa chiều về văn bản; chú ý đến tính “mở”, “khoảng trống” của văn bản…
II- Một số điểm cần lưu ý
1. Quy trình tổ chức giờ dạy theo phương pháp tranh biện
1. 1. Chuẩn bị tổ chức tranh biện
* Bước 1: Xác định vấn đề tranh biện
GV cần phải xác định mục tiêu, yêu cầu cũng như nắm vững nội dung bài học. Từ
việc xác định nội dung tranh biện, GV sẽ căn cứ vào vị trí, thời lượng của nội dung đó so
với bài học là bao nhiêu để linh hoạt vấn đề tổ chức và sắp xếp thời gian cho hoạt động
tranh biện một cách hợp lí, khơng ảnh hưởng đến thời lượng của cả tiết học.
*Bước 2: Lập kế hoạch tổ chức tranh biện
- Kế hoạch tổ chức cho HS tranh biện cần được thể hiện một cách chi tiết thông qua
việc thiết kế giáo án. Bên cạnh việc thiết kế giáo án, GV cần xây dựng một hệ thống câu
hỏi, sử dụng trong hai trường hợp để hỗ trợ cho quá trình chuẩn bị nội dung tranh luận cho
HS.
- Giao nhiệm vụ, HS chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện: GV cần phân cơng cụ
thể: nhóm ủng hộ và nhóm phản đối; định hướng tài liệu phù hợp.
9


1.2. Tổ chức hoạt động tranh biện
Bước 1: Trình bày
Giáo viên giới thiệu vấn đề tranh biện, học sinh tiếp nhận nhiệm vụ. Nhóm ủng hộ
sẽ trình bày trước. Thời gian cho phần trình bày tối đa là 2 phút.

Bước 2: Tranh luận: GV tổ chức cho học sinh đưa ra ý kiến, quan điểm, đánh giá
của mình và tranh biện lẫn nhau.
Mỗi nhóm sẽ căn cứ vào phần trình bày của nhóm đối phương để phản biện; thời gian
cho mỗi lượt phản biện tối đa là 1 phút; các thành viên trong mỗi nhóm cần thay phiên nhau,
tránh trường hợp chỉ một người tranh biện từ đầu đến cuối.
Bước 3: Giáo viên chốt lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm.
Trên cơ sở những ý kiến tranh biện của học sinh, giáo viên khái quát toàn bộ vấn để,
chốt lại những vấn đề cơ bản, trọng tâm và gợi mở tư duy cho học sinh. Đồng thời giáo
viên cần dành thời gian động viên, khen thưởng kịp thời những thành viên, nhóm hoạt
động có kết quả làm việc tốt và tích cực.
1.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả bài học theo hoạt động tranh biện
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học có tầm
quan trọng đặc biệt. Tổ chức tranh biện với tư cách là phương pháp dạy học cần được kiểm
tra đánh giá, thơng qua đó để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
học của học sinh, đồng thời rút kinh nghiệm cho quá trình về sau.
2. Một số nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp tranh biện trong
quá trình định hướng đọc hiểu văn bản
Để sử dụng tốt phương pháp tranh biện, giáo viên cần tuân thủ một số quy trình và
nguyên tắc. Trước hết, cần xác định rõ mục đích quan trọng nhất của tranh biện là làm nổi bật
nội dung bài học. Nếu không, cuộc tranh luận sẽ sa đà, lạc hướng gây mất thời gian mà không
đạt hiệu quả cao, xa rời nội dung trọng tâm, cốt lõi, thậm chí lệch chủ đề tác phẩm. Bên cạnh đó,
10


lựa chọn vấn đề tranh biện phù hợp và cân đối về mặt thời gian khi tổ chức tranh biện cũng rất
cần thiết. Bởi vì, một khi lựa chọn vấn đề tranh biện phù hợp, vừa sức, giáo viên sẽ vừa khơi
được nguồn cảm hứng cho học sinh, vừa chốt kiến thức cơ bản của bài học một cách sâu sắc.
Cân đối thời gian cũng là một thử thách đối với giáo viên, làm sao để cho học sinh “nói hết
ý” của mình, tranh biện đến cùng để bảo vệ ý kiến riêng, vừa có thời gian đề cho giáo viên
chốt ý khơng phải là điều dễ dàng. Do đó, giáo viên cần có nghệ thuật để tiết học diễn ra nhịp

nhàng, vừa phải, kết hợp với phương pháp khác để bài dạy trở nên hiệu quả hơn.
III- Giải pháp thực hiện phương pháp tranh biện trong định hướng đọc hiểu
trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt (SGK Ngữ văn 12)
1. Nói đến Lưu Quang Vũ là nói đến một cây bút tài hoa đã để lại dấu ấn trên nhiều
thể loại: thơ, văn xuôi, đặc biệt là kịch. Với một “tâm hồn nổi gió”, sức sống mãnh liệt và
khả năng sáng tạo miệt mài, Lưu Quang Vũ nổi lên như một hiện tượng của sân khấu kịch
Việt Nam thời kì đổi mới. Kịch Lưu Quang Vũ đi thẳng vào trung tâm những mâu thuẫn
gay gắt nhất của thời đại, bộc lộ sự lo âu, trăn trở về con người trong biến động xã hội;
phơi bày, lý giải căn nguyên của những vấn đề đương thời; dự cảm về các vấn đề nhân sinh
và xã hội Việt Nam sau này. Đó là kịch chính luận với sự hịa trộn của hiện thực với giả
tưởng, phi lý với logic, bi và hài, chất triết luận và chất thơ. Nét quán xuyến trong toàn bộ
sáng tác của Lưu Quang Vũ là tính hiện đại và tính nhân văn. Dạy học thể loại kịch, đặc
biệt là kịch Lưu Quang Vũ trong trường phổ thơng là một khó khăn rất lớn đối với người
dạy và người học. Tính chất phức tạp của kịch Lưu Quang Vũ về cả tư tưởng và bút pháp
đòi hỏi hoạt động dạy học phải tìm đến các phương thức tiếp cận khác nhau. Hiệu quả của
mỗi phương thức căn cứ vào tính tương thích với đối tượng tiếp nhận đặc thù. Ứng dụng
phương pháp tranh biện vào định hướng đọc hiểu kịch Lưu Quang Vũ với đoạn trích Hồn
Trương Ba, da hàng thịt là một đề xuất trong trường hợp này.
2. Lưu Quang Vũ từng tâm sự: “Động lực xui tôi viết kịch cũng là những động lực
khiến tơi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình và
thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao
gửi và dâng hiến” (Nhiều tác giả, Xuân Quỳnh- Lưu Quang Vũ, tình yêu và sự nghiệp,
11


NXB Hội nhà văn 1994). Vượt qua cách viết sử thi vẫn còn chi phối văn học những năm
sau năm 1975, Lưu Quang Vũ đã đưa ngòi bút chạm đến những vấn đề thế sự, khai thác
nhiều mảng đa dạng của đời sống. Những tác phẩm kịch của ông được chắt lọc từ đời sống
bề bộn thường nhật, với những con người nhỏ bé từ sân khấu cuộc đời bước thẳng lên sân
khấu kịch trường rồi trở lại cuộc đời. Kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt ra đời trong

hồn cảnh xã hội có nhiều biến đổi ấy: cái mới bắt đầu manh nha, cái cũ vẫn còn tồn tại, sự
đan xen cũ mới diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Vở kịch thật sự
có ý nghĩa, khẳng định vai trị tiên phong của kịch gia Lưu Quang Vũ trong sự nghiệp đổi
mới văn học sau 1975. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch sâu sắc, hấp dẫn với nhiều
tầng nghĩa đan xen, hoà quyện vào nhau rất đỗi tự nhiên và chân thực. Vở kịch thăng hoa
từ cốt truyện dân gian khác lạ, từ hình tượng song trùng, lưỡng phân đa thanh, đa nghĩa
“hồn này, xác nọ” quá đặc sắc, vươn đến tầm phổ quát muôn thưở của nhân loại mà vẫn
đầy ắp chất thế sự và thời sự. Tất cả tính đa thanh đó đều có thể tạo thành một gợi mở để
GV tổ chức giờ dạy theo hướng tăng cường đối thoại đa chiều với HS.
3. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gồm 7 cảnh, không gian- thời gian mở rộng
từ thiên đình xuống hạ giới, tập hợp được nhiều kiểu dạng nhân vật. Đoạn trích SGK thuộc
cảnh VII, cảnh cuối cùng của vở kịch. Đây là giai đoạn xung đột kịch phát triển đến đỉnh
điểm và cuộc đối đầu giữa Hồn Trương Ba - xác anh hàng thịt diễn ra căng thẳng. Cuối
cùng, hồn có nguy cơ bị xác lấn át. Vì thế cho nên, ông Trương Ba bị những người thân
trong gia đình nghi ngờ, xa lánh. Nhân vật đau khổ đến tột cùng và quyết định giải thoát,
chấp nhận cái chết vĩnh viễn.
Trương Ba là một nhân vật bi kịch khi rơi vào hoàn cảnh éo le, bi đát. Vốn là người
làm vườn sống nhân hậu, chân thành, yêu cây cỏ, yêu thương, chan hịa với mọi người
nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời, ông rơi vào nghịch cảnh đau thương. Bi kịch của
nhân vật Trương Ba là phải sống nhờ trong thân xác của người khác, người đó lại là một
anh hàng thịt vơ cùng thơ lỗ. Do đó, tính cách của Trương Ba ngày càng thay đổi, từ chỗ
“nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, “hiền hậu, vui vẻ, tốt lành”, ơng ngày càng xấu đi
trong sở thích, hành vi để rồi xa lạ với chính mình, xa lạ với người thân. Bằng biện pháp

12


đối lập, Lưu Quang Vũ đã tô đậm mâu thuẫn giữa hồn người này và xác người kia, đó cũng
là độ chênh giữa bên trong và bên ngoài. Trong sự tranh cãi giữa hồn và xác, hồn biểu
tượng cho sự thanh cao, cho đạo đức, cho phần hồn chân chính của mỗi con người; xác

biểu tượng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục, là phần “con” ẩn nấp trong mỗi
con người. Đưa ra sự đối lập này, nhà văn muốn nhấn mạnh rằng: con người không thể
sống bằng thân xác mà cũng không thể chỉ sống bằng tinh thần. Hồn Trương Ba và xác anh
hàng thịt là hai thực thể đối lập nhưng không thể tồn tại riêng rẽ, có cái này mà khơng có
cái kia, sự vênh lệch giữa hồn và xác sẽ là bi kịch. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác vì thế
hàm chứa nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc. Tính chất đa chiều của nó có khả năng gợi mở
rất nhiều tình huống để giáo viên có thể tổ chức tranh biện cho học sinh. Ở lớp đối thoại
này, tôi sử dụng phương pháp tranh biện như sau:
Nội dung Tranh biện theo
nhóm
Cuộc đối Nhóm 1 Nhóm 2

Tranh biện giữa
Tranh biện giữa GV và HS
HS và HS
HS1: Theo bạn, GV nêu vấn đề:

Ủng hộ Phản đối những lí lẽ của - Chúng ta có nên chiều theo

thoại

giữa hồn lí lẽ của lí lẽ của xác liệu có thuyết những địi hỏi của thể xác khơng?
và xác

xác

xác

- Có nên hành động theo xác hay


phục?

HS2: Phản biện khơng?
lại

HS tranh biện tự do

Với tình huống tranh biện theo nhóm, HS đưa ra những lí lẽ hợp lý để bảo vệ cho
quan điểm của mình:
- Nhóm ủng hộ lập luận của xác hàng thịt cho rằng lí lẽ của xác hàng thịt là hợp
lý, thuyết phục vì:
+ Theo tư duy truyền thống của người Á Đông, phần hồn thường được tuyệt đối
hóa, được xem là “hình nhi thượng” đối lập với những gì là “hình nhi hạ”; cái tinh thần,
tâm hồn mới đáng được coi trọng. Đó là một tư tưởng có từ xa xưa. Theo lí lẽ của xác,
chúng ta cần có cái nhìn khách quan hơn, cơng bằng hơn trong việc đánh giá vai trị thể xác
của con người. Rõ ràng, thể xác cũng có vai trị quan trọng khơng kém linh hồn và chúng ta

13


cần phải chăm sóc, nâng niu thân xác của mình, bởi rời bỏ thể xác, linh hồn sẽ chỉ là một
thứ siêu hình, mờ nhạt hoặc khơng tồn tại.
+ Lý lẽ mà xác đưa ra: “Mỗi bữa tơi địi ăn tám, chín bát cơm, tơi thèm ăn thịt, hỏi
có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ khơng có đủ tám, chín bát cơm cho tơi ăn chứ!” là một lý
lẽ sắc sảo, đúng đắn. Với lý lẽ này, Lưu Quang Vũ đã lên án lối sống, tư tưởng cực đoan
chỉ chăm chăm, chú ý đến phần hồn mà bỏ bê, hành hạ thân xác; ông cũng đã mạnh dạn,
dũng cảm chỉ ra những thói tật của giới mình - giới trí thức. Có thể nói, việc đưa ra địi hỏi
phải đối xử cơng bằng với thân xác là một tư tưởng vô cùng tiến bộ và mới mẻ của Lưu
Quang Vũ .
+ Bình thường, thể xác của người khơng có gì là xấu, đáng được chăm sóc và coi

trọng nhưng nó sẽ trở nên xấu xa khi lấn lướt, chi phối phần hồn của người bằng những
ham muốn, những bản năng dung tục, tầm thường của nó.
+ Lý lẽ của xác thuyết phục còn là bởi: Dù muốn hay khơng, tính cách của người
trong q trình va đập, tiếp xúc với hồn cảnh sống sẽ ít nhiều bị hồn cảnh đó tác động.
Chẳng phải, vấn đề nhức nhối này đã được đề cập từ những trang văn của Nam Cao trước
1945 đến những trang viết của Nguyễn Minh Châu sau 1975 hay sao?
+ “Hai ta đã hòa với nhau làm một” là lập luận hợp lý, đúng đắn bởi vì cả hai phần
hồn và xác đều có ý nghĩa quan trọng và không thể tách rời nhau ra. Nếu trái quy luật, tất
yếu sẽ là bi kịch.
+ Trong truyện ngắn Một người Hà Nội, nhà văn Nguyễn Khải có viết: “Nói cho
cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên phải nhờ vào những giá trị tức thời…”. Điều đó
cho thấy, những giá trị tức thời ln có ý nghĩa quan trọng, đó là phương thức để duy trì sự
sống.
- Nhóm ủng hộ lập luận của Hồn Trương Ba đưa ra những lí lẽ để phản biện lí lẽ
của xác khơng thuyết phục vì những lí do như sau:

14


+ Hồn ẩn dụ cho phần “người” trong mỗi con người, do đó nó có khả năng điều
chỉnh hành vi, thay đổi hồn cảnh, khơng chiều theo những địi hỏi của thể xác mà đánh
mất chính mình.
+ Hồn tồn tại nhờ xác nhưng nếu khơng có hồn, xác khơng là gì cả, lắm khi bị thối
rữa, hóa thành hư vơ rồi. Khơng thể phủ nhận, xác là “cái bình để chứa đựng linh hồn”
nhưng nếu khơng có hồn thì cái bình ấy chỉ là vật vơ giá trị.
+ Hồn chiều theo những đòi hỏi của xác là điều dễ hiểu vì có những giá trị bên
ngồi, tức thời, hồn mới có thể tồn tại được. Điều đó cho thấy hồn vẫn có một đời sống bên
trong mà xác chưa thể thấy hết.
+ Cái cuối cùng khẳng định sự tồn tại của con người, của những giá trị sống đích
thực vẫn là phần hồn bên trong.

+ Con người khơng hồn hảo, đôi khi vẫn tồn tại những mặt xấu nhưng điều quan
trọng là việc biết sửa chữa, quay đầu, sống dũng cảm, biết đấu tranh…
Hình thức tranh biện giữa học sinh với học sinh về cơ bản theo trình tự như tranh
biện theo nhóm, chỉ có điều, mỗi HS đưa ra quan điểm riêng của mình ngay từ đầu, từ
khơng có sự bàn bạc thảo luận để đi đến thống nhất nội dung phản biện.
Ngồi hai hình thức tranh biện nêu trên, khi hướng dẫn học sinh phân tích cuộc đối
thoại giữa hồn và xác, giáo viên có thể nêu vấn đề để tranh luận chung giữa giáo viên và
học sinh. GV đặt câu hỏi:
- Chúng ta có nên chiều theo những địi hỏi của thể xác khơng?
- Có nên hành động theo xác hay không?
Câu trả lời của học sinh dự kiến sẽ là: Chúng ta không nên chiều theo những địi
hỏi của thể xác, khơng nên hành động theo xác vì:

15


+ Đó là những địi hỏi nhất thời, cho cái lợi trước, lâu dần nó sẽ dẫn đến bi kịch (tha
hóa, biến chất, chạy theo những địi hỏi tầm thường). Tại sao phải chiều theo cái dung tục
tầm thường để rồi đánh mất đi lý trí, đánh mất con người thật của chính mình?
+ Hồn cảnh, vật chất hay bản năng đều là những cái bề ngoài, nếu quá chú trọng nó
sẽ ảnh hưởng đến cái bên trong- giá trị bền vững. Quả thật, những yếu tố bên ngoài (hoàn
cảnh, vật chất) có sức mạnh to lớn, có vai trị quan trọng đối với sự sống nhưng khơng
được để nó lấn át. Con người phải dũng cảm đấu tranh để chế ngự cái bản năng, hoàn cảnh
tiêu cực để tạo nên những giá trị sống đích thực.
4. Qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, mâu thuẫn kịch phát
triển trở nên gay gắt và vô cùng quyết liệt, song vẫn chưa được giải quyết (kết thúc màn
đối thoại, hồn Trương Ba vẫn phải nhập trở lại xác hàng thịt). Bởi vậy, Lưu Quang Vũ tiếp
tục xây dựng màn đối thoại thứ hai, màn đối thoại này ngắn hơn nhưng cũng có vai trị vơ
cùng quan trọng: đẩy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm, cao trào, khơng thể trì hỗn mà
buộc phải giải quyết. Đó chính là màn đối thoại của Trương Ba với người thân của mình.

Đối với Trương Ba, tâm trạng đau khổ, xót xa của những người thân yêu chính là tấm
gương trung thực nhất, sáng rõ nhất để Trương Ba soi vào đó và nhận ra sự méo mó, biến
dạng của bản thân mình. Từ chỗ hồi nghi, khơng chấp nhận, Trương Ba đã phải cay đắng
thừa nhận thực tế: mình đang mỗi ngày đổi khác dần, mất mát dần. Nhà văn đã khéo léo để
ba người thân củaTrương Ba để ba lứa tuổi khác, ba tính cách, lối suy nghĩ và cách hành
xử khác nhưng có một sự thật khơng thể chối cãi là dù đứng ở vị trí thế nào, tất cả người
thân của Trương Ba cuối cùng đều phải rơi nước mắt, đó là giọt nước mắt tủi phận của
người vợ, là giọt nước mắt tức tưởi của đứa cháu gái và giọt nước mắt xót thương nhưng
bất lực của cô con dâu. Ba nhân vật với ba lứa tuổi, tính cách khác đã có sức khái qt rất
cao để cho thấy việc sống chắp vá “bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo” khơng đem
đến hạnh phúc, sung sướng cho bất cứ ai mà cái giá của nó là những mất mát, đổi thay,
tan vỡ và đau đớn. Với ý nghĩa sâu sắc đó của màn đối thoại, giáo viên hồn tồn có thể tổ
chức giờ dạy theo phương pháp tranh biện theo định hướng sau:
Nội dung

Tranh biện theo

Tranh biện giữa HS và
16

Tranh biện giữa GV và


Cuộc

nhóm
HS
HS
đối Vấn đề tranh biện: Cái Gái rõ Phản biện GV nêu vấn đề: Liên hệ


thoại

với Em đồng tình hay ràng là đi lại

người thân phản đối cách ứng ngược

thực tế ta thấy người thân

lại

trong gia đình bao giờ cũng

người với đạo làm

bao dung nhất. Liệu có phải

cháu đối với

người thân của Hồn TB

-> 2 nhóm: đồng ơng nội khi

thiếu bao dung khơng? Vì

xử

của

thân?


tình và phản đối.

đuổi

ơng

đi…

sao?
HS tranh biện tự do

Sau khi cho học sinh thảo luận, giáo viên chốt ý: Ý nghĩa quan trọng nhất của màn
đối thoại này chính là sau màn đối thoại, mâu thuẫn kịch đã đẩy lên đến đỉnh điểm, khơng
thể trì hỗn mà buộc phải giải quyết. Những đau đớn, khổ sở, dằn vặt trong bản thân, tâm
trạng Trương Ba vốn đã trở nên nhức nhối trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, nay được
cộng dồn thêm bằng những giọt nước mắt, bằng đau khổ, bi kịch của người thân nên bị dồn
nén cao độ. Những lời đối thoại của người vợ, đứa cháu gái và cô con dâu thực sự là một
chất xúc tác vô cùng mạnh mẽ để từ trạng thái phân vân, đắn đo lựa chọn, Trương Ba đã đi
đến quyết định dứt khoát là từ bỏ sự sống của bản thân để chấm dứt toàn bộ đau khổ cho
người thân. Điều này thể hiện rất rõ qua lời thoại vô cùng quan trọng của Trương Ba ở cuối
màn đối thoại. Đến đây, Trương Ba khơng cịn tìm cách phủ nhận, chối bỏ vai trò, tầm ảnh
hưởng của xác hàng thịt mà đã thừa nhận: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không
phải của ta ạ”. Nhưng thừa nhận sự thật không phải để thỏa hiệp, để quy phục, để bần thần
nhập lại thân xác hàng thịt như màn đối thoại trước mà là để dứt khoát thoát ra khỏi sự chi
phối và sức mạnh ghê gớm của xác hàng thịt. Một loạt câu hỏi dồn dập: “Nhưng lẽ nào ta
lại chịu thua mày? Khuất phục mày và tự đánh mất mình?...Nhưng có thật là khơng cịn
cách nào khác?” cùng một loạt những phủ định từ: “Không cần đến cái đời sống do mày
mang lại! Không cần!” đã thể hiện thái độ cương quyết, mạnh mẽ, chứng tỏ nhân vật đã
phải trải qua một quá trình đấu tranh quyết liệt với tất cả sự cố gắng để giành lại phần
người từ đôi bàn tay của con quỷ bản năng. Sau lời độc thoại này, Trương Ba đã dũng cảm

từ bỏ sự sống của bản thân để giải quyết bi kịch cho mình và những người xung quanh,

17


quyết định đó đã khiến cho mâu thuẫn kịch được giải quyết, đồng thời sẽ khiến cho số
phận nhân vật chỉ đạt đến cái hữu hạn, nhưng cái trong sạch, cao cả, tốt đẹp sẽ luôn bất tử.
5. Như chúng ta đã biết, cốt truyện của Hồn Trương Ba, da hàng thịt tập trung khai
thác bi kịch của hồn Trương Ba trong thể xác anh hàng thịt. Tuy nhiên, nhân vật khơng
chấp nhận bi kịch mà cố vượt thốt khỏi sự cám dỗ, thoả hiệp để vươn đến một cuộc sống
lí tưởng của nhân tính. Đối thoại với Đế Thích là lớp xung đột cuối cùng của vở kịch,
những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết của Lưu Quang Vũ được gửi gắm
nhiều ở cuộc đối thoại này. Đoạn trích vì thế cũng là nơi kết tinh giá trị tư tưởng của tác
phẩm: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được; hạnh phúc
chân chính của con người là được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với mọi người.
Triết lý sống này dường như chưa bao giờ cũ bởi nói như nhà văn Jack London: “Sứ mệnh
chân chính của con người là sống chứ không phải tồn tại”. Với chiều sâu triết lý ấy, giáo
viên hồn tồn có thể biến nó thành một mảnh đất hữu dụng để tạo các tình huống có vấn
đề, ứng dụng phương pháp tranh biện nhằm phát huy khả năng tương tác và sáng tạo của
học sinh. Dưới đây là một số gợi ý:
Nội
dung
Đối

Tranh biện theo
nhóm
Nhóm1 Nhóm 2

Tranh biện giữa HS và
HS


Tranh biện giữa GV và
HS

thoại với Ủng hộ Phản đối HS1: Nhận xét của Đế GV đặt vấn đề: Nhận xét
Đế

quan

quan

Thích: “Được sống đã là về quan niệm sống của

Thích

niệm

niệm

một hạnh phúc” cũng có Hồn Trương Ba, có 2 ý

sống

sống của một phần đúng. Ý kiến của kiến:

của Đế Đế

bạn như thế nào?

Thích


HS2: Đưa ra ý kiến của sống đúng đắn, sâu sắc,

Thích

mình, chứng minh cụ thể.

YK1: Đó là quan niệm

kết quả q trình tự ý thức

HS1: Triết lý sống của Hồn của Hồn Trương Ba.
Trương Ba khơng có gì là YK2: Quan niệm sống của
mới đối với con người Hồn Trương Ba chỉ đúng
đương đại. Theo bạn có với cá nhân nhân vật mà
18


đúng không?

thôi.

HS2: Phản biện

-> HS tranh biện kết hợp 2
ý kiến.

Văn học Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung đã truyền tải khát vọng được
trường sinh bất lão của người qua cái hình thức đầu thai, truyền kiếp, qua sự màu nhiệm
của trái đào tiên hay viên linh đan, khát vọng đó của lồi người là chân chính và hồn tồn

đáng trân trọng. Chính Trương Ba cũng khơng phải thánh thần, giống như tất cả mọi người,
ông cũng mang trong mình một khát khao mãnh liệt là được sống, được tồn tại trên cuộc
đời. Bởi vậy, khi có một cơ hội sống bày ra trước mắt, Trương Ba cũng muốn nắm lấy để
nối dài sự sống hữu hạn của mình. Quan niệm sống của Đế Thích: “Được sống đã là một
hạnh phúc” cũng có một phần đúng nhưng chưa hồn tồn hợp lý bởi vì sống như thế nào
mới là quan trọng. Lưu Quang Vũ tiếp tục đối thoại với tư tưởng đã mặc nhiên tồn tại,
được thừa nhận trong đời sống cũng như trong văn học từ ngàn năm nay để khẳng định: Ý
nghĩa của sự sống không phải do độ dài ngắn quyết định mà quan trọng là chất lượng của
cuộc sống ấy như thế nào.
Với cái kết của tác phẩm, khi Trương Ba chết để đổi lại sự sống cho anh hàng thịt,
cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người xung quanh thì
câu hỏi Sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng: Một sự sống chỉ
thực sự có ý nghĩa khi con người khơng chỉ biết sống vì mình mà cịn biết sống, biết vun
đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Qua hành động từ
chối này, Trương Ba vừa cho thấy sự cao đẹp của tâm hồn khi không tham lam sống tiếp,
vừa cho thấy ông nắm được quy luật của nhân sinh. Trương Ba ý thức về cái chết một cách
rất đúng đắn: cả sự sống và cái chết đều có ý nghĩa của nó. Vấn đề khơng phải là vì sợ chết
mà cứ bám lấy sự sống, ngay cả khi sự sống ấy vô nghĩa; mà quan trọng là phải dũng cảm
lựa chọn, dũng cảm chết nếu nó làm cho mọi thứ trở nên ý nghĩa hơn- chết để được sống là
chính mình. Rõ ràng ở đây, Lưu Quang Vũ đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Hình
tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh
phúc của người khác. Ở khía cạnh này, chúng ta thấy tư tưởng của Lưu Quang Vũ dù tiến

19



×