Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đề tài: "Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.68 KB, 26 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài:
"Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam hiện nay”


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Lời mở đầu

Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế
giới.Các vấn đề về xuất nhập khẩu,về đầu tư nước ngoài đang là những chủ
đIểm cho các cuộc hội thảo kinh tế ở Việt Nam .Làm sao để tăng cường giá
trị xuất nhập khẩu ,thu hút đầu tư đó là những vấn đề đáng quan tâm cho
những nhà hoạch định chính sách .
Nhìn nhận vấn đề xuất nhập khẩu ,đầu tư chúng ta không thể bỏ qua
vấn đề về tỷ giá hối đoái, một thước đo giá trị của dồng tiền này bằng đồng
tiền khác.Bạn có bao giờ nghĩ rằng tỷ giá sẽ ảnh hưỏng đến cuộc sống của
bạn như thế nào chưa,giả sử bạn là một nhà xuất khẩu Việt nam bạn vay
ngân hàng 1 triệu USD (=15 tỷ VND) để nhập khầu,khi bạn bán được hàng
bạn thu được 16 tỷ VND tuy nhiên lúc này tỷ giá là 20000VND/1USD bạn
đà bị lỗ ít nhất 3 tỷ đồng và đIều đó có thể khiến bạn trở thành kẻ đứng
đường.Hiểu biết về tỷ giá và dự doán đúng sự biến động về tỷ giá là thành
công của nhiều doanh nghiệp,bởi vậy mới hình thành các phòng kinh doanh
ngoại tệ ở các ngân hàng.Vấn đề tỷ giá còn ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề
xuất nhập khẩu.Nếu đồng tiền Việt nam mà lên giá sẽ bất lợi cho các nhà
xuất khẩu bởi hàng hoá việt nam đà đắt lên một cách tương đối,ngược lại sẽ
làm cho các nhà nhập khẩu bất lợi.
Từ thực tế trên em xin tìm hiểu đề tài về "Tỷ giá hối đoái và vấn đề
tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay nhằm giúp cho quá trình học tập và


nghiên cứu sau này của bản thân và cho bạn bè quan tâm nắm rõ hơn về vấn
đề này.
Trong quá trình thu thập thông tin còn nhiều hạn chế do vậy có thể
còn nhiều sai sót mong các bạn thông cảm và trân thành góp ý.
Em xin cảm ơn TS Trần Đăng Khâm đà hướng dẫn và giúp đỡ em
hoàn thành đề án này !
1


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Trang

Mụclục

1

Mở đầu

2

Nội dung

3

Chương I:

Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái


3

I.

Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm liên quan

3

1.

Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái

3

2.

Tỷ giá hối đoái thực tế

4

3.

Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối

4

đoái
II.

Các hệ thống tỷ giá


5

1.

Chế độ tỷ giá cố định

5

2.

Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods

6

3.

Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỷ giá hối đoái

10

Chương II:

Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

14

I.

Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam Từ năm


14

1955 đến nay
II.

Vấn đề tỷ giá hiện nay

20

Chương III: Những giả pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
I.

Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái

22

trong thời gian qua
II.

Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái

Kết luận

23
27

Danh muc tài liƯu tham kh¶o
2


28


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Phần II: Nội dung
Chương I
tổng quan chung về hệ thống
tỷ giá hối đoái
I. Một
số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm có liên
quan.

Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trước hết chúng ta cần phải
xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nước khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay
những phương thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ
thương mại quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các
nước với nhau, đó chính là thị trường ngoại hối. Như vậy thị trường ngoại hối
là thị trường quốc tế trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền của
quốc gia khác.
Thông thường tỷ giá hối đoái được hiểu là số lượng đơn vị nội tệ cần
thiết để mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; là hệ số quy đổi
của một đồng tiền này sang một đồng tiền khác được xác định bởi mối quan
hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá
hối đoái, người ta thường sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nước ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ

Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thường liên quan đến sức
cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tỷc là giá trị của đồng nội tệ
giảm thì giá cả của hàng hoá trong nước sẽ rẻ tương đối so với giá c¶ cđa
3


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

hàng hoá ở nước ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hướng tăng, nhập khẩu có
xu hướng giảm, khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu được
vấn đề này phải phân biệt được tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái
thực. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá
tương đối của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức
giá tương đối giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là
mức giá tương đối của những hàng hoá mậu dịch tương ứng với các hàng hóa
phi mậu dịch. Như vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so
sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem
lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có nghĩa là
thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân
bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vÃng lai được tài trợ một cách bền
vững từ luồng vốn nước ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực
(RER) là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tương ứng. Tỷ
giá hối đoái thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những
hàng hoá mậu dịch trong nước. Nếu không có sự tăng giá tương ứng ở các
quốc gia khác thì việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó :
họ sản xuất hàng hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nước khác.

3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp nghiên
cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phương thức cường độ, tốc độ tác
động của các yếu tè cơ thĨ, song nh×n chung cã mét sè u tố quan trọng,
trực tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái,
đó là:
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước.
4


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ, thông
qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi
sức mua của đồng tiền.
-Chênh lệch mức giá giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và
quốc tế.
-Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính, ngoại hối và các xu
hướng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá.
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường Tài chính trong
nước và quốc tế.
- Các phương thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà
nước.
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xà hội và các chính sách lớn của Nhµ
n­íc trong lÜnh vùc kinh tÕ, tµi chÝnh tiỊn tƯ.

II. Các hệ thống tỷ giá.
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham

gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư.
Tỷ giá hối đoái cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ
giá có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số... phụ
thuộc vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau
của nhà nước khác nhau đến tỷ giá hối đoái đà tạo nên những cơ chế tỷ giá
hối đoái khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế
tỷ giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng
tiền) và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá được xác định dựa vào cung cầu trên thị
trường). Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau
về mức độ cố định thả nổi tỷ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố
định hay thả nổi tỷ giá hối đoái. Điều này đà đưa đến các nguyên tắc khác
nhau về điều hành tỷ giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của
mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đà tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỷ giá hối
đoái ë trªn thÕ giíi.
5


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái
ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng
vào ®ång tiỊn néi ®Þa. Khi sư dơng chÕ ®é tû giá cố định người ta có thể sử
dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính
bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành
vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao
dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền

đồng tiền trong n­íc víi sè vµng nhµ n­íc cã. ChÝnh phđ chØ có thể phát
hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng
chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ giảm đi.
Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung
tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá
trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất
giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng
như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối
trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đà được sử dụng
hầu như suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nước. Bản vị vàng có một ưu
điểm lớn và một nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là
hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đÃ
loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ lạm phát một
cách thường xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn
việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm
để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì
của bản vị vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương
dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
6


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được cố định một
cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế,
trong đó các tỷ giá hối đoái thông thường được cố định nhưng một đôi lúc
các nước được phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này được ra

đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở
Brentton Woods New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối
đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỷ
giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên
cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng)
và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đà được
đăng kí tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết
với đến với tên gọi bản vị đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền được
chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố
định, các ngân hàng trung ương cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ
ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị
trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không
còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể
in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt
ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của
mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ
ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá tỷ giá hối đoái của mình chuyển
sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường
xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ
tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy
sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự
hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do tỷ giá hối đoái cố định
nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do
đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của ngân hàng trung
ương. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ là tối ưu nếu các ngân hàng trung ương có
7



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương đối cân bằng và
thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra
sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình
huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức
cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị
ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự
ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; tỷ giá hối
đoái cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn
tẻ, khó có thể xác định đâu là tỷ giá hối đoái tối ưu, hay hợp lý cho một nền
kinh tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ương đều cần thiết phải
hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định có
thể là quan trọng nhưng nó không quyết định tỷ giá hối đoái thực tế mà nó
chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỷ giá hối
đoái cố định đòi hỏi ngân hàng trung ương phải luôn sẵn sàng can thiệp vào
thị trường ngoại hối để đảm bảo mức tỷ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó
có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác dộng vào nền kinh
tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ương cần thiết phải
duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài
sản sẽ lớn. Tỷ giá hối đoái này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của
quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ
vào một đồng ngoại tệ nào đó.
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:
Là tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có hai
loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng
nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức
là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vÃng lai cân

bằng) Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và tỷ giá
hối đoái thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước
ngoài và tỷ giá hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tÕ trong n­íc vµ n­íc
8


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng,thì chỉ
có một tỷ giá chính thức duy nhất đồng thời tương ứng với sự cân bằng bên
ngoài.ở bầt kì mức tỷ giá hối đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có
sức cạnh tranh kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn,
nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài khoản vÃng lai. Ngược lại ở bất kì một
mức tỷ giá hối đoái thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập khâủ
thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một khoản thặng dư trong vÃng lai. Chỉ có
một tỷ giá hối đoái thực tế duy nhất tương ứng với sự cân đối bên trong và
bên ngoài.

9


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Chương II

Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

I. Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ

năm 1955 đến nay.

Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới
đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước xà hội
chủ nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước luôn can thiệp mạnh
vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không
thể tồn tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỷ giá cố định, Việt Nam
cũng không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỷ giá chính thức của VND được công
bố vào ngày 25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung
quốc là 1NDT =1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1
Rúp bằng 735 đồng Việt Nam. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh
giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai
nước nhằm giả quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm
kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nước
khác được thiết lập dựa trên tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu
dịch), nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ
giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng
ngoại thương). Như vậy hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là
chế độ đa tỷ giá, tỷ giá được xác định trên ý đồ phục vụ kế hoạch của nhà
nước, các quyết định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền kinh tế
thị trường trong và ngoài nước, tỷ giá giữ vai trò thụ động, chưa phải là công
cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đà gây
không ít khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài
chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho
nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là
do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách nhà nước làm
10


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software

For evaluation only.

cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm trọng, công tác
điều hành ngân sách nhà nước khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của
ngân sách nhà nước. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô viện trợ cho
nước ta khoảng 15 % thu nhập của cả nước, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỉ rúp
trong 1 năm nếu tính theo tỷ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng 1/3
tổng thu ngân sách, nhưng nếu tính sức mua trên thị trường của đồng rúp thì tỉ
trọng này vào khoảng 6070 %. Vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói
riêng,đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì
nếu để tỷ giá cũ làm cho việc bù lỗ nhập khẩu vượt mức chịu đựng của ngân
sách nhà nước, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc
đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển
dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là thời kì có sự
chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý vµ diỊu hµnh kinh tÕ cđa nhµ
n­íc, nhÊt lµ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách
được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính công bố xoá bỏ tỷ giá
kết toán nội bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương.
Tỷ giá chính thức đuợc Ngân hàng nhà nước chính thức công bố căn cứ vào
chỉ số lạm phát, lÃi suất trên thị trường, cán cân thanh toán, tham khảo diễn
biến giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong
nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các ngân hàng thương mại xây dựng cho mình
một tỷ giá dùng để giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép.
Nhìn chung những giải pháp trên đà góp phần cải thiện phần nào tình hình
trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh
toán, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đà có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhưng
tỷ giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm

1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là
do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính
11


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào
cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đà can thiệp để nâng giá đồng Việt
Nam trên thị trường ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát
bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu được ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây,
Việt Nam đà nhập khẩu một số lượng lớn lượng nguyên, nhiên vật liệu để đáp
ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sản
phẩm của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm
cho giá thành sảm phẩm sản xuất trong nước tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đÃ
tăng. Trong điều kiƯn nỊn kinh tÕ cã nhiỊu nh©n tè g©y bÊt ổn địnhkhác thì việc
giá thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, ngn ngo¹i tƯ do ngo¹i kiỊu gưi vỊ ViƯt Nam khá lớn
làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nước kiên trì quan điểm
ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ, nhu cầu về ngoại
tệ của các doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng, lạm phát gần như được chặn
lại, tạo lòng tin cho dân chúng và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải
toả được tâm lý đầu cơ. đó là những nguyên nhân cơ bản nhất khiến cho xu
hướng lên giá của đồng Đô la sẽ bị chặn lại, tỷ giá VND/USD không những
không tăng mà còn giảm xuống. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong viêc
điều chỉnh này về tỷ giá hối đoái quá mạnh đà gây sức rất ép lớn đối với sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng
của Việt Nam và là một thị trường vừa lớn lại vừa gần. T giá hối đoái do thị
trường quy định của Trung Quốc đà bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991,

biến động khoảng từ 6-8 NDT / 1 đô la và có thời gian ngắn lên 10 NDT
Như vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam
lần đầu tiên đạt mức tỷ giá danh nghĩa như năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ
bị phá giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại
Trung Quốc là 25%, do đó mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá
Trung Quốc là rất đáng kể và các nhà máy Việt Nam đà phải vất vả vì tình
trạng này.

12


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Nhà nước đà đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỷ
giá và phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhËp khÈu
b»ng h¹n nhËp (Quota), cÊm nhËp khÈu cịng nh­ h¹n chÕ cÊp tÝn dơng cho
nhËp khÈu cïng víi mét số chính sách ưu đÃi đối với nhà xuất khẩu như :
Giảm thuế, bảo hiểm giá đối nông sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản
phẩm xuất khẩu mới... Nhưng do biên giới với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại
và do việc buôn lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận nên hầu như không thể ngăn
chặn việc buôn bán tại vùng này tuy có thể làm cho những hoạt động đó
mang lại ít lợi nhuận hơn. Tất nhiên những biện pháp này sẽ không giúp
được gì cho các nhà xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá
bằng USD vẫn không thay đổi).
Diễn biến cụ thể của tỷ giá hối đoái trong 2 năm 1991, 1992 như sau
Năm 1991 :

Tháng


12/90

1/91

3/91

6/91

12/91

VNĐ/USD 7400

7900

8830

10050

12550

VNĐ/USD 1350

1370

1460

1850

2350


Du
Năm 1992 :
Tháng

12/91

1/92

3/92

6/92

9/92

12/92

1/93

VND/USD

12.900

11.800

11.550

10.285

10.950


10.720

10.500

Đến cuối năm 1992, đồng Việt Nam tăng 20 % so với đồng đô la vì thế vào
năm 1993, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường sẽ bị giảm
mạnh. Sau đó Nhà nước lại tăng giá đồng đô la trong cuối quý I năm 1993 là
cho đồng Nhân dân tệ tăng gía, sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị
trường Việt Nam giảm
13


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Tỷ giá năm 1993 của đồng Việt Nam so với đô la là
Tháng

12/92

VND/USD 10.720

1/93

3/93

6/93

7/93


9/93

12/93

10.500

10.500

10.580

10.680

10.750

10.835

Trong năm 1993, tỷ giá VNĐ/USD có xu hướng ổn định, Ngân hàng
Nhà nước đà thành công trong việc giữ cho đồng Việt Nam không lên giá,
điều này giúp cho hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được, kích thích
xuất khẩu được giúp Việt Nam có thể hạn chế được ảnh hưởng của đồng đô
la với nền ngoại thương của mình
Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định
số 203 / QĐ - NH9 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện vai trò là người mua bán cuối cùng trong
ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được Ngân hàng Nhà nước công bố, chỉ có biên
độ dao động là thay đổi. Trong 3 năm 9396, đồng đô la hầu như không tăng
theo giá trị thực của nó trên thị trường, trong khi thị trường dường như được
thả nổi theo cung cầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là lượng vốn của
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong thời kỳ này tăng rất nhanh, chính sách
thắt chặt tiền tệ của chính phủ đà kiềm chế được lam phát ở mức vừa phải và

do chênh lệch lÃi xuất giữa VNĐ và USD quá lớn nên rất nhiều nhà đầu tư đÃ
bán đô la để lấy VNĐ gửi tiết kiệm lấy lÃi
Tình trạng giá trị đồng nội tệ cao đà làm cho vào năm 1996, mức thâm
hụt cán cân thương mại nước ta lên đến 16 %, cao gấp rưỡi so với các nước
có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu về USD lại tăng gây sức ép
giảm giá VND
Như vậy có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân
hàng Nhà nước từ 1990 đến trước tháng 3 / 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá
cố định có ®iỊu tiÕt nhĐ cđa Nhµ n­íc, chđ u dùa vµo neo giữ và quy đổi
VNĐ theo USD qua 1 tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu qua đô la Mỹ, DM, bảng
Anh,...) trong đó đôla Mỹ chiếm tỉ trọng lớn. Thực tiễn đà chứng minh chính
sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ còn chưa ổn định, xuất khẩu cßn
14


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ qc gia máng. Xu h­íng cđa tû gi¸
trong thêi gian này là tăng quá chậm so với tốc độ tăng trưởng lạm phát (tính
theo chỉ số liên hoàn qua nhiều năm), VND được đánh giá quá cao so với giá
trị thực của nó. Từ năm 19921996, tỷ giá tăng khoảng 5,2 % trong khi lạm
phát tăng 40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
hướng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định (lạm phát
thấp, lÃi suất giảm, cán cân thanh toán tổng thể có bội chi nhỏ, dự trữ ngoại
tệ khá hơn...) buộc chính sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại, vì thế đến
năm 1997, Ngân hàng Nhà nước có quyết định để thay đổi biên độ giao dịch:
Ngân hàng Nhà nước nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng
thương mại so với tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố, lần
lượt là 5% vào tháng 3/1997 rồi đến 10% vào tháng 10/1997, từ mức 0,5 - 1

% được áp dụng trong suốt 2 năm 1995, 1996
Trong thời kỳ 1997 - 1998, chênh lệch lÃi suất giữa VND và USD xích
lại gần nhau. Thời gian này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
khu vực, về cuộc khủng hoảng này, nhiều nhà kinh tế cho rằng một trong
những nguyên nhân gây ra khủng hoảng là ở Thái Lan đà duy trì một cơ chế
gắn đồng Bath vào đồng đô la một cách rất cứng nhắc của Ngân hàng Trung
ương Thái Lan trong nhiều năm. Sau cuộc khủng hoảng này, hầu hết các
đồng tiền của các nước trong khu vưc giảm giá (tiền Indonexia mất giá 130
%, đồng Thái Lan mất giá 100 %, đồng Malaixia mất giá 60 %...) đồng thời
lượng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam giảm sót. Xu h­íng rót tiỊn ®ång
ViƯt Nam ®Ĩ chun sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996 khối
lượng L/c trả chậm khá lớn và phần lớn đến hạn trả vào năm 1997, do vậy
làm tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn. Tất cả các điều
kiệ trên gây áp lực giảm giá VNĐ. Trước tình hình đó chính phủ đà thực hiện
phá giá từ 11113VND/ USD năm 1996 lên 13980 VND/ USD năm 1998
Việc điều chỉnh tỷ giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, việc cố định một tỷ giá được coi là cao hơn
tỷ giá thực tế là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó
cản trở xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế" khả năng đề
15


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

kháng của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tỷ giá cho rằng, mức tỷ
giá đó là phù hợp trong giai đoạn đó. Việc tăng tỷ giá đà góp phần giảm tỉ nhập
siêu từ 20,3 % năm 1997 xuông 17,6 % năm 98
Ưu và nhược điểm của việc phá giá trong giai đoạn này: Nó làm cho tốc
độ xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, do vậy tỉ lệ nhập siêu giảm xuống

song" độ nhạy giữa việc thay đổi tỷ giá với việc thay đổi xuất nhập khẩu là
thấp. Bởi vì để đẩy mạnh xuất khẩu ngoài việc phụ thuộc vào tỷ giá còn phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác như chất lượng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu,
thủ tơc vỊ xt nhËp khÈu... mµ ë ViƯt Nam vÊn đề này còn rất bức xúc và
thức tế đà chứng tỏ điều đó.
Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm của các doanh
nghiệp tăng giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất
khẩu và làm cho nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu
tư tăng lên. Trong năm 1998,sau khi nới rộng biên độ giao dịch, cầu ngoại tệ
trên thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng
thương mại thường xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhưng giá
trên thị trường tự do còn cao hơn nhiều, có lúc lên đến 14000 VND/ 1 USD,
đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khả năng
khủng hoảng của VND. Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm
1998, Ngân hàng Nhà nước đà đưa ra một loạt các biên pháp nhằm ổn định
thị trường như : Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán
ngoại tệ mới, quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng, đối với các
tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là 2 lần chủ động
điều chỉnh tỷ giá: lần thứ nhất vào 16/02/1998, Ngân hàng Nhà
nước(NHNN) quyết định nâng tỷ giá từ 11175 VND/1 USD lên 11800 VND/
1 USD làm tỷ giá trao đổi của các ngân hàng thương mại(NHTM) xấp xỉ với
tỷ giá trên thị trường tự do. Lần thứ hai diễn ra vào ngày 07/8/1998, tỷ giá
chính thức được nâng từ 11888 VND/ 1 USD lên 11.998VND/ 1 USD, tăng
16,3 %, bên cạnh đó, biên độ giao dịch cũng được thu hẹp lại còn 7 % chứ
không phải là 10 % như trước đây nữa. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá
của NHNN đà làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ
16


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software

For evaluation only.

giá của các NHTM. Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị
trường này thường xuyên sấp xỉ nhau
Tuy nhiên để xoá bỏ hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tập trung hơn
nữa ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nước, ngày 12/09/1998, Chính phủ ban
hành quyết định số 173/ QĐ-TTG về mua và bán ngoại tệ đà mang lại một số
kết quả khả quan. Suốt quý IV năm 1998, doanh số mua bán ngoại tệ tăng liên
tục. Quan hệ cung cầu ngoại tệ được cải thiện đáng kể đà góp phần nhằm ổn
định tốt hơn tỷ giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng được duy trì trong biên độ quy định, khoảng cách chênh lệch về tỷ giá
giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do là khá thấp (< 1 %).
II.Vấn đề tỷ giá hiện nay.
Từ ngày 01 /01/1999, sự kiện ra ®êi chÝnh thøc ®ång Euro ®· ®em ®Õn
cho khu vùc này một chế độ không có tỷ giá hối đoái hay cũng có thể gọi là"
cơ chế tỷ giá cố ®Þnh tut ®èi”. ë ViƯt Nam nhiỊu quan ®iĨm cho rằng, cần
giảm bớt sự quản lý đối với tỷ giá bằng cách mở rộng biên độ giao dịch để
thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, có quan điểm lại cho rằng cần duy trì tỷ giá
hối đoái ổn định hơn nữa. Do cần phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá sao cho
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, NHNN đà đưa ra hai quyết định
số 64 và 65 ngày 26/02/99, tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá trên cơ sở
bám sát các nguyên tắc điều hành tỷ giá được nêu trong" điều hành tỷ giá
linh hoạt theo cung cầu phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam
trên cơ sở đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý có hiệu quả tỷ
giá hối đoái... Thực chất hai quyết định đà nêu hoàn toàn không đề cập đến
điều chỉnh mức tỷ giá đà hoàn thành ổn định trong thời gian này. Thế nhưng
đây là dấu hiệu cho thấy xu hướng tự do hoá rõ rệt hơn tỷ giá hối đoái có sự
điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá thực tế ở thời điểm có quyết định mới
(26/02/1999) có nhiều biểu hiện phù hợp với sức mua, đối nội và đối ngoại
của đồng tiền Việt Nam hoàn toàn không có lý do phải có sự điều chỉnh.

Bằng vào việc công bố hai loại tỷ giá : tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân
mua vào bán ra thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng như trước đây
17


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

để chỉ còn công bố một tỷ giá gọi là tỷ giá giao dịch bình quân (của đồng
Việt Nam so với đôla Mỹ) trên thị trường này đà đưa đến một sự thay đổi
khác hẳn theo cách ổn định, công bố và điều hành tỷ giá hối đoái lâu nay
Theo cách mới, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ
sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày
giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào đó các NHTM được phép kinh
doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá
0,1 % so với tỷ giá này. Qua tỷ giá áp dụng cơ chế này, tỷ giá giao dịch bình
quân mà NHNN công bố xoay quanh mức 13.888 VNĐ / 1 USD còn tỷ giá
mua bán thực tế của các NHTM nằm trong khoảng 13902 VNĐ / 1 USD
(nghĩa là chỉ tăng khoảng 0,1-0,3 % so với trước đây). Riêng tỷ giá của thị
trường tự do sau khi có đột biến tăng nhẹ (khoảng 0,3 %) do yếu tố tâm lý
vào những ngày đầu, nay đà trở về mức cũ. Chênh lệch giữa thị trường tự do
và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng không đáng kể (khoảng 0,1 %)
Quyết định số 65 còn quy định các NHTM được phép tăng tối đa 0,58
% của tỷ giá giao dịch trần để xác định tỷ giá kỳ hạn 1 tháng, nhưng nay
theo quy định số 289 / 2000 / QĐ - NHNN ngày 30/08/2000, các ngân hàng
chỉ được phép tăng tối đa 0,2 %. Như vậy các NH không lợi dụng được
chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn cho cuộc cạnh tranh mua bán
ngoại tệ. Nhưng muốn giải pháp này hiệu quả cần phải có những quy định
khác đi kèm.
Hiện nay do biến động của thị truơng thế giới ,đặc biệt sau chiến tranh

tại IRAQ khiến cho đồng dolla ngày càng lên giá,1$ đổi đựoc 15430
đồng.Đây là một vấn ®Ị kh¸ quen thc sau c¸c cc chiÕn tranh do Mỹ phát
động,vấn đề chúng ta dự kiến được để có những sự đIều chỉnh phù hợp mà
thôi.

18


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Chương III

Những giải pháp hoàn thiện chính sách
về tỷ giá hối đoái

I. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh TGHĐ
trong thời gian qua.

Mặc dù đà luôn được cố gắng hoàn thiện, nhưng chính sách TGHĐ ở Việt
Nam cần phải được thường xuyên điều chỉnh, phải luôn sửa đổi, bổ xung các
giải pháp. Nếu không tiếp tục sửa đổi thì có thể có một số khó khăn như sau:
Thứ nhất là tâm lý chờ đón phá giá VNĐ vẫn luôn thường trực gắn liền
với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN khiến tỷ
giá thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng luôn có xu hướng tăng
thêm với mức được phép là 0,1 % tạo thành cấp số luỹ thừa liên tục của hệ số
1,001 là khá lớn.
Để tránh xu hướng này, NHNN phải thường xuyên sử dụng dự trữ ngoại
tệ can thiệp nhằm kiểm soát tỷ giá giao dịch thực tế của thị trường liên ngân
hàng, NHNN phải trực diện chịu áp lực thị trường khi cung cầu ngoại tệ căng

thẳng, mà khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng.
Do thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo, chưa
phản ánh được toàn bộ cung cầu ngoại tệ của đất nước nên bản thân liều
lượng dự trữ bỏ ra để can thệp hết sức hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát
dao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hạn hẹp tương ứng.
Theo đó xét cả về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn
có độ cứng nhắc khá cao.
Do các khó khăn trên, việc công bố tỷ giá bình quân của NHNN sớm
muộn phải quay trở lai mức ổn định chủ quan theo hướng cố định và giảm
dần (không khác với cách tính toán và công bố tỷ giá danh nghĩa). Về bản
19


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

thân việc bỏ neo tỷ giá danh nghĩa vào những lúc thị trường biến động phức
tạp thì chính NHNN sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực tế.
Cầu ngoại tệ theo hình thức giao dịch kì hạn sẽ gia tăng mạnh do tỉ lệ %
cộng thêm vào mức trần tỷ giá giao ngay xét ra là khá cao (nội dung quyết
định 65). Đây cũng là một trong những áp lực đối với tỷ giá.
Việc bỏ hẳn ấn định TGHĐ danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định
trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế như : cán cân vay trả nợ
nước ngoài, cán cân thanh toán vÃng lai, tổng cung, tông cầu tiền tệ của nền
kinh tế, thu chi ngân sách... Đặc biệt sÏ khã tÝnh to¸n c¸c møc l·i suÊt danh
nghÜa trong khi chính sách lÃi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích
đầu tư.
Hiện nay có nhiều quan điểm trái ngược nhau trong điều hành TGHĐ
và quản lý ngoại hối.
+ Có quan điểm cho rằng, phải bằng mọi biện pháp để ổn định tỷ giá,

thậm chí"đông cứng để tạo động lực cho sự ổn định kinh tế, giảm rủi ro cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị và các công nghệ tiên
tiến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tránh nguy cơ tụt
hậu. Đồng nội tệ mạnh chính là một điều kiện cho một nền kinh tế vững
mạnh, tăng trưởng năng động.
+ Có quan điểm lại phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên, cho rằng trong
điều kiện đồng USD đang lên giá so với các đồng khác, nếu chúng ta giữ cố
định VNĐ thì sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước sẽ có giá
cao tương đối so với các nước trong khu vực, kéo theo một môi trường đầu tư
kém hấp dẫn. Do vậy, nhất thiết phải phá giá VNĐ ở mức cao hơn các nước
khu vực đà làm.
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối
đoái.

20


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn là nền kinh tế
trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xà hội, chính vì vậy chúng ta càng cần
phải phát triển kinh tế ổn định, vững chắc với một cơ chế tỷ giá linh hoạt,
không cứng nhắc để có thể chống đối được các tác động tiêu cực từ phía thi
trường do ảnh hưởng cơ chế tû gi¸. HiƯn nay nỊn kinh tÕ cđa ViƯt Nam tương
đối ổn định, bội chi ngân sách có thể kiểm soát được, nhưng nợ nước ngoài
cũng khá cao : nợ các quốc gia khác, nợ các tổ chức quốc tế như IMF, WB
tổng số nợ là khoảng hơn 20 tỉ đôla. Nếu tỷ giá thay đổi, cụ thể là nếu đồng
đôla tăng giá thì gánh nặng về nợ ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhưng

xuất khẩu tăng. Ngược lại nếu đồng nội tệ tăng giá thì có thể sẽ ảnh hưởng
đến xuất khẩu, làm giảm sức cạnh tranh trên thi trường quốc tế, như vậy phải
tìm được một cơ chế tỷ giá phù hợp để có thể dung hoà được các mâu thuẫn
trên. Để quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái chỉnh phủ có thể thi hành, áp
dụng nhiều biện pháp khác nhau, tuy nhiên trong khuôn khổ đề án này, em
có thể đưa ra một số đề nghị về việc quản lý đó như sau:
Ngân hàng trung ương phải có một lượng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn : Đây là
giải pháp mà trước đây chúng ta cũng đà quan tâm nhưng do trong thời gian
trước đây tỷ giá do ngân hàng nhà nước công bố, còn mang nặng tính chất
hành chính cho nên nó tác động đến cung cầu nhiều hơn tác động của cung
cầu đối với nó. Trong thời kì này cung cầu có thể thay đổi song tỷ giá vẫn có
thể giữ nguyên như cũ (nếu ngân hàng trung ương tháy như vậy là cần thiết).
Vì thế có những lúc lượng dự trữ ngoại tƯ cđa ta rÊt máng nh­ng tû gi¸ danh
nghÜa vÉn không hề thay đổi.
Trong cơ chế tỷ giá mới thì mọi vấn đề lại không phải là như vậy, khi
cung cầu ngoại tệ thay đổi thì tỷ giá trên thị trường sẽ thay đổi theo, nếu
ngân hàng trung ương muốn giữ tỷ giá ổn định thì cần phải cố định tỷ giá,
nhưng vấn đề cố định tỷ giá có rất nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế và trong
hoàn cảnh bây giờ cũng không thể làm như vạy, vì thế cần phải có những
biện pháp bảo đảm cho khả năng có thể cứu được tỷ giá của ngân hàng trung
ương khi có biến động trên thị trường. Để giải quyết vấn đề này NHNN có
thể sử dụng các biện pháp hành chính tác động đến việc mua bán ngoại tệ
21


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

trên thị trường, chính phủ nên cấm việc mua bán ngoại tệ tự do, buộc các nhà
xuất khẩu phải bán hết ngoại tệ thu được cho nhà nước (trừ những khoản

dành cho chi tiêu hợp lý) và khi có nhu cầu nhập khẩu thì có thể mua lại.
Những quản lý hµnh chÝnh nµy th­êng cã hiƯu lùc tøc thêi nh­ng cũng để lại
những hậu quả nghiêm trọng vì sự khó khăn trong mua bán ngoại tệ có thể
dẫn đến sự kém lưu động của nền kinh tế và có thể đẩy nền kinh tế vào tình
trạng tồi tệ vì nó làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy rủi ro cao
trong đồng vốn bỏ ra, môi trường đầu tư trong nước kém hấp dẫn, vì thế đây
chỉ là biƯn ph¸p tøc thêi. NHNN cịng cã thĨ sư dơng cách thứ hai là mua
bán ngoại tệ trên thị trường mở một cách liên tục để làm cho cầu không tăng
lên một cách đột ngột ảnh hưởng đến tỷ giá.
Cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa tỷ giá và lÃi suất: Giữa lÃi suất và
tỷ giá luôn có mối quan hƯ rÊt mËt thiÕt víi nhau vµ quan träng hơn là sự
chênh lệch về lÃi suất giữa việc gửi bằng ngoại tệ và gửi bằng ngoại tệ. Nếu
lÃi suất tiền gửi ngoại tệ cao hơn gửi bằng nội tệ thì cầu ngoại tệ sẽ tăng và
kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ và ngược lại.
Phải có sự quản lý đối với hàng hoá trong nước: Điều tiết giá cả của
hàng hoá trong nước, khuyến khích người Việt Nam dùng hàng Việt Nam,
quản lý chặt chẽ nguồn hàng sản xuất trong nước cho phù hợp với yêu cầu
của nguời tiêu dùng, giúp đỡ quảng cáo và khuyến khích các dịch vụ sau bán
và sẽ làm cho đồng Việt Nam tăng giá khi hàng trong nước vẫn bán được.
Mặt khác nhà nước có thể giúp đỡ bằng cách tích cực tiếp cận và đổi mới
công nghệ, kỹ thuật phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước.
Điều chỉnh chính sách thuế quan và phi thuế quan một cách hợp lý
nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, tiến tới thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào
thuế quan. Chính sách bảo hộ nhập khẩu bằng cách tăng các mức thuế nhập
khẩu, hoặc dùng hạn ngạch, dán tem để có thể quản lý được nhập khẩu với
các mặt hàng xa xỉ hoặc các mặt hàng mà chúng ta đà sản xuất được, việc

22



Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

này sẽ làm tăng mức giá cả của hàng nhập khẩu tương đối so với hàng nội
địa.
Khống chế mức lạm phát trong nước: Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng
cùng chiều đến tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ. Lạm phát cao làm
gia tăng lÃi suất tương ®èi cđa tiỊn gưi b»ng néi tƯ so víi ®ång ngoại tệ kéo
theo sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là lạm phát có tác động ngược chiều với
giá trị của đồng bản tệ. Ngoài những ảnh hưởng trực tiếp thì lạm phát còn có
ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường ngoại hối. Do vậy muốn quản lý được thị
trường ngoại hối và điều tiết tỷ giá hối đoái theo một mục tiêu nhất định thì
Chính phủ cần khống chế được tỉ lệ lạm phát một cách hợp lý. Nếu không
khống chế được lạm phát một cách hợp lý thì diễn biến trên thị trường ngoại
hối và tỷ giá hối đoái là khó có thể kiểm soát được dẫn đến những biến động
ngoài mong muốn.
Cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn: Chính phủ cần phải
tăng cường vai trò của mình trên thị trường ngoại hối để có thể có những xử
lý kịp thời khi có những biến động trên thị trường, bằng việc dự trữ ngoại hối
chính phủ có thể điều tiết tỷ giá trên thị trường, quan tâm đến quản lý thị
trường, đến những việc mua bán ngoại tệ bất hợp pháp, ất cả các nhu cầu hợp
lý về ngoại tệ cần phải được đáp ứng đầy đủ.
Tóm lại, mỗi giai đoạn khác nhau, Chính phủ có thể đưa ra những chính
sách hợp lý khác nhau và các quy điịnh khác nhau về quản lý ngoại hối. Tuy
nhiên, trong giai đoạn nào cũng có những yếu tố cơ bản xuyên suốt, cần phải
nắm bắt được những yếu tố đó để đưa ra được những quyết định phù hợp
nhất. Trên cơ sở đó nhà nước có thể kiểm soát được các luồng di chuyển
ngoại tệ, thu hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ, ổn định tỷ giá, thực hiên
chính sách tiền tệ quốc gia.


23


Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.

Phần III: Kết Luận

Từ thực trạng và giảI pháp trên cho ta thấy việc xác định một tỷ giá
phù hợp là yếu tố rất quan trọng cho phát triển nền kinh tế của một đất
nước.VIệt Nam đà có những thành công bước đầu trong việc xác định tỷ giá
hợp lý ,nhưng việc thực hiện các đưòng lối nhièu lúc không đạt hiệu quả.Xác
lập một tỷ giá thoả đáng sẽ kích thích xuất nhập khẩu từ đó làm cho nền kinh
tế càng phát triển hơnlà một vấn đề đặt ra cho các nhà chính sách và sự nỗ
lực của các thành viên trên thị trường.
Việc hiểu biết và nắm bắt những đIều cần thiết về tỷ giá sẽ giúp cho
sinh viên nói riêng và những người quan tâm có những cáI nhìn tổng quát
hơn về nền kinh tế ,để từ đó có đIều chỉnh phù hợp trong công việc của mình
trong thời gian tới và tiến xa hơn là có những biện pháp cho chính phù nhằm
nâng cao giá trị của ®ång néi tƯ.
Víi viƯc thùc hiƯn ®Ị tµI nµy mong muốn đầu tiên là tự nâng cao khả
năng hiểu biết của mình ,tiếp theo là chia sẻ với những người quan tâm. Em
mong trong thời gian không xa nền kinh tế nước ta sẽ có những chuyển biến
tích cực để từ đó đảm bảo và nâng cao giá trị đòng nội tệ khiến nứoc ta càng
phát triển vững mạnh hơn.

24



×