Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Đấu tranh phòng chống buôn lậu của cục hải quan bình định thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.5 KB, 118 trang )

1

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn buôn lậu, gian lận thơng mại ở nớc ta trong những năm gần đây
diễn biến phức tạp, mang tính thời sự; có xu hớng gia tăng về quy mô, chủng
loại hàng hóa, thủ đoạn ngày càng tinh vi; có nơi, có lúc trở nên nóng bỏng,
quyết liệt. Buôn lậu thật sự trở thành "quốc nạn", gây trở ngại cho công cuộc
xây dựng và phát triển đất nớc.
Thực trạng trên đà và đang là những vấn đề bức xúc của toàn xà hội.
Chính vì vậy Đảng, Nhà nớc đà đề ra nhiều chủ trơng chính sách để ngăn
chặn, phòng ngừa "hiểm họa" này. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ơng Đảng (khóa VIII) đà nhấn mạnh: "Tăng cờng sự phối hợp
giữa các cơ quan chức năng, phát huy vai trò của nhân dân để tiến hành có
hiệu quả những biện pháp chống buôn lậu trên các tuyến biên giới, vùng biển
và trên thị trờng nội địa. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi buôn lậu,
gian lận thơng mại hoặc tiếp tay, bao che cho buôn lậu". Thủ tớng Chính phủ
cũng đà có Chỉ thị số 853/CT-TTg ngày 16/10/1997 đánh giá: "Buôn lậu đang
diễn biến hết sức nghiêm trọng, đà gây ra những hậu quả nguy hại về kinh tế xà hội, cản trở quá trình phát triển lành mạnh của kinh tế đất nớc".
Để giải quyết "quốc nạn" này, Đảng và Nhà nớc xác định đây là nhiệm
vụ trọng tâm, thờng xuyên, cấp bách và lâu dài; đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống nhằm từng bớc ngăn chặn
và tiến tới đẩy lùi tệ nạn buôn lậu. Cuộc đấu tranh này chỉ có thể giành thắng
lợi nếu đợc phối hợp triển khai mạnh mẽ trên địa bàn toàn quốc và trên từng
địa bàn cụ thể, trong đó đấu tranh phòng chống buôn lậu trên từng địa bàn có
ý nghĩa quan trọng.
Là một tỉnh nằm ở vùng duyên hải miền Trung Trung bộ, Bình Định
có đờng sắt Bắc - Nam và quốc lộ 1 đi qua, có quốc lộ 19 nèi liỊn ba tØnh T©y


2



Nguyên với các tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia, có sân bay, ga tàu lửa, cảng biển
Quy Nhơn. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xÃ
hội, nhng cũng chính nơi đây từng gây nhức nhối trong d luận về tình trạng
buôn lậu hàng của thủy thủ tàu viễn dơng trong những năm 1990. Trớc tình
hình buôn lậu diễn biến phức tạp trên địa bàn, trong những năm qua dới sự chỉ
đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bình Định và Tổng
cục Hải quan (TCHQ), công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu của Cục Hải
quan Bình Định (HQBĐ) đà đạt đợc những thành tựu nhất định, tuy nhiên kết
quả cha cao, tình trạng buôn lậu tuy có giảm về số vụ, nhng thủ đoạn ngày
càng tinh vi gây không ít khó khăn cho công tác phòng chống.
Để nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những giải pháp hữu
hiệu khắc phục tình trạng buôn lậu trên địa bàn Bình Định, tác giả chọn đề tài:
"Đấu tranh phòng chống buôn lậu của Cục Hải quan Bình Định - thực
trạng và giải pháp" nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận và thực
tiễn đang đặt ra ở Bình Định hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh phòng chống buôn lậu là một trong những vấn đề đợc Đảng và
Nhà nớc rất quan tâm, đà ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác này; trong
lĩnh vực khoa học pháp lý đà có không ít công trình khoa học của các nhóm
tác giả, cá nhân đợc công bố; có liên quan đến vấn đề đấu tranh phòng chống
buôn lậu, đáng lu ý các công trình nghiên cứu dới đây:
Vũ Ngọc Anh, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Hải quan ở nớc ta
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 1996; PTS. Lê Thanh Bình, Chống
buôn lậu và gian lận thơng mại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; ThS.
Lê Văn Tới, Buôn lậu và chống buôn lậu, nhận diện và giải pháp, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000; GS.TS Nguyễn Xuân Yêm - PGS.TS Nguyễn Hòa
Bình (chủ biên), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an nhân dân (tài
liệu lu hành nội bộ), 2003; TS. Đỗ Đình Hòa, Tổ chức hoạt động điều tra của
lực lợng cảnh sát nhân dân, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 2003.



3

Các công trình, bài viết trên đây tập trung chủ yếu nghiên cứu và làm
rõ về mặt lý luận cũng nh thực tiễn những vấn đề về buôn lậu trên phơng diện
cả nớc, nhng cho đến nay cha có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện cả
về lý luận và thực tiễn dới giác độ khoa học luật học về đấu tranh phòng,
chống buôn lậu của Cục HQBĐ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích của luận văn
Đề xuất các giải pháp tăng cờng công tác đấu tranh phòng chống buôn
lậu của Cục HQBĐ hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát những vấn đề lý luận về buôn lậu và đấu tranh chống buôn lậu.
- Làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan trong
đấu tranh phòng chống buôn lậu.
- Đánh giá thực trạng đấu tranh phòng chống buôn lậu ở Cục HQBĐ
trong thời gian qua; đề xuất những giải pháp nhằm tăng cờng công tác đấu
tranh phòng, chống buôn lậu của Cục HQBĐ trong thời gian tới.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn công tác đấu tranh phòng
chống buôn lậu của Cục HQBĐ trong giai đoạn 5 năm từ năm 1999 đến năm
2003 và đề xuất các giải pháp tăng cờng công tác đấu tranh phòng chống buôn
lậu của Cục HQBĐ trong những năm 2005 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh; đờng lối, quan điểm của Đảng về nhà nớc và pháp luật đối với hoạt
động Hải quan làm cơ sở lý luận để nghiên cứu.



4

Tác giả sử dụng các phơng pháp: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp;
cụ thể: phơng pháp luật học so sánh, phơng pháp thống kê, phân tích, phơng
pháp ®iỊu tra, g¾n lý ln víi thùc tiƠn, ®Ĩ chän läc tri thøc khoa häc cịng nh
kinh nhiƯm thùc tiƠn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ luận văn đề ra.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả tham khảo, kế thừa có chọn lọc các
công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đến lĩnh vực luận văn đề cËp.
6. ý nghÜa lý ln vµ thùc tiƠn cđa ln văn
- Luận văn không những góp phần bổ sung làm sáng tỏ thêm về mặt lý
luận đối với công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu trong cả nớc nói chung
và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng, mà còn giúp cho cán bộ,
công chức Cục HQBĐ làm tốt trách nhiệm của mình trong việc giải quyết vấn
đề buôn lậu trong phạm vi chức năng nhiệm vụ luật định.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đổi mới tổ chức hoạt động
của Cục HQBĐ đề ra phơng án cụ thể, trớc mắt và lâu dài nhằm tăng cờng đấu
tranh phòng chống buôn lậu trên địa bàn Bình Định.
- Đề tài này góp phần cùng với Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng
Cục Hải quan) xây dựng phơng án phòng chống buôn lậu cho toàn ngành;
đồng thời làm cơ sở để vận dụng chỉ đạo cho các Cục Hải quan địa phơng về
đấu tranh phòng chống buôn lậu trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chơng, 9 tiÕt.


5


Chơng 1
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về công tác đấu tranh
Phòng chống buôn lậu của ngành hải quan

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về buôn lậu

1.1.1. Khái niệm buôn lậu
Buôn lậu là hiện tỵng kinh tÕ - x· héi xt hiƯn cïng víi hàng rào thuế
quan, nó tồn tại phát triển trong hoạt động thơng mại của xà hội loài ngời.
Là một hiện tợng kinh tế - xà hội tiêu cực, buôn lậu xuất hiện cùng với
sự ra đời của bộ máy nhà nớc và hàng rào thuế quan quản lý hoạt động thơng
mại ở mỗi quốc gia; là hoạt động kinh tế bất hợp pháp, mục đích là làm sao
đạt đợc lợi nhuận cao nhất.
Việc nhìn nhận đánh giá hiện tợng buôn lậu ở từng giai đoạn lịch sử và
mỗi quốc gia cũng khác nhau.
ở Việt Nam thuật ngữ "buôn lậu" đà có từ lâu trong dân gian và đà đợc các nhà ngôn ngữ học Việt Nam định nghĩa: "buôn lậu là các hành vi buôn
bán hàng trốn thuế hoặc hàng quốc cấm" hoặc là "mua bán những mặt hàng
cấm và trốn đóng thuế theo quy định" có nghĩa là trong kinh doanh buôn bán,
nếu có các hành vi trốn lậu, gian lận... thì đều đợc xem là buôn lậu. Quan
niệm trên đây đến nay vẫn tồn tại phổ biến trong nhËn thøc cđa nhiỊu ngêi
ViƯt Nam. Nãi vỊ bu«n lËu ngời ta nghĩ ngay đến việc buôn bán hàng quốc
cấm, trốn lậu thuế, buôn bán không trong sáng, buôn gian bán lậu.
Khác với nhận thức trên, trong Từ điển tiếng Anh, buôn lậu (smuggling)
đợc giải thích là: "hành vi mang hàng hóa một cách bí mật và không hợp pháp
vào hoặc ra khỏi một nớc mà không chịu trả thuế quan".
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam buôn lậu là:


6


1. Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng
hóa hoặc ngoại tệ, kim khí và đá quý, những vật phẩm thuộc di tích
lịch sử, văn hóa mà Nhà nớc cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc
buôn bán hàng hóa nói chung qua biên giới mà trốn thuế và trốn sự
kiểm tra của Hải quan.
2. Hành vi buôn bán trốn thuế, lậu thuế những hàng hóa ở
trong níc mµ Nhµ níc cÊm kinh doanh [48, tr 291].
Tỉ chức Hải quan thế giới WCO (World Customs Organization) họp
tại thủ đô Nairobi của nớc Cộng hòa Kênia ngày 09/6/1977 thống nhất đa ra
khái niệm (còn gọi là công ớc Nairobi) nh sau: "Buôn lậu là gian lận thơng mại
nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi
phơng tiện trong việc đa hàng hóa lén lút qua biên giới".
Buôn lậu xuất hiện trớc hết là do những mâu thuẫn cơ bản của sự phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xà hội; đó là sự lạc hậu về kinh tế, tình trạng
không đồng nhất giữa các nớc, nhất là các nớc trong khu vực về sức sản xuất,
nhu cầu tiêu dùng và giá cả hàng hóa, đặc biệt là trong điều kiện quốc tế hóa
việc phân công lao động sản xuất mang tính chuyên môn hóa đà làm tiết kiệm
chi phí sản xuất, nâng cao chất lợng sản phẩm, giá thành hạ, sự chênh lệch
quá lớn về giá thành sản phẩm giữa các nớc trong khu vực tạo ra lợi nhuận
siêu ngạch cho ngời làm lu thông hàng hóa. Đây chính là điều kiện sâu xa làm
cho buôn lậu tồn tại và phát triển nh một tất yếu khách quan.
Với bản chất là một hoạt động kinh tế bất hợp pháp mang tính xà hội,
buôn lậu luôn chịu sự tác động của các quy lt kinh tÕ. ViƯc quan niƯm vỊ bu«n
lËu cđa từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện chính trị, văn hóa, xÃ
hội cũng khác nhau. Những nớc có nền kinh tế phát triển thì khuyến khích
xuất khẩu hàng hóa có sức cạnh tranh ra nớc ngoài để chiếm thị trờng, mang lại
lợi nhuận cao luôn đợc các quốc gia đó quan tâm; chỉ ngăn chặn những hàng
hóa nhập khẩu có ảnh hởng xấu đến xà hội nh ma tóy, chÊt nỉ....



7

Đối với các nớc nghèo, sức sản xuất thấp, giá cả hàng hóa cao, nhu cầu
tiêu dùng của xà hội lớn thì buôn lậu và chống buôn lậu là vấn đề hết sức nan giải.
Xuất phát từ những yếu tố khách quan của hoạt động buôn lậu, cũng
nh thực tiễn tình hình và yêu cầu đấu tranh chống buôn lậu ở Việt Nam, ta có
thể đa ra khái niệm buôn lậu nh sau: Buôn lậu là buôn bán trái phép qua biên
giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc các vật
phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa.
Theo khái niệm trên buôn lậu có phạm trù điều chỉnh rộng hơn nhiều
so với tội buôn lậu. Sự khác nhau đó không phải là về hành vi mà là ở chỗ hậu
quả gây ra cho xà hội của hành vi "buôn lậu trái phép qua biên giới" nh thế
nào, tức là nếu hành vi "buôn lậu trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt
Nam, ngoại tệ, kim khí quí, đá quý hoặc các vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn
hóa" cha hội tụ đủ các điều kiện pháp luật hình sự quy định (hậu quả gây ra
cho xà hội cha đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự) thì xử lý hành
chính. Ngợc lại, hành vi đó xâm hại các quan hệ xà hội mà pháp luật hình sự
bảo vệ thì đợc điều chỉnh tại Điều 153 của Bộ luật hình sự (BLHS).
Một số vấn đề đặt ra ở đây là phân biệt giữa hành vi buôn lậu và hành
vi gian lận thơng mại.
Gian lận thơng mại là hành vi gian lận thể hiện thông qua mua bán,
trao đổi, dịch vụ hàng hóa; mục đích của hành vi này nhằm thu lợi bất chính.
Cụ thể đối tợng lừa dối cơ quan chức năng nhà nớc để thực hiện hành vi gian
lận của mình, nh hµng hãa nhiỊu khai Ýt, Ýt khai nhiỊu hµng có thuế xuất cao
khai thấp, khai không đúng chủng loại... nhằm để trốn thuế.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về chống gian lận thơng mại tại Brúcxen (Bỉ) các nớc thành viên tổ chức WCO đà đa ra khái niệm gian lận thơng
mại trong lĩnh vực hải quan nh sau:
Gian lận thơng mại trong lĩnh vực hải quan là hành vi vi
phạm pháp luật hải quan và các quy định liên quan khác nhằm đạt



8

mục đích trốn tránh việc nộp thuế hải quan, phí và các khoản thu
khác đối với việc di chuyển hàng hóa trong thơng mại; tiếp nhận việc
hoàn trả trợ cấp hoặc phụ cấp cho hàng hóa không thuộc đối tợng đó
(mạo nhận); cố ý đoạt đợc lợi thế thơng mại bất hợp pháp, gây tác hại
cho các nguyên tắc và tập tục cạnh tranh thơng mại chân chính.
Công ớc Nairôbi cũng đa ra khái niệm buôn lậu là gian lận thơng mại
nhằm che giấu sự kiểm tra, kiểm soát của Hải quan bằng mọi thủ đoạn, mọi
phơng tiện trong việc đa hàng hóa lén lút qua biên giới.
Theo các định nghĩa trên của Tổ chức WCO: Buôn lậu và gian lận thơng
mại có sự khác nhau đó là, gian lận thơng mại là cố ý làm trái các quy định
của Nhà nớc, hoặc lợi dụng sơ hở của chính sách, pháp luật và công tác quản
lý của cơ quan chức năng để thực hiện hành vi gian dối công khai nhằm thu
lợi bất chính; còn buôn lậu trớc hết phải là hành vi gian lận thơng mại nhng ở
mức cao hơn (hành vi, thủ đoạn, tính chất...). Nh vậy, khái niệm gian lận thơng mại rộng hơn, bao hàm khái niệm buôn lậu.
Điều 153 BLHS năm 1999 xác định tội buôn lậu là "buôn bán trái phép
qua biên giới thuộc một trong các trờng hợp sau đây " [39, tr 106]:
- Buôn bán trái phép hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý,
đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa; các loại hàng cấm.
- Không khai báo hoặc khai báo hàng hóa một cách gian dối, hoặc
giấu giếm hàng hóa, tiền tệ...
- Sử dụng các giấy tờ giả mạo của các cơ quan có thẩm quyền, lén lút
không qua cửa khẩu để trốn tránh sự phát hiện của cơ quan nhà nớc.
Theo quy định này, tội buôn lậu bao hàm cả hành vi gian lận trong
lĩnh vực thơng mại: không khai báo, hoặc khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ,
giấu giếm hàng hóa v.v... qua đó ta có thể hiểu: gian lận thơng mại trong lĩnh
vực hải quan là nội dung, một phần cđa téi bu«n lËu.



9

Nh vậy việc quy định trong văn bản pháp luật Việt Nam có phần không
giống với quy định của tổ chức WCO. Tổ chức WCO cho rằng: buôn lậu là một
nội dung của gian lận thơng mại, trong khi đó pháp luật Việt Nam định nghĩa
buôn lậu và gian lận thơng mại riêng biệt, đồng thời coi gian lận thơng mại là
một dạng của buôn lậu. Việc không thống nhất này gây rất khó khăn trong
việc giải quyết vi phạm phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ nhận thức về buôn lậu và gian lận thơng mại ta có thể phân biệt hai
hành vi này nh sau:
Mặc dù mục đích, hậu quả của hai hành vi khá giống nhau nhng nội
dung và hình thức, thủ đoạn của buôn lậu và gian lận thơng mại hoàn toàn
khác nhau. Trong khi buôn lậu thu lợi bằng cách trốn tr¸nh khai b¸o, cã khi
lÐn lót vËn chun tr¸i phÐp hàng hóa qua biên giới để trốn thuế, thì gian lận
thơng mại là hành vi công khai xuất trình hồ sơ và làm các thủ tục hàng hóa
xuất nhập khẩu (XNK) trớc sự chứng kiến của cơ quan quản lý.
Bản chất của buôn lậu là mạo hiểm, sử dụng mọi thủ đoạn che giấu và
dùng các phơng tiện cần thiết để đa hàng qua biên giới; còn bản chất của gian
lận thơng mại là lợi dụng chính sách, luật lệ của Nhà nớc để hợp thức hóa trái
phép hàng hóa XNK nhằm thu lợi bất chính. Biểu hiện của hoạt động buôn lậu
thờng là lén lút, thậm chí liều lĩnh; còn gian lận thơng mại thờng biểu hiện sự
ngoan ngoÃn, tuân thủ các quy định, nhng bên trong che giấu hành vi bất chính.
Vì vậy cuộc đấu tranh chống gian lận thơng mại thực sự là cuộc đấu trí, đấu lực
cam go, giữa các cơ quan quản lý nhà nớc và những kẻ bất chính.
Dấu hiệu để nhận biết buôn lậu là hành vi trốn tránh sự kiểm tra, kiểm
soát của cơ quan chức năng, không đăng ký việc buôn bán với cơ quan nhà nớc; còn gian lận thơng mại là hành vi gian dối trong khai báo làm thủ tục hải
quan để tránh việc kiểm tra, kiểm soát của Hải quan; công khai vận chuyển
hàng hóa XNK qua cửa khẩu, do đó nhận biết khó khăn hơn nh núp bóng cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nớc, do vậy cần phải kiểm tra cụ thể, tỉ mỉ

(cân, đong, đo, đếm, kiểm tra kỹ hồ sơ) mới phát hiện đ) mới phát hiện đợc.


1
0
Xử lý hnh vi buôn lậu đnh vi buôn lậu đợc qui định cụ thể trong Luật hình sự, Luật
Hải quan, các văn bản pháp luật khác; còn hành vi gian lận thơng mại không
những khó khăn trong nhận biết mà còn phức tạp khi xử lý vì hiện nay cha có
văn bản của cấp có thẩm quyền hớng dẫn thống nhất.
Thực tế đặt ra đòi hỏi pháp luật sớm xác định rõ để phân biệt hai hành
vi này, đảm bảo cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh xử lý đối với hành vi tội
buôn lậu cũng nh gian lận thơng mại có hiệu quả.
1.1.2. Nguồn gốc, bản chất của buôn lậu
XÃ hội loài ngời cần đến hàng hóa để tiêu dùng và thật sự đợc thỏa
mÃn nhờ sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia.
Lịch sử hàng ngàn năm trớc đây, một mặt thị trờng là sự gặp gỡ trao
đổi sản phẩm của các cộng đồng riêng lẻ, tự cung tự cấp, chủ yếu là trao đổi
với nhau những sản phẩm d thừa thông dụng, chứ không phải là những yếu tố
quan trọng tạo nên sự cân bằng bên trong của mỗi cộng đồng; mặt khác "lúc
đó những ngời thực hiện trao đổi ấy lại coi lý do kinh tế không quan trọng
bằng các quy định về tôn giáo, tập quán và dòng họ ) mới phát hiện đ đang chi phối cuộc
sống của họ" [4, tr. 10]. Tự cung tự cấp, trao đổi sản phẩm vốn có từ lâu và
gần gũi đối với đời sống sinh hoạt trong buổi bình minh của xà hội loài ngêi.
Cïng víi quy lt ph¸t triĨn kh¸ch quan cđa x· hội và quy luật kinh
tế đà làm nảy sinh các quan hệ buôn bán, thơng mại. Khi sản xuất hàng
hóa phát triển đến một giai đoạn nhất định thì cần có sự trao đổi, "không
những trong nội bộ và ở biên giới của Bộ lạc, mà cả với những nớc ở hải ngoại
nữa" [31, tr. 234] và thơng nghiệp ra đời - "một giai cấp không còn tham gia sản
xuất nữa mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm đà xuất hiện, đó là những thơng nhân" [31, tr. 246] - nó tồn tại đà "tạo khả năng có quan hệ thơng nghiệp vợt
ra ngoài phạm vi của khu vực gần gũi nhất, một khả năng mà sự thực hiện tùy

thuộc vào những phơng tiện giao thông hiện có, vào tình trạng an ninh công
cộng trên đờng đi do những quan hệ chính trị quyết định (thời Trung cổ th¬ng


1
1
nhân thờng đi thành từng đoàn có vũ trang) và còn phụ thuộc vào sự phát triển
nhiều hay ít của những nhu cầu của địa phơng mà sự giao tiếp có thể với tới đợc" [30, tr.76], Vì vậy, "cùng với thành thị đà xuất hiện sự cần thiết phải có sự
cai trị, cảnh sát, thuế khóa v.v..." [30, tr. 72].
Nói về kinh doanh, trao đổi hàng hóa, Aristốt (383 - 322 tr. CN) - nhµ
t tëng lín nhÊt thêi cổ đại - ông đà phân biệt trong kinh doanh có hai loại:
Một là, loại "kinh tế": giá trị sử dụng có tác dụng kích thích là chủ yếu, việc
trao đổi chỉ là phơng tiện để tổ chức kinh tế tốt hơn. Loại này gồm thơng
nghiệp trao đổi (trao đổi tự nhiên hàng - hàng) và tiểu thơng nghiệp hàng hóa
hoạt động, ông cho là loại này hợp lẽ tự nhiên và hợp quy luật. Hai là, loại
"sản xuất ra của cải": có mục đích làm giàu và tăng khối lợng tiền tệ, và tiền
tệ là mục đích cuối cùng, là sự bắt đầu và kết thúc của vòng chu chuyển, là
mục đích chính của lu thông hàng hóa. Ông cho loại này là trái quy luật, vì nó
làm cho tiền tệ trở thành mục đích cuối cùng, thành phơng tiện làm giàu và dễ
làm cho một số ngời bị đồng tiền nô lệ, buôn bán bất chính. Mác viết:
Lợi nhuận mà thích đáng thì t bản trở nên can đảm, lợi nhuận
mà đảm bảo đợc 10% thì ngời ta có thể dùng đợc t bản ở khắp nơi,
đảm bảo đợc 20% thì nó hăng máu lên, đảm bảo đợc 50% thì nó táo
bạo không biết sợ là gì, đảm bảo 100% thì nó chà đạp lên tất cả mọi
luật lệ, đảm bảo đợc 300% thì nó chẳng từ một tội ác nào mà không
dám, thậm chí có thể bị treo cổ nó cũng không sợ [29, tr. 285].
Hơn nữa, trong thơng trờng sự cạnh tranh tự do không giới hạn, thờng
là sự đối đầu giữa những kẻ mạnh và kẻ yếu tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng cạnh
tranh, hậu quả sẽ là sự bần cùng hóa và việc gạt ra ngoài lề xà hội một số tác
nhân kinh tÕ. NÕu ®Ĩ cho sù tù do ®ã tiÕp diƠn sẽ làm rối loạn các mối quan hệ

kinh tế - x· héi vµ tÊt u sÏ lµm cho nỊn kinh tế kiệt quệ, không còn tái tạo
nổi sự trao đổi hàng hóa. Chính vì vậy, Nhà nớc cần phải can thiệp nhằm cân
đối, kiềm chế, điều tiết và duy trì "một thế bình quân hợp lý nhất định giữa
nguyên tắc tự do và nguyên tắc bình đẳng" [4, tr. 12] và một trong những biện


1
2
pháp của sự can thiệp, điều tiết đó chính là bằng chính sách thuế và các biện
pháp khác.
Việc Nhà nớc thành lập các cơ quan Thuế, Hải quan để góp phần kiểm
tra hàng hóa, thu thuế XNK nhằm tăng nguồn thu cho ngân khố, đồng thời là
công cụ để thỏa thuận trao đổi thơng mại giữa các quốc gia, bảo vệ sản xuất
nội địa. Nhà nớc càng ngày cần những khoản tiền nhất định để bù đắp chi tiêu,
nuôi bộ máy "dờng nh đứng trên xà hội", trong khi đó buôn bán ngày càng
khó khăn do quy định của chế độ phong kiến buộc các thơng nhân phải "thiết
kế những con đờng vòng" nhằm tránh đóng thuế. "Đó là các đờng dây buôn
bán nằm ngoài sự kiểm soát của các quốc gia khác nhau". Đây chính là nguồn
gốc sâu xa của buôn lậu.
Nh vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế, chính trị, xà hội; buôn lậu
đà xuất hiện và tồn tại nh là bạn đồng hành với sự phát triển của thơng mại.
Lịch sử chứng minh nạn buôn lậu đà xuất hiện từ thời cổ đại. ở Ai Cập
vào thế kỷ XVII - XVI tr. CN khi các đoàn thơng nhân mang hàng hóa lên đờng
buôn bán ở nớc khác thờng phải thuê đội bảo vệ đi cùng và trả một khoản tiền
lớn, sau này để thay việc chi phí cho các đội bảo vệ đắt tiền, ngời ta đà bỏ tiền ra
đóng một thứ thuế đặc biệt - mà tiền thân là thuế hải quan sau này - một thứ thuế
"bắt nguồn từ những khoản cống nạp mà bọn chủ phong kiến bắt các thơng nhân
đi qua lÃnh thổ của mình phải nộp để khỏi bị cớp bóc, khoản thuế đó sau này
cũng đợc thành thị đặt ra, và khi các Nhà nớc hiện đại xuất hiện, thì khoản đó trở
thành thủ đoạn thuận tiện nhất để thu tiền cho kho bạc" [4, tr. 83]. Hoặc nh ở

thời Hy Lạp cổ đại (thế kỷ VI tr. CN), các lÃnh chúa cát cứ tự đặt ra các luật lệ
về thuế đánh vào nhiều mặt hàng phải di chuyển qua lÃnh thổ của mình; nh "thuế
hải quan đợc quy định đối với hàng nhập khẩu là bằng 1/10 trị giá của hàng, thậm
chí tồn tại cả thuế hải quan ®èi víi viƯc xt khÈu n« lƯ" [45, tr. 13].
ë Trung Qc, mét trong nh÷ng níc sím nỉi tiÕng vỊ nghề buôn, hoạt
động kinh doanh của thơng nhân Trung Quốc xuất hiện từ thời tiền Tần xa xa,
các quốc gia phong kiến lúc bấy giờ đà định ra những chính sách bất lợi cho th-


1
3
ơng nhân. "Ngay từ thời Hán, chính quyền đà thi hành một số biện pháp để
hạn chế hoạt động của thơng nhân, ngăn chặn con đờng kiếm lời của họ, đặt ra
đủ loại thuế má bắt thơng nhân phải đóng, làm đủ mọi cách để họ không có lÃi
hay không đợc lÃi bao nhiêu..." [36, tr. 266]. Để có lợi nhuận họ bất chấp tất
cả: "Ai cũng biết là phạm pháp, nhng ngời đi trớc, ngời sau nối tiếp, cực khổ
cũng cam lòng, dần dần thành tập quán. Và trong các đời Chính Đức, Gia Tĩnh
(1506 - 1556), việc ra biển buôn lậu) mới phát hiện đ đà trở thành phong tơc" [36, tr. 292].
ë ViƯt Nam tõ thÕ kû X, khi đất nớc bớc vào kỷ nguyên độc lập tự
chủ, triều đại nhà Lý đà quan tâm phát triển sản xuất và mở mang giao thơng
với bên ngoài, buôn lậu và chống buôn lậu đà đợc đặt ra. Đến các triều đại
Nhà Trần, Lê, Nguyễn sau này công tác chống buôn lậu qua biên giới ngày
càng đợc chú trọng hơn. Cụ thể ngay từ năm 1149, Vua Lý Anh Tông đà định
ra chức án sát để kiểm soát việc buôn bán của tàu thuyền nớc ngoài tại các
"Bạc dịch trờng"; thời nhà Lê, triều đình đặt ra chức Tuần ty để thu thuế ở các
cửa ải và chợ búa; lúc đó cả nớc có đến 4.000 Tuần ty, chứng tỏ việc kiểm
soát, thu thuế, ngăn chặn buôn lậu đà đợc coi trọng.
Buôn lậu nh một căn bệnh có tính lịch sử, do đó các nhà nớc phong
kiến trớc đây cũng nh giai đoạn sau này đà chú trọng đến công tác phòng
chống buôn lậu. Trong thời kỳ chống Pháp, hoạt động buôn lậu vẫn diễn ra

giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Đến thời kỳ chống Mỹ, khi cả nớc đang
tập trung sức lực cho chiến trờng miền Nam thì ở miền Bắc buôn lậu hàng
ngoại, thuốc phiện vẫn diễn ra. Từ khi đất nớc thống nhất, đặc biệt là sau Đại
hội lần thứ VI của Đảng, với chính sách mở cửa làm cho đời sống của nhân
dân đợc nâng cao, tình trạng buôn lậu và các tệ nạn khác cũng nảy sinh và
diễn biến ngày càng phức tạp.
Nhận diện và hiểu rõ nguồn gốc buôn lậu có ý nghĩa quan trọng,
không những giúp chúng ta lý giải vì sao buôn lậu tồn tại dai dẳng đến ngày
nay - cho dù các quốc gia trên thế giới đều coi buôn lậu nh là một kiểu kinh
doanh không sòng phẳng, bất hợp pháp và tuyên bố bài trừ - mà còn chỉ ra nội


1
4
dung cốt lõi của buôn lậu để nhận thức sâu sắc về nó, không nhầm lẫn buôn
lậu với các tội phạm kinh tế khác, từ đó đề ra phơng pháp đấu tranh phòng
chống có hiệu quả hơn.
1.1.3. Thủ đoạn buôn lậu
Lịch sử quan hệ buôn bán giữa các quốc gia tõ tríc ®Õn nay, theo quy
lt võa trao ®ỉi nhng cũng vừa cạnh tranh gay gắt, bên cạnh đó các đối tợng
buôn lậu luôn tìm mọi thủ đoạn để kiếm lời bất hợp pháp:
Một là, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; hoặc thông qua
các cửa khẩu đờng bộ, đờng biển, đờng hàng không, đờng bu điện nhng giấu
giếm tinh vi, trốn tránh sự quản lý của cơ quan chức năng.
Hai là, khai báo không trung thực về hàng hóa thực xuất, nhập khẩu: trị
giá hàng hóa về số lợng, trọng lợng và chất lợng hàng hóa, xuất xứ hàng hóa.
Ba là, xuất trình không đúng chủng loại hàng.
Bốn là, xuất trình giấy tờ, chứng từ hàng hóa xuất, nhập khẩu không
đầy đủ, thiếu chân thực.
ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng, kinh tế mới phát triển, luật

pháp cha hoàn chỉnh, quản lý kinh tế - xà hội còn bất cập nên các thủ đoạn
buôn lậu cũng có những đặc điểm riêng. Qua khảo sát những năm gần đây cho
thấy bọn buôn lậu dùng các phơng thức thủ đoạn sau:
Trên tuyến thơng mại, đối tợng thờng lợi dơng chÝnh s¸ch cho phÐp nhËp
khÈu linh kiƯn CKD, IKD, SKD... đợc hởng thuế suất thấp; các chính sách cho
đem theo hàng hóa của những ngời học tập, lao động ở nớc ngoài, tiêu chuẩn
hàng hóa đợc phép mua đối với thuyền viên, chế độ quà biếu; khai báo sai tên
hàng, số lợng, chủng loại; xuất xứ hàng hóa; hoặc lợi dụng quy định cho phép
hàng chuyển tiếp, hàng chuyển khẩu, chế độ kiểm hóa theo yêu cầu của khách
hàng; kiểm hóa theo tỷ lệ phần trăm; móc nối với một số phần tử thoái hóa
trong cơ quan chức năng của nh Biên phòng, Hải quan v.v...


1
5
Trên tuyến biển, đối tợng buôn lậu hoạt động bán công khai chủ yếu là
các thủy thủ tàu viễn dơng, lợi dụng các phơng tiện của Nhà nớc để buôn lậu.
"Bọn buôn lậu triệt để lợi dụng các phơng tiện của Nhà nớc để vận chuyển
hàng hóa. Qua khảo sát cho thÊy 80% sè vơ bu«n lËu do sù tham gia của các
doanh nghiệp nhà nớc và của các lực lợng vũ trang; trong đó 40% là trực tiếp
buôn lậu và 60% là do t nhân núp bóng để buôn lậu" [56, tr. 443], hoặc lợi
dụng các chế độ chính sách quy định về hành lý, chế độ của những ngời thờng
xuyên làm việc trên các tàu biển để buôn lậu.
Khi bị truy bắt gắt gao chúng chuyển sang hoạt động bí mật; cụ thể
các tàu chở hàng lậu ở nớc ngoài về thờng trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát
của cơ quan chức năng, lén lút đa hàng vào bờ; hàng hóa thờng là hàng cấm,
hàng có giá trị kinh tế cao, lÃi suất lớn. Ngoài ra, chúng còn tổ chức lực lợng
ngầm theo dõi, nắm quy luật hoạt động của các lực lợng Công an, Hải quan,
Quản lý thị trờng, Biên phòng v.v... nắm giờ xuất phát và hành trình của tàu
tuần tra, chống buôn lậu của các cơ quan chức năng để đối phó.

Tóm lại, vì lợi nhuận đối tợng buôn lậu không từ mọi thủ đoạn nào và
chống đối ngày càng quyết liệt.
1.1.4. Nguyên nhân và hậu quả của buôn lậu
1.1.4.1. Nguyên nhân và điều kiện buôn lậu tồn tại
Những năm gần đây tình hình buôn lậu đà trở thành mối quan tâm của
toàn xà hội, đà và đang có những diễn biến phức tạp, ngày càng nghiêm trọng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là các Bộ, ngành,
ủy ban nhân dân các cấp cha nhận thức đầy đủ về nguy cơ và tác hại
lâu dài của tệ nạn buôn lậu, đà buông lỏng quản lý nhà nớc, cha có
biện pháp kiên quyết, triệt để nhằm đấu tranh có hiệu quả với nạn
buôn lậu. Nhiều trờng hợp vì quyền lợi cục bộ, lÃnh đạo một số Bộ,
ngành, địa phơng đà làm ngơ, thậm chí tiếp tay cho buôn lậu. Các
lực lợng làm nhiệm vụ chống buôn lậu còn yếu kém, thiếu phơng


1
6
tiện, hoạt động tản mạn, cha có sự phối hợp với nhau. Một bộ phận
cán bộ, nhân viên có biểu hiện tiêu cực. Việc xét xử để xử lý các vụ
vi phạm hành vi buôn lậu cha nghiêm, cha kịp thời [43, tr. 3].
Nghiên cứu thực tiễn đấu tranh phòng, chống buôn lậu cho thấy buôn
lậu tồn tại do một số nguyên nhân:
Một là, nền kinh tế nớc ta chậm phát triển, chất lợng hàng hóa cha đáp
ứng nhu cầu và thị hiếu ngời tiêu dùng; giá thành cao, mất cân đối giữa cung
và cầu, chênh lệch lớn về giá.
Thị trêng bao giê cịng tu©n theo quy lt cung - cầu và giá trị hàng
hóa; hàng tốt, rẻ sẽ chiến thắng hàng xấu, chất lợng kém, giá thành cao; đây lµ
quy lt phỉ biÕn vËn hµnh trong bÊt kú nỊn kinh tế hàng hóa nào. Kinh tế nớc
ta trong những năm gần đây mặc dù đà đạt đợc những thành tựu đáng kể, sản
xuất phát triển, hàng hóa làm ra nhiều, nhng nhìn chung nền kinh tế còn nhiều

khó khăn, mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng của toàn xà hội vẫn còn gay
gắt, luôn có sự mất cân đối giữa cung và cầu của thị trờng trong nớc; hậu quả
của việc kéo dài cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đà làm xơ
cứng nền sản xuất trong nớc, làm lạc hậu giữa sản xuất hàng hóa với nhu cầu
tiêu dùng; thiết bị sản xuất cũ kỹ, sản phẩm làm ra cha đợc đông đảo thị trờng
chấp nhận. Nhiều mặt hàng chất lợng kém, không phù hợp với thị hiếu ngời
tiêu dùng, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa cao, cha đủ sức cạnh tranh với
hàng ngoại ngay trên "sân nhà" và thÞ trêng tù do trong khu vùc. Trong khi
mét sè nớc ở khu vực hàng hóa trong tình trạng d thừa, phong phú về chủng
loại, khá tốt về chất lợng, giá cả lại thấp hơn hoặc ngang bằng hàng hóa cùng
loại sản xuất trong nớc; có nớc thực hiện chính sách bù lỗ và bằng con đờng
buôn lậu đà đẩy hàng hóa ế thừa vào thị trờng nớc ta. Mặt khác, nhu cầu tiêu
dùng của xà hội ngày càng tăng không chỉ về lợng mà còn về chất, nhiều loại
hàng trớc đây cho là xa xỉ phẩm, cấm đoán thì nay trở thành nhu cầu tiêu dùng
bình thờng trong cuộc sèng.


1
7
Hai là, hệ thống văn bản pháp lý thiếu thống nhất, kể cả trong việc áp
dụng.
Phòng ngừa, đấu tranh chống buôn lậu là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân; thế nhng công tác này không thể đạt đợc kết quả nếu thiếu các biện
pháp quản lý bằng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật và quản lý của
Nhà nớc. Trong những năm gần đây Đảng, Nhà nớc đà ban hành nhiều văn
bản tổ chức, hớng dẫn công tác đấu tranh chống buôn lậu nh: Chỉ thị số
15/CT-TW ngày 20/11/1992 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 216/HĐBT của Hội đồng
Bộ trởng, Quyết định 114/TTg, Chỉ thị 416/TTg, Chỉ thị 701/TTg, Chỉ thị 853/
CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tớng Chính phủ về đấu tranh chống buôn lậu
trong tình hình mới. Và gần đây là quyết định thành lập Ban chỉ đạo đấu tranh

chống buôn lậu 127/TW. Thế nhng buôn lậu vẫn diễn ra hết sức nghiêm trọng,
nguyên nhân là do thiếu thống nhất, đồng bộ trong ban hành và thực hiện các
văn bản pháp luật, quan điểm chỉ đạo, tổ chức thực hiện từ trung ơng đến cơ
sở.
Trên thực tÕ, nhiỊu quan hƯ x· héi ®· thay ®ỉi, nhng các quy phạm
pháp luật cha kịp điều chỉnh, nhiều văn bản xa rời với thực tiễn, không còn
phù hợp khi điều chỉnh các quan hệ phát sinh nhất là trong lĩnh vực đấu tranh
phòng chống buôn lậu. Ví dụ nh quy định của Bộ Thơng mại cho phép nhập
khẩu khung gầm xe ôtô có gắn động cơ... chính sách thuế hiện hành của Nhà
nớc ta vừa đánh thuế theo tính chất mặt hàng, lại vừa đánh thuế theo mục đích
sử dụng. Ví dụ nh xe ôtô du lịch 12 chỗ ngồi đợc cải biến thành xe tải nhẹ
hoặc xe cứu thơng; xe ôtô có trọng tải thấp khai trọng tải cao để đợc giảm
thuế. Hoặc bảng giá tối thiểu đà đợc xác định trong luật thuế XNK cha nhiều,
do đó giá tính thuế căn cứ theo giá ghi trên hợp đồng và hóa đơn thơng mại
hợp lệ... doanh nghiệp lợi dụng thông đồng với chủ hàng ở nớc ngoài ghi giá
thấp nhiều so với thực tế để trốn thuế. Theo b¸o c¸o cđa ChÝnh phđ, thÊt thu
th qua gi¸ íc tính khoảng 25% trên tổng số thuế XNK.


1
8
Mặt khác, khi thực hiện chuyển sang nền kinh tế thÞ trêng, chóng ta
cha cã nhiỊu kinh nghiƯm trong thùc tế, cơ chế thiếu đồng bộ, bộ máy vận hành
cha tốt, buông lỏng quản lý; quan điểm chỉ đạo có lúc cha thống nhất, vận
dụng không căn cứ vào quy định chung của pháp luật, thậm chí làm trái pháp
luật vì lợi ích cục bộ của ngành, của địa phơng. Công tác điều tra, truy tố, xét
xử thiếu nhất quán, quan điểm xử lý không thống nhất, còn tùy tiện. "Theo số
liệu thống kê, trung bình hàng năm chúng ta mới xét xử đợc dới 1% số vụ
buôn lậu bị phát hiện bắt giữ, trong đó có tới 50% là xử án treo" [57, tr. 463].
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng

chống buôn lậu trong các ngành, các cấp và trong quần chúng nhân dân cha đợc quan tâm đúng mức.
Nhận thức của một số cán bộ và nhân dân về công tác phòng ngừa đấu
tranh phòng chống buôn lậu lại rất hạn chế; nhiều địa phơng, cơ quan nhà nớc
cha đặt công tác chống buôn lậu lên ngang tầm với yêu cầu, quản lý còn lỏng
lẻo, cha thật sự chỉ đạo một cách thờng xuyên mạnh mẽ; có nơi xuất phát từ
lợi ích cục bộ đà tham gia buôn lậu hoặc tiếp tay, tạo điều kiện cho bọn buôn
lậu núp bóng hoạt động, nh thu thuế nhẹ hơn thuế nhập khẩu, làm ngơ để cho
hnh vi buôn lậu đng lậu vnh vi buôn lậu đo nội địa để thu thuế cho địa phơng.
Bốn là, sự tác động của kinh tế chung trong khu vực đà kích thích, ảnh
hởng đến tình hình phát triĨn kinh tÕ ViƯt Nam.
Trong khi nỊn kinh tÕ níc ta còn nhiều khó khăn, thì trong những năm
gần đây phần lớn các nớc trong khu vực lại có mức tăng trởng kinh tế cao, sản
xuất phát triển hàng hóa mạnh; do vậy đà tạo ra sự chênh lệch khá cao về về
giá cả hàng hóa giữa thị trờng ở trong nớc và các nớc trong khu vực. Sự chênh
lệch đó chính là động lực cơ bản để buôn lậu ở Việt Nam tồn tại và phát triển
trong những năm gần đây. Bên cạnh không loại trừ âm mu sâu xa dùng kinh tế
để phong tỏa, gây sức ép đối với nớc ta từ nhiều phía, tìm mọi cách để ®a cµng
nhiỊu hµng hãa vµo ViƯt Nam cµng tèt nh»m cạnh tranh bóp chết nền sản xuất


1
9
của ta; khuyến khích xuất khẩu nguyên liệu sản xuất làm cho tài nguyên trong
nớc kiệt quệ.
1.1.4.2. Hậu quả của buôn lậu
a) Đối với nền kinh tế
Buôn lậu trớc tiên ảnh hởng trực tiếp đến những thành quả của công
cuộc ®ỉi míi cđa ®Êt níc, nguy c¬ kiỊm h·m tèc độ phát triển kinh tế, tạo lực
cản đối với quá trình CNH, HĐH đất nớc. Hàng nhập lậu trốn thuế nên giá rẻ,
trong khi đó hàng hóa sản xuất trong nớc phải chịu nhiều thứ thuế nên giá

thành sản phẩm cao hơn, không tiêu thụ đợc, làm cho tình trạng nợ đọng vốn,
sản xuất hàng hóa đình đốn ảnh hởng đời sống ngời lao động.
Đối với một số cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nớc có hành vi buôn
lậu sẽ dẫn đến tình trạng đồng vốn quốc gia bị sử dụng sai mục đích, không
tạo ra đợc sản phẩm thông qua sản xuất và hiệu quả không hợp pháp trong
kinh doanh, làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng. "Theo thống kê cha
đầy đủ mỗi năm (giai đoạn cuối năm 1990) ớc tính số hàng lậu xâm nhập vào
nớc ta khoảng 2,5 triệu chai rợu; 200 triệu bao thuốc lá; 70 triệu mét vải. Tổng
trị giá hàng nhập lậu vào Việt Nam mỗi năm khoảng 6.000 tỷ đồng, tức là
ngân khố quốc gia bị cớp đi hơn 2000 tỷ đồng" [4, tr. 146].
Nh vậy, hàng hóa nhập lậu trốn thuế làm mất đi sự cân bằng trong
cạnh tranh hợp pháp, thất thu thuế XNK, chảy máu ngoại tệ.
b) ảnh hởng đối với an ninh, chính trị
Vì mục đích lợi nhuận, đối tợng tham gia buôn lậu không từ bất cứ
một mặt hàng nào kể cả những mặt hàng nhà nớc cấm kinh doanh, buôn bán
nh ma túy, vũ khí, đạn dợc, vật liệu nổ, quân trang quân dụng v.v...
Buôn lậu ảnh hởng đối với nền kinh tế, tất yếu sẽ làm cho an ninh
chính trị của đất nớc càng khó khăn hơn. Hàng hóa nhập lậu làm cho thị trờng
hỗn loạn, Nhà nớc không kiểm soát đợc tình hình hoạt động XNK và các


2
0
chính sách đầu t đối với nớc ngoài; ảnh hởng đến nguồn thu ngân sách, làm
giảm các khoản chi cho các quỹ phúc lợi xà hội, làm cho tệ nạn xà hội phát
triển. Những khoản thu nhập có từ buôn lậu làm cho một bộ phận làm ăn bất
chính giàu lên, sống sa đọa, coi thờng kỷ cơng phép nớc, làm cho Nhà nớc
không điều hành đợc công việc của mình tất yếu Nhà nớc sẽ suy yếu, ảnh hởng ®Õn chđ qun vµ an ninh qc gia.
Ngµy nay víi xu thế toàn cầu hóa kinh tế ngày càng mạnh mẽ; việc
không thắng nổi về mặt quân sự thì việc dùng kinh tế để xâm lợc đang đợc các

thế lực thù địch sử dụng một cách triệt để, vừa tinh vi, vừa thủ đoạn. Với u thế
về kinh tế, khoa học kỹ thuật, một số thế lực thù địch đang lợi dụng chính
sách hội nhập để thực hiện "diễn biến hòa bình", "chiến tranh biên giới mềm",
chính sách dùng hàng hóa, viện trợ giúp đỡ có điều kiện... tạo thói quen lƯ
thc kinh tÕ, dÉn ®Õn lƯ thc vỊ chÝnh trị.
c) ảnh hởng về mặt văn hóa - xà hội
Lợi nhuận của buôn lậu làm gia tăng chênh lệch giàu và nghèo, làm
cho một số nhà sản xuất đi lạc hớng, số ngời không có việc làm ngày một
tăng. Buôn lậu lôi kéo một lực lợng lớn lao động tham gia, bỏ sản xuất, trẻ em
đến tuổi đến trờng phải bỏ học, ngời dân bỏ sản xuất đi làm thuê, trật tự an
toàn xà hội biến động.
Buôn lậu là một trong những nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xÃ
hội, ảnh hởng xấu đến thuần phong mỹ tục. Vì hám lợi họ phản lại giá trị đạo
đức truyền thống để chạy theo đồng tiền, và chính đồng tiền có đợc từ buôn
lậu một cách dễ dàng dễ đa họ tới những tệ nạn nh cờ bạc, ma túy, mại dâm.
Song song với việc nhập hàng lậu, bọn buôn lậu còn nhập tài liệu phản động,
tranh ảnh khiêu dâm, cổ vũ lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền, làm ảnh hởng đến nhân cách con ngời, ảnh hởng cả thế hệ lời lao động, sáng tạo.
Tóm lại, buôn lậu đà xâm hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, nền
kinh tế quốc dân, phá vỡ kỷ cơng xà hội, gây cản trở đến việc hoạch định và tổ



×