Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Phân tích chức năng thế giới quan của triết học Mác Lênin? Theo anh (chị) Triết học Mác Lênin có vai trò như thế nào trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
⸎⸎⸎⸎⸎

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN? THEO ANH (CHỊ) TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN CĨ VAI TRỊ NHƯ THẾ NÀO TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?
LÊ PHƯƠNG ANH
Mã sinh viên

: 100229

Lớp

: IBL64ĐH

Khoa

: Viện đào tạo quốc tế ISE

Khóa

: 2023-2027

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN :
HẢI PHỊNG, THÁNG 11/2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
⸎⸎⸎⸎⸎

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN? THEO ANH (CHỊ) TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN CĨ VAI TRỊ NHƯ THẾ NÀO TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?
LÊ PHƯƠNG ANH
Mã sinh viên

: 100229

Lớp

: IBL64ĐH

Khoa

: Viện đào tạo quốc tế ISE

Khóa

: 2023-2027

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN :
HẢI PHỊNG, THÁNG 11/2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 2
I. Thế giới quan của Triết học Mác – Lênin: ................................................. 2
1. Định nghĩa: ................................................................................................ 2
2. Nguồn gốc của thế giới quan: ................................................................... 3
3. Vai trị: ........................................................................................................ 7
II. Phân tích chức năng thế giới quan của triết học Mác – Lênin:.............. 9
III. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay: .......................................................................................................... 11
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 16
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. 17


LỜI MỞ ĐẦU
“Triết học Mác-Lênin không chỉ là một hệ thống tư duy trí tuệ mà cịn là một lực
lượng tác động mạnh mẽ tới cấu trúc xã hội và chính trị. Những ý tưởng được
hình thành bởi Karl Marx và Friedrich Engels, và sau đó được phát triển và mở
rộng bởi Vladimir Lenin, đã chuyển đổi cách nhìn nhận thế giới và định hình nền
văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Thế giới quan có thể ví như một “lăng
kính” mà qua đó con người nhìn thế giới xung quanh, soi xét bản thân để xác định
mục đích, ý nghĩa của cuộc đời và lựa chọn cách sống. Cách thức hoạt động chính
là mục đích và mục đích đó. Vì vậy, thế giới quan đúng đắn là điều kiện tiên quyết
để xác lập nhân sinh quan tích cực; Trình độ phát triển của thế giới quan là vô
cùng quan trọng để đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng xã
hội. Trong bối cảnh đương đại của Việt Nam, triết học Mác-Lênin vẫn đóng một
vai trị quan trọng trong q trình đối mới và xây dựng nền kinh tế, chính trị, và
xã hội. Điều này đặt ra câu hỏi quan trọng về chức năng của thế giới quan MácLênin trong việc hướng dẫn và định hình hành động của chính trị, cũng như ảnh
hưởng của nó đối với sự phát triển bền vững và hiện đại hóa của quốc gia. Trong
bài tiểu luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu về các khía cạnh quan trọng của thế giới

quan Mác-Lênin, và đặt ra câu hỏi về vai trò và ứng dụng của triết học này trong
bối cảnh đương đại của Việt Nam. Chúng ta sẽ khám phá cách mà những nguyên
lý cơ bản của Mác-Lênin được áp dụng và tương tác với các thách thức và cơ hội
đặt ra trong quá trình phát triển đất nước. Bằng cách này, chúng ta có thể có cái
nhìn sâu sắc hơn về tầm ảnh hưởng và ý nghĩa của triết học Mác-Lênin trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những nhận định và đề xuất cụ
thể về việc làm thế nào triết học này có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển
của đất nước. Trong ngữ cảnh toàn cầu và đặc biệt là tại Việt Nam, nơi mà diễn
biến của lịch sử và văn hóa đang diễn ra nhanh chóng, việc nghiên cứu và đánh
giá chức năng của thế giới quan Mác-Lênin trở nên ngày càng quan trọng. Lời
cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới giảng viên Vũ Phú Dưỡng đã giảng dạy và
tạo điều kiện để tôi hoàn thành bài tiểu luận này.”
1


NỘI DUNG
I. Thế giới quan của Triết học Mác – Lênin:
Thực tiễn lịch sử nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã
chứng minh rằng, khi nào có được một thế giới quan tiên tiến dẫn đường thì đất
nước vượt qua những hiểm nghèo và phát triển. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhờ vận dụng sáng tạo thế giới
quan Mác – Lênin mà Việt Nam đã giành được độc lập dân tộc và tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội, những bài học trong q trình xây dựng và bảo vệ đất nước,
địi hỏi cần phải làm sáng tỏ hơn nội dung khái niệm thế giới quan nói chung và
thế giới quan Mác – Lênin nói riêng, để có thể tiếp thu những tinh hoa trong truyền
thống văn hóa dân tộc, xây dựng nền tảng đời sống tinh thần xã hội vững chắc để
Việt Nam tiến xa hơn trên con đường xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đã có nhiều tác giả bàn về khái niệm thế
giới quan. Song đến nay, nội dung của khái niệm vẫn chưa có sự thống nhất, vì
thế dẫn đến khó khăn trong việc tiếp nhận nội dung khái niệm, triển khai xây dựng

thế giới quan trong thực tiễn. Thiết nghĩ, có sự thống nhất trong việc hiểu chính
xác khái niệm là tiền đề quan trọng của mọi bộ mơn khoa học nói chung và thế
giới quan nói riêng tạo ra sự thống nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Định nghĩa:
Có thể nói vắn tắt, thế giới quan chính là một hệ thống gồm nhiều quan
điểm, nguyên tắc, niềm tin, khái niệm, biểu tượng của thế giới. Thế giới quan là
một khái niệm, một cái nhìn bao qt về cuộc sống tồn cầu, từ các mối quan hệ
xã hội, giữa con người và thế giới.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở
thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. Với tính
cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương thức
để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con người khơng có
2


phương hướng hành động.Có nhiêu cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan.
Xét theo quá trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại cơ bản:
Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin là toàn bộ các quan điểm và cách
thức duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của con người về thế giới trong tính chỉnh
thể của nó - sau đây gọi tắt là thế giới quan Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
của chúng ta đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lê-nin con đường và phương pháp
giải phóng dân tộc. Cho nên, trước tiên Người chịu ảnh hưởng của thế giới quan
Mác - Lênin ở phương diện thế giới quan duy vật lịch sử. Nói cách khác, Người
tiếp cận thế giới quan Mác - Lênin trước hết từ tính đặc trưng của triết học phương
Đông, nhất là của Việt Nam, là tư duy trực giác tổng hợp và tập trung nhắm vào
vấn đề “là người và làm người” hay vấn đề nhân sinh quan. Từ đó Chủ tịch Hồ
Chí Minh khơng chỉ tiếp thu thế giới quan Mác - Lênin ở từng nguyên lý riêng lẻ,

mà trước hết tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở phương diện chủ nghĩa duy vật
lịch sử; trong đó tập trung giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động tự do của con
người với tính tất yếu lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng.
Trên cơ sở đó, Người khắc phục được cách giải đáp chưa khoa học, có khi rơi vào
duy tâm, trừu tượng và thần bí của thuyết Thiên - Địa - Nhân hợp nhất trong thế
giới quan triết học phương Đông. Vậy định nghĩa, nguồn gốc và những vấn đề cơ
bản của thế giới quan ta sẽ tìm hiểu trong mục nhỏ này.
2. Nguồn gốc của thế giới quan:
Thế giới quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được tổng hợp với các yếu tố duy vật biện
chứng trong triết học Việt Nam và phương Đông. Thế giới quan triết học được
hình thành trên cơ sở tổng hịa tri thức khoa học và triết lý của con người trong
việc giải thích nguồn gốc của các sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã
hội. Thế giới quan triết học, do đó thể hiện trình độ phát triển rất cao của nhận
thức con người về thế giới.
3


Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là toàn bộ các quan điểm và cách
thức duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của con người về thế giới trong tính chỉnh
thể của nó - sau đây gọi tắt là thế giới quan Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường và phương pháp giải phóng dân tộc.
Cho nên, trước tiên Người chịu ảnh hưởng của thế giới quan Mác - Lênin ở
phương diện thế giới quan duy vật lịch sử. Nói cách khác, Người tiếp cận thế giới
quan Mác - Lênin trước hết từ tính đặc trưng của triết học phương Đông, nhất là
của Việt Nam, là tư duy trực giác tổng hợp và tập trung nhắm vào vấn đề “là người
và làm người” hay vấn đề nhân sinh quan. Từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng
chỉ tiếp thu thế giới quan Mác - Lênin ở từng nguyên lý riêng lẻ, mà trước hết tiếp
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở phương diện chủ nghĩa duy vật lịch sử; trong đó
tập trung giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động tự do của con người với tính tất

yếu lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng. Trên cơ sở đó, Người khắc phục
được cách giải đáp chưa khoa học, có khi rơi vào duy tâm, trừu tượng và thần bí
của thuyết Thiên - Địa - Nhân hợp nhất trong thế giới quan triết học phương Đông.
Để hình thành thế giới quan mới, trước hết Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
tư tưởng về con người, bản chất con người và sự cần thiết phải giải phóng con
người khỏi thế giới quan cũ, xây dựng thế giới quan mới. Khi bắt đầu tổ chức tiến
hành đấu tranh cách mạng, ngay trên đầu trang nhất, số đầu tiên của báo Le Paria
- Người cùng khổ, Hồ Chí Minh viết: Báo Le Paria sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu, mục đích của nó chắc chắn sẽ đạt được: giải phóng con người. Lúc cuối đời,
trong Di chúc, Người vẫn tâm niệm, việc “đầu tiên là công việc đối với con người”.
Theo Người, “ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời,
địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan
trọng bằng địa lợi, mà địa lợi khơng quan trọng bằng nhân hịa.
Để giải phóng con người khỏi thế giới quan cũ và xây dựng thế giới quan
mới, cũng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất phát từ con người hiện thực. Vì phải xuất phát từ “con người hiện thực”,
“nhân dân hiện thực” mới hình thành được thế giới quan đúng, và mới có tiền đề
4


hiện thực để hiểu được quá trình phát triển của lịch sử loài người. Những con
người hiện thực là đồng bào Việt Nam khi mất nước; là phụ lão, nhi đồng, thanh
niên, phụ nữ, cơng, nơng, binh, trí thức, cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có nhân cách với
những “tính cách riêng”, “sở trường riêng”, quyền lợi riêng, đời sống riêng. Người
ta có tính tốt và tính xấu. Mỗi con người đều có thiện và ác trong lịng. Thiện và
ác khơng phải tự nhiên có, mà “phần lớn do giáo dục mà ra”. Do đó, phải biết làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi. Gốc rễ của việc giải phóng con người Việt Nam khỏi thế giới quan cũ là
phải giành được độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng giành được độc lập, tự do cho

dân tộc mà nhân dân không được hưởng sung sướng thì cũng chẳng có nghĩa lý
gì cho việc xây dựng thế giới quan mới. Vì thế, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội
để “làm sao cho dân giàu nước mạnh”, thực hiện “công bằng hợp lý, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, ... Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà
nước giúp đỡ và chăm nom”, “nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Cịn bản thân con người phải có tài và
đức; trong đó đạo đức là cái gốc làm người (người dân, cán bộ, đảng viên,...), còn
tư tưởng làm cốt của trí khơn, là bàn chỉ nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ:
“Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát,
mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì
cịn làm nổi việc gì?”.
Từ quan niệm về tính tích cực của chủ thể, Hồ Chí Minh yêu cầu phải “trồng
người” để con người có khả năng nhận thức và cải tạo thế giới, theo phương châm:
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã
hội chủ nghĩa. Và sự nghiệp xây dựng đó có thể “trồng” được những con người
xã hội chủ nghĩa.

5


Vai trò quyết định của thực hành và sứ mệnh “cải tạo thế giới” của thế giới
quan mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, “chỉ có thực hành mới là mực
thước đúng nhất cho sự hiểu biết của người về thế giới. Chỉ do quá trình thực hành
(quá trình sản xuất vật chất, giai cấp đấu tranh, khoa học thực nghiệm), người ta
mới đạt được kết quả đã dự tính trong tư tưởng, và lúc đó sự hiểu biết mới được
chứng thực”. Ở Người, nội dung hoạt động thực hành gồm tất cả các hoạt động
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và cả sinh hoạt thường nhật, để giải phóng con
người khỏi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và “chiến thắng mọi tính xấu trong

mình ta”, nhằm phát triển con người mới, xã hội chủ nghĩa.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động thực hành không phải là hoạt
động trừu tượng, chung chung, không gắn với các công việc thực tế hằng ngày và
không gắn với việc bồi dưỡng chủ thể hoạt động thực hành trong những điều kiện
lịch sử - cụ thể. Nó là hoạt động giải phóng, đồng thời gắn với xây dựng, phát
triển con người, giai cấp, dân tộc và nhân loại. Việc coi sinh hoạt thường nhật là
một dạng hoạt động thực hành, hoạt động vật chất có chủ đích, chứng tỏ Chủ tịch
Hồ Chí Minh thấm nhuần, vận dụng và phát triển sáng tạo quan niệm của C. Mác
về bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội của con người trong đời sống hiện thực.
Quan niệm “chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta” là nhằm xây dựng ý thức tự
giác của các chủ thể hoạt động thực hành, đặc biệt ở con người xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động thực hành, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, diễn ra trong mối quan hệ biện
chứng giữa “diện” và “điểm”, cụ thể là giữa việc thực hiện các “công việc hằng
ngày” với phong trào thi đua, giữa tấm gương “người tốt, việc tốt” với người
người thi đua, ngành ngành thi đua, giữa giải phóng và phát triển, nhằm xây dựng
xã hội mới, con người mới. Chỉ thông qua thực hành “mà tìm ra sự thật. Lại do
thực hành mà chứng thực sự thật và phát triển sự thật. Từ hiểu biết bằng cảm giác
tiến lên hiểu biết bằng lý trí. Lại từ hiểu biết bằng lý trí tiến lên thực hành lãnh
đạo cách mạng, cải tạo thế giới”. Nói cách khác, chỉ thông qua thực hành, con
người mới phản ánh được thế giới, giải thích được thế giới, và quan trọng là cải
tạo được thế giới.
6


3. Vai trò:
Chức năng thế giới quan trong triết học Mác – Lênin đem là thế giới quan duy
vật biện chứng. Nó đóng vai trị định hướng, làm cơ sở khoa học cho con người
nhận thức sâu về thế giới hiện thực, bản chất của tự nhiên, xã hội và thấy được
được mục đích ý nghĩa của cuộc sống. Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao
sức sáng tạo của con người, giúp con người hình thành quan điểm, định hướng,

từ đó xác định thái độ và cách thức hoạt động của mình. Tồn tại trong mối quan
hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức
thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó
dần dần hình thành nên thế giới quan. Thế giới quan là nhân tố định hướng cho
quá trình hoạt động sống của con người. Thế giới quan như một “thấu kính” qua
đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt
mục đích đó. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định. Triết học ra đời
với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển
như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức
do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học. Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập
nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trị là nền tảng thế giới quan của các hệ tư
tưởng đối lập. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong
triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai
cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau. Do vậy:
• Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp
cho con người sáng tạo trong hoạt động.
• Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong
hoạt động.
• Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hồn thiện thế giới quan.
• Nó có vai trị đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng
đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận
7


thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của
cuộc sống.
• Nó giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt
động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của

mình.
• Nâng cao vai trị tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn
chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về
thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như
một cộng đồng xã hội nhất định.
• Là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo,
phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật
biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực
lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư
tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học cơng nghệ, sự gắn bó càng
trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội
dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên
khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức
hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên
lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát
hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết
học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi
cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri
thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri
thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu
tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học khơng những khó mang lại
8


hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể cịn dẫn đến những sai lầm mang tính
giáo điều.

Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần tránh cả
hai thái cực sai lầm:
• Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, dễ bằng lòng với những
biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa
trơng rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong cơng tác;
• Tuyệt đối hóa vai trị của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng
một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp
riêng mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và
kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết quả
vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học
Mác - Lênin nói riêng.
II. Phân tích chức năng thế giới quan của triết học Mác – Lênin:
Có một thế giới quan đúng đắn sẽ hướng con người hành động theo sự tiến
bộ tất yếu của xã hội và đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Vì thế, thế giới
quan là cơ sở về mặt tư tưởng của con người, là nền tảng về tư tưởng, chính trị và
đạo đức. Có vai trị rất lớn trong q trình giúp con người nhận thức đúng đắn về
thế giới hiện thực. Giúp con người hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên và xã hội, là
cơ sở khoa học giúp hiểu biết sâu sắc hơn về tự nhiên và xã hội. Ý nghĩa và mục
đích của cuộc sống.
Khuyến khích tính năng động, sáng tạo của cá nhân. Thế giới quan đúng
đắn là yếu tố cần thiết để có một thái độ sống lành mạnh. Mức độ phát triển của
thế giới quan là một tiêu chí quan trọng đối với q trình phát triển, mỗi cá nhân
sống trong một cộng đồng xã hội cụ thể. Thế giới quan nâng cao nhận thức và
hoạt động thực tiễn khơng chỉ đứng ngồi quan sát mà cần nghiên cứu, tư vấn và
9


cung cấp luận cứ khoa học, thực tiễn về đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực ấy. Đó là cơ sở khoa học nhằm đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm,
mê tín, phản khoa học. Với tính chất khoa học và cách mạng, cốt lõi của tư tưởng
là thế giới quan duy vật biện chứng. của giai cấp công nhân cùng các thế lực tiến
bộ, cách mạng, là cơ sở khoa học vững chắc trong đấu tranh chống lại hệ tư tưởng
mê tín, phản khoa học.
Thế giới quan nâng cao nhận thức và hoạt động thực tiễn khơng thể đứng
ngồi quan sát mà phải nghiên cứu, tư vấn kịp thời các luận cứ khoa học, đề xuất
các chủtrương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực và thực hiện Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực đó. Triết học Mác – Lênin
là thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động. Tính đảng trong triết học phải gắn chặt với tính khoa học. Đó là
nền tảng vững chắc để chúng ta khơng rơi vào phương pháp tư duy siêu hình, máy
móc, duy ý chí.
Xét về cơ hội và thách thức, vai trò to lớn này phụ thuộc vào việc hiểu và
vận dụng sáng tạo thế giới quan của triết học Mác. Thời cơ, vận hội đã và đang
đến vớicác quốc gia, dân tộc và mở ra cho đất nước đi tới và phát triển. Tuy nhiên
làm gì và làm như thế nào để nắm bắt thời cơ, vận hội và thách thức thì vai trị to
lớn đó phụ thuộc vào sự hiểu biết, vận dụng sáng tạo thế giới quan, phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin. Những thành phần chủ yếu của thế giới quan
là tri thức, niềm tin và lý tưởng; trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành
thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm
ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao
nhất của thế giới quan. Với tính cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành
động, thế giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế
giới quan, con người khơng có phương hướng hành động.

10



III. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay:
Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và đang
bị chi phối bởi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức và
nó đang diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy, vai trị
của triết học Mác – Lênin khơng hề bị suy giảm mà trái lại ngày càng được thể
hiện rõ vai trị trong nhận thức và cải tạo thực tiễn. Vì vậy, tất cả các quốc gia,
dân tộc muốn tồn tại và phát triển trong đó có Việt Nam, cần phải phát triển giáo
dục – đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao dân trí để góp phần đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn làm tốt điều này, triết học
phải góp phần giải đáp các vấn đề về phát huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm
năng, xem đó là những nhân tố đặc biệt quan trọng, quyết định thành công con
đường xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Triết học Mác – Lênin là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận
cho nhận thức và hoạt động thực tiễn, khơng thể đứng ngồi cuộc mà phải nghiên
cứu và kịp thời cung cấp các luận cứ khoa học để tham mưu, xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực và sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực đó.
Hiện nay, dưới tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh
tế tri thức đã và đang làm cho các quốc gia, dân tộc vận động, biến đổi. Theo đó,
đổi mới chương trình, nội dung nghiên cứu, phương pháp giảng dạy triết học là
một tất yếu khách quan, song vấn đề đổi mới như thế nào, đổi mới cái gì, cần phải
được cân nhắc cẩn trọng và có quyết định sáng suốt, chính xác. Trong q trình
đổi mới cần khẳng định rõ quan điểm có tính ngun tắc: triết học Mác – Lênin
là thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động. Tính đảng trong triết học phải gắn chặt với tính khoa học. Đó là
nền tảng vững chắc để chúng ta khơng rơi vào phương pháp tư duy siêu hình, máy
móc, duy ý chí.

11


Trước tác động của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri
thức, thế giới ngay nay càng trở nên phẳng hơn, song cũng gồ ghề hơn. Đó là sự
thống nhất của hai mặt đối lập. Ngày nay, Khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp
như điều Mác dự báo trước đây đã trở thành hiện thực. Thời cơ, vận hội đã và
đang đến với từng quốc gia, dân tộc và đang mở ra cho quốc gia, dân tộc đi tới và
phát triển. Tuy nhiên làm gì và làm như thế nào để nắm bắt thời cơ, vận hội và
thách thức thì vai trị to lớn đó phụ thuộc vào sự hiểu biết, vận dụng sáng tạo thế
giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Như vậy, xuất từ lập trường quan
điểm của triết học Mác - Lênin, con người có thể có được những cách giải quyết
đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Điều này thể hiện giá trị định hướng một biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin trong
giải quyết những vấn đề cụ thể của cuộc sống. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực
sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”, “Đổi mới tư
duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt; một số nhiệm vụ,
giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định; đào tạo chưa gắn kết với
nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội”. Đây chính là cơ sở để Đảng ta xác định các chính sách mới, đúng đắn,
hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, thúc đẩy kinh tế, xã
hội phát triển. Đó là những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong
nhiệm kỳ Đại hội XIII về: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và
các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện,
cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi
ngộ nhân tài…; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Với thế giới quan duy vật

biện chứng, Đảng ta đã xác định đúng con đường, bước đi, đồng thời với phương
pháp luận biện chứng duy vật giúp chúng ta giải quyết tốt những vấn đề đặt ra
12


trong thực tiễn, như đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cơ đồ
đất nước ta sau 35 năm đổi mới: “Đảng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, trên các lĩnh vực: kinh tế; giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ; phát triển văn hóa, xã hội, con người; chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc được củng cố; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
có nhiều tiến bộ; cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ…”.
Theo đó, có thể khẳng định rằng, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể thành công được nếu chúng ta không
vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Trước những thay đổi của thế giới, của thực tiễn vận động phát của đất nước
cũng đang đặt ra đối với đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy triết học ở các cơ
sở đào tạo có cách nhìn nhận và giải quyết những mâu thuẫn của thời đại một cách
khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển để đúc kết, khái quát, bổ sung
cái mới, tư duy mới để giải quyết thấu đáo vấn đề do toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế đang đặt ra.
Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của triết học trong giai đoạn hiện nay
là những vấn đề mang tính chất tồn cầu hóa, bao hàm sự phát triển bền vững của
mỗi quốc gia, dân tộc. Đó là cách tốt nhất để triết học nước ta khơng đứng ngồi
cuộc những vấn đề tồn cầu, đặc biệt là những vấn đề về tính tất yếu khách quan,
bản chất, đặc điểm, vai trị...do tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo nên. Hướng
vào nghiên cứu và giải quyết các vấn đề do toàn cầu hóa đặt ra, xây dựng thế giới
quan, phương pháp luận đúng đắn; triết học sẽ giúp cộng đồng nhân loại nói chung,
nhân dân ta nói riêng, nhận thức sâu sắc hơn về vị trí vai trị làm chủ thế giới, làm

chủ tri thức, cải tạo và sáng tạo thế giới của mình trên cơ sở làm chủ tồn tại xã hội
và làm chủ chính bản thân mình.
Đối với chúng ta, nhận thức đúng và giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn
mà công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt
13


ra trong bối cảnh hiện nay phải được coi là một trong những định hướng chủ đạo,
nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Chỉ có như vậy, triết học Mác – Lênin mới hoàn
thành xuất sắc, chức năng thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho nhận
thức và cải tạo hiện thực; đồng thời làm tốt các vai trò, chức năng vốn có: chuẩn
mực, phê phán, định hướng, tiên đốn, khoa học…của mình. Đó cũng là con
đường cần đi tới của triết học Mác – Lênin trong kỷ nguyên toàn cầu hóa: đem lại
cách tiếp cận phức hợp, liên ngành để nhận thức sâu sắc bản chất, xu hướng vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng; từ đó có những luận chứng mới, sâu sắc
về mặt lý luận giúp cho Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng từ trung ương
đến địa phương hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, phát
triển đất nước đúng hướng, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu. Sai lầm trong thực
tiễn là đáng sợ, nhưng sai lầm trong nhận thức và nghĩ mình ln đúng cịn đáng
sợ hơn nhiều. Theo đó, cách tốt nhất để mỗi người không mắc phải sai lầm là nắm
chắc tri thức khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là
chiếc chìa khóa vạn năng mở ra con đường đưa chúng ta tự tin bước vào thế giới
của kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức.
Thế giới quan duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin có vai trị đặc
biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực.
Đây là cơ sở khoa học giúp con người đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã
hội và mục đích, ý nghĩa của cuộc sống; hình thành quan điểm khoa học định
hướng mọi hoạt động, từ đó xác định thái độ và cách thức hoạt động; nâng cao
vai trị tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác

định nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan
trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội.

14


KẾT LUẬN
Triết học Mác-Lênin đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành thế giới quan
và phương pháp luận của nền triết học này. Bằng cách phân tích mối quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và tầng lớp xã hội, Mác-Lênin đã cung cấp một bức tranh toàn diện
về cách xã hội phát triển. Thế giới quan này đã làm nền tảng cho việc hiểu và thực
hiện cách mạng xã hội. Một trong những đặc điểm nổi bật của triết học Mác-Lênin
là khả năng linh hoạt và áp dụng vào ngữ cảnh cụ thể. Đối với Việt Nam, triết học
này đã trở thành nguồn lực lớn đối với sự nghiệp đổi mới. Trong giai đoạn xây
dựng và phát triển kinh tế, việc hiểu rõ mối quan hệ phức tạp giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, theo quan điểm Mác-Lênin, đã giúp quốc gia này áp
dụng những chính sách thích hợp để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững.
Ngồi ra, triết học Mác-Lênin cũng đóng góp vào việc xây dựng chính trị ổn định.
Qua việc phân tích cấu trúc quyền lực và vai trị của các tầng lớp xã hội, nền chính
trị có thể được thiết kế sao cho phản ánh ý chí và lợi ích của đa dạng tầng lớp
nhân dân. Điều này đã giúp Việt Nam xây dựng một chính trị đa đảng với sự tham
gia tích cực của cộng đồng. Tuy nhiên, khi áp dụng triết học Mác-Lênin vào ngày
nay, đặt ra những thách thức mới. Thế giới đang trải qua sự biến đổi nhanh chóng
với sự phát triển của cơng nghệ và sự tồn cầu hóa. Cách mạng cơng nghiệp 4.0
đặt ra những yêu cầu mới cho sự linh hoạt và sáng tạo, và làm thế nào triết học
Mác-Lênin có thể đối mặt và đáp ứng những thách thức này vẫn là một câu hỏi
đối với nhiều nhà nghiên cứu và nhà quản lý. Nếu nhìn vào hiện tại và tương lai,
triết học Mác-Lênin không chỉ là một khuôn khổ lý thuyết mà còn là một nguồn
cảm hứng để tạo ra những giải pháp mới. Cần thiết lập một sự kết hợp giữa những
nguyên lý cơ bản của Mác-Lênin và sự đổi mới để đảm bảo rằng triết học này vẫn

giữ vững giá trị của mình trong thế giới hiện đại đầy thách thức. Việc này khơng
chỉ là sự duy trì một truyền thống mà còn là việc xây dựng một cơ sở cho sự phát
triển bền vững và xã hội công bằng. Trong bối cảnh đương đại, việc áp dụng những
nguyên lý cơ bản của Mác-Lênin đòi hỏi sự sáng tạo và đổi mới để đáp ứng những
thách thức mới, giữ cho bản chất của triết học này vẫn đồng hành với sự phát triển
xã hội.
15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Hà Nội 8 – 2019.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
1995.
(3) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.
(4) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.479.
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021.

16


LỜI CAM ĐOAN
Toàn bộ những nội dung của tiểu luận được nêu trên là những tìm hiểu, hiểu biết
của tơi trong thời gian qua về đề tài được giao. Tôi xin cam đoan không sao chép
một nguồn khác, không sao chép tiểu luận của bạn khác, không nhờ viết hộ, khơng
th viết hộ. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về nội dung bài tiểu luận của mình. Do thời hạn và tìm hiểu, hiểu biết có
hạn nên khơng tránh khỏi những thiếu sót hoặc sai lầm, kính mong nhận được góp
ý của thầy để bài tiểu luận trở nên hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


17



×