Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bài mẫu 2 Triết học phân tích nội dung ý nghĩa pp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.79 KB, 29 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận

I. Phạm trù thực tiễn.................................................................................................... 4
II. Phạm trù nhận thức ................................................................................................ 6
1. Quan niệm về bản chất của nhận thức trong triết học trước Mác ...................... 6
2. Bản chất của nhận thức theo quan niệm triết học Mác- Lênin .......................... 8
CHƯƠNG 2:Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn

I. Sự khác nhau cơ bản giữa nhận thức và thực tiễn .............................................. 10
II. Sự thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn- nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin .................................................................................................................. 11

III. Sự thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn trong cơng cuộc phịng và chống
COVID-19 hiện nay ở nước ta .................................................................................. 21
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận .................................................................................................................. 25
2. Kiến nghị ................................................................................................................ 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của khoa học và thực tiễn, triết học ln giữ vai trị đặc
biệt – cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. Không phải ngẫu nhiên mà nhà triết học,
đồng thời là nhà khoa học tự nhiên R. Descartes cho rằng: “triết học là thể hiện cơ bản nhất
sự thông thái của con người không chỉ trong lĩnh vực nhận thức mà cả trong công việc
khác”1, điều này đáng để chúng ta suy ngẫm!


Có thể nói triết học do Mác và Ăngghen sáng lập sau này được Lênin phát triển và
hoàn thiện thêm là một hệ thống hoàn bị nhất. Điều này không phải chỉ được chứng minh
bằng vài ba lời lẽ cầu kỳ, hoa mỹ mà phải được chứng minh bằng thực tiễn, phải được sàng
lọc qua lăng kính của thực tiễn. Mặc dù đã trải qua hơn 150 năm. Nhất là sau khi Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, lịch sử thế giới đang ở một “khúc quanh”
phức tạp của sự vận động phát triển, song chủ chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tỏ rõ sức sống
của nó trong đời sống hiện thực, những giá trị tinh thần, tính khoa học và cách mạng chủ
nghĩa Mác - Lênin được thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của nó.
Như vậy, để nhận thức được tính đúng đắn, khoa học và cách mạng học thuyết của
Mác, thì cần phải có quan điểm thực tiễn. Như Lênin đã từng khẳng định rằng, lý luận nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn và trở về thực tiễn thì lý luận mới mang tính khoa học,
khắc phục căn bệnh giáo điều hay lý luận suông. Theo Lênin, bản chất và linh hồn sống
của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình huống cụ thể.
Bản thân các nhà kinh điển khơng coi học thuyết của mình như một cái gì đó hồn
thiện, bất biến, mà ln địi hỏi phải có sự bổ sung, vận dụng phát triển sáng tạo trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Bởi lẽ, chân lý ln bao hàm trong nó tính cụ thể, “… mọi
chân lý trừu tượng đều sẽ trở thành một lời nói sng trống rỗng nếu người ta đem áp dụng

1

Nguyễn Thế Nghĩa, Triết Học với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội, 1997, tr. 5


2
nó vào bất cứ một tình hình cụ thể nào”2 và cách mạng luôn là sự sáng tạo, do vậy mà phải
căn cứ vào những điều kiện cụ thể mới có những định hướng giải pháp phù hợp. Các nhà
kinh điển cũng khơng bao giờ coi học thuyết của mình như là những câu trả lời vạn năng
cho mọi tình huống của cuộc sống, mà địi hỏi phải ln được xem xét gắn với sự phát triển

của thực tiễn, với tư cách là động lực của nhận thức, là tiêu điểm khách quan của mọi chân
lý.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, và “kim chỉ nam” cho hành động
cách mạng ở nước ta. Trong những năm đổi mới, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách mạng, vấn đề này đang đặt ra nhiều
đòi hỏi phải có nhận thức đúng đắn về bản chất, xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm
của quốc gia dân tộc, trên cơ sở đó mà xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù
hợp, nhằm gặt hái những thành quả trong công việc xây dựng và phát triển đất nước.
Nắm vững tầm quan trọng, vai trò “là một kim chỉ nam cho hành động”3 của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung cũng như lý luận về nhận thức nói riêng, tác giả với bài viết:
“quan điểm về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin “cũng
mong muốn bước đầu có cái nhìn khái qt trong viện nhận thức của bản chất khoa học và
cách mạng của chủ nghĩa Mác để từ đó làm sáng tỏ về “sự thống nhất giữa thực tiễn và
nhận thức”4, nhằm nêu bật lên sức sống và ảnh hưởng của nó trong cơng cuộc đổi mới đất
nước, phát triển lý luận làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng góp
phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của nước ta đi tới thắng lợi.
Với mục đích trên ngồi phần mở đầu và kết luận bài viết được chia làm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
I. Phạm trù thực tiễn
II. Phạm trù nhận thức
Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
258
3
Sđd, tr. 243
4
Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
235
2



3
Chương 2: Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức và thực tiễn
I. Sự khác nhau cơ bản giữa nhận thức và thực tiễn
II. Sự thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin
III. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam


4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN
Thực tiễn là một trong những vấn đề trọng tâm của triết học. Từ xưa các nhà triết
học đã tìm hiểu đời sống hiện thực của con người, đã cố gắng tìm kiếm phương pháp để
giải thốt con người khỏi kiếp “trần ai khổ cực”. Tuy nhiên vì nhiều hạn chế nên họ đã
không hiểu đúng về thực tiễn. Một số nhà triết học coi thực tiễn như là hoạt động kiếm
sống của những người cần lao; số khác lại hạn chế thực tiễn dưới hình thức quan sát, thí
nhiệm, thậm chí có người coi thực tiễn là hoạt động “bẩn thỉu” có tính chất “con bn”. Vì
vậy mà trong nhiều thế kỷ, thực tiễn đã bị loại xa khỏi phạm vi triết học.
Tổng kết thành tựu khoa học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của nhân loại
C.Mác và Ph. Ăng ghen đã vạch ra vai trò cách mạng của thực tiễn đồng thời đưa nó vào
trong hệ thống phạm trù triết học. Việc đưa thực tiễn vào triết học với tính cách là nền tảng
của tồn bộ đời sống xã hội, là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
của chân lý; các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã làm cuộc cách mạng trong lý luận
nhận thức. V.I. Lênin viết: “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận vế nhận thức”5
Lịch sử đã chứng minh rằng: quan hệ đầu tiên của con người với thế giới bên ngồi
khơng phải là quan hệ lý luận, mà là thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người làm ra lịch
sử của mình với tất cả những mặt đa dạng, phong phú của nó. Thật vậy, con người muốn
tồn tại và phát triển được trước hết cần phải có cái để ăn, mặc, ở, ... Muốn có những cái

này, con người phải lao động sản xuất, cải tạo xã hội và nghiên cứu khoa học. Ăng Ghen
viết: “Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người cần
phải ăn uống, mặc, trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tơn
giáo…”6. Lao động sản xuất vật chất là quá trình con người dùng công cụ tác động vào thế
giới tự nhiên tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mình. Lao động sản xuất vật

Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976,
tr.235
6
Bộ giáo dục và đào tạo, Triết Học Mác - Lê Nin, Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 21
5


5
chất không đủ tạo ra của cải vật chất, những cơng cụ và phương tiện lao động, mà cịn làm
biến đổi con người (phát triển cơ thể, các giác quan, bộ óc,..) làm xuất hiện những nhu cầu
mới về nhận thức (giải thích các hiện tượng trong thế giới và chính bản thân con người,
nghiên cứu khoa học…), đồng thời làm thay đổi quan hệ giữa con người với thế giới và
giữa con người với con người.
Quá trình sản xuất vật chất của con người với nhân loại làm nảy sinh và phát triển
cá nhân con người, nhóm người, giai cấp dân tộc, quốc gia, và tương ứng với chúng là
những tổ chức chính trị xã hội, nhất định: Chính Đảng nhà nước, các tổ chức đoàn thể và
tổ chức xã hội, từ đây, thực tiễn có thêm hình thức mới – hoạt động cải tạo xã hội. Đó là
những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ hịa bình,
bảo vệ mơi trường sinh thái, những cuộc cải tổ, đổi mới công nghiệp hóa, và hiện đại hóa
xã hội... Tất cả những hoạt động này làm biến đổi quan hệ xã hội và mọi mặt khác nhau
của đời sống xã hội.
Trên cơ sở của sản xuất vật chất và hoạt động cải tạo xã hội hình thành lên dạng
hoạt động mới của con người – thực nghiệm. Là hình thức vận động vật chất đặc biệt, thực
nghiệm bao gồm: thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm xã hội, thực nghiệm khoa học. Đó là

hoạt động người được thực hiện trong những điều kiện “nhân tạo” để rút ngắn độ dài “biến
đổi hiện thực của con người, và trên cơ sở này mà nhận thức thực hiện, xác nhận hay bác
bỏ tri thức của chúng ta về đối tượng.
Trên nền tảng của sản xuất vật chất, cải tạo xã hội và thực nghiệm được hình thành
và phát triển những hoạt động đa dạng, phong phú của đời sống xã hội như: sinh hoạt gia
đình, nghiên cứu khoa học, y tế, giáo dục, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, thể dục thể thao….
Như vậy, hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú. Chúng được thực hiện
trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, khái quát lại ta thấy có hai dạng hoạt
động cơ bản và bao trùm nhất: Hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Trong đó hoạt
động vật chất là nền tảng toàn bộ đời sống xã hội, nó quy định hoạt động tinh thần, từ
những phân tích ở trên ta có thể định nghĩa khái niệm thực tiễn như sau:
“Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã


6
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”7
Với tính cách là tồn bộ hoạt động vật chất của con người cải tạo thế giới, thực tiễn
được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo xã
hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất là nền tảng
toàn bộ đời sống xã hội, nó quyết định tất cả các dạng khác nhau của hoạt động người,
khơng có nó thì khơng có xã hội, khơng có con người với tính cách là con người.
Như vậy, hiểu thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất cải tạo thế giới của con người
cho phép chúng ta phân biệt được thực tiễn với tất cả những hoạt động khác của con người.
Đồng thời, nó vạch ra vai trò nền tảng của thực tiễn đối với xã hội và vai trị quyết định
của nó đối với nhận thức (lý luận). Chính vì thế, nhận thức lý luận, một mặt, phải xuất phát
tử thực tiễn, được thúc đẩy và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn; mặt khác, lý luận (nhận
thức) phải hướng dẫn chỉ đạo điều chỉnh và định hướng thực tiễn. Đó chính là mối quan hệ
biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa chủ thể và khách thể hay chính là q trình biến
đổi thế giới bởi con người, đồng thời biến đổi con người bởi thế giới.
II. PHẠM TRÙ NHẬN THỨC

Nhận thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo của chủ thể đối với khách thể trên cơ
sở thực tiễn. Nắm bắt bản chất của nhận thức chính là xác định được vấn đề then chốt của
lý luận nhận thức. Nó trực tiếp liên quan đến nội dung của nhận thức, mối quan hệ giữa
con người chủ thể nhận thức với đối tượng khách thể nhận thức. Xoay quanh vấn đề này
có nhiều trường phái triết học khác nhau tạo nên những cuộc tranh luận kịch liệt. Triết học
Mác – Lênin cho rằng, bản chất của nhận thức là sự phản ánh năng động của chủ thể đối
với khách thể trên cơ sở thực tiễn. Đây là sự trả lời khoa học đối với vấn đề bản chất của
nhận thức.
1. Quan niệm về bản chất của nhận thức trong triết học trước Mác
Trước khi xuất hiện triết học Mác, việc lý giải bản chất của nhận thức có ba loại
quan điểm: đó là thuyết tiên nghiệm của chủ nghĩa duy tâm; thuyết hoài nghi của chủ nghĩa
Bộ giáo dục và đào tạo – giáo trình triết học Mác - Lê Nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005, tr. 295
7


7
bất khả tri; và thuyết phản ánh trực quan của chủ nghĩa duy vật cũ.
Thuyết tiên nghiệm xuất phát từ thế giới quan duy tâm, kiên trì con đường từ tư
tưởng và cảm giác đến nhận thức của sự vật, phủ nhận đối tượng của nhận thức là thế giới
vật chất; nó cho rằng, nhận thức là một thứ tự sinh chủ quan, không chịu sự quyết định của
vật chất. Từ thuyết hồi ức của phương Tây cổ đại, tư tưởng nhận thức luận “sinh nhi tri
chi” (sinh ra đã biết) và lương tri, lương năng của Trung Quốc cổ đại, cho đến thuyết “quan
niệm thiên phú” của phương Tây cận đại đều là những hình thức biểu hiện khác nhau của
thuyết tiên nghiệm của chủ nghĩa duy tâm. Sự sai lầm căn bản của thuyết này chính là ở
chỗ họ đã đem nhận thức khép kín trong vịng trịn của tinh thần chủ quan, phủ nhận nguồn
gốc khách quan của nhận thức.
Thuyết hoài nghi của chủ nghĩa bất khả tri xem hiểu biết của con người là một loại
hiểu biết phức tạp khơng thể chứng minh, vì thế đã khơng thể phản ánh chính xác sự vật
khách quan. Họ quan niệm rằng, điều mà con người biết chỉ có thể là cảm giác của chính

mình, cái gọi là thơng qua nhận thức mà phát hiện tính quy luật khách quan hoặc tính tất
nhiên nhân quả, chẳng qua là con người sau khi cảm giác lặp lại nhiều lần hình thành nên
liên tưởng tính tập qn (thói quen), thậm chí tính tất nhiên nhân quả này cũng khơng tồn
tại chân thực trong thế giới khách quan, chúng ta khơng có cách nào để chứng minh.
Thuyết phản ánh trực quan của chủ nghĩa duy vật cũ kiên trì quan điểm cho rằng
cảm giác, nhận thức, tư tưởng con người phản ánh được sự vật khách quan tồn tại bên ngồi
đầu óc; nhận thức là sự phán ánh của não người với thế giới khách quan. Nhưng nhận thức
luận của chủ nghĩa duy vật cũ là thuyết phản ánh trực tiếp. Đặc điểm của nó là xem chủ thể
nhận thức như một kiểu tồn tại sinh vật tự nhiên, xem sự phản ánh của con người là quá
trính tiếp thu một cách máy móc, bị động. Thuyết hình ảnh, thuyết lưu xạ, thuyết lạp khối
của phương tây cổ đại cho đến thuyết tabula rasa và cảm giác luận…, tất cả đều thuộc kiểu
lý luận này.
Như vậy, các học thuyết về bản chất của nhận thức trong triết học trước Mác đều
còn mắc phải những sai lầm hay hạn chế về mặt này hay mặt khác. Điều này được lý giải
từ mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên. Trong điều kiện khoa học tự nhiên
chưa phát triển mạnh nên sự ảnh hưởng của nó đến thế giới quan và phương pháp luận triết


8
học còn rất khiêm tốn.
2. Bản chất của nhận thức theo quan niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận nhận thức, nó khơng chỉ đã
bác bỏ được thuyết tiên nghiệm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết hoài nghi của chủ nghĩa
bất khả tri, mà còn khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, lấy thực tiễn làm cơ
sở sáng lập nên học thuyết phản ánh khoa học, năng động, sáng tạo.
Chỗ dựa của lý luận nhận thức duy vật biện chứng là quan điểm thực tiễn, phân tích
tồn diện và đã nói rõ tính xã hội, tính chủ thể và tính năng động, của con người phản ánh
thế giới. Mối quan hệ giữa con người và thế giới trước hết là mối quan hệ giữa cái cải tạo
và cái bị cải tạo, trên cơ sở đó mà xuất hiện mối quan hệ phản ánh và bị phản ánh. Con
người trong quá trình cải tạo thế giới một cách tự giác và chủ động cũng là quá trình phản

ánh thế giới. Chính trong mối quan hệ kép này, mọi người vừa cải tạo thế giới khách quan,
vừa cải tạo năng lực nhận thức của chính mình. Năng lực phản ánh của con người đối với
thế giới thay đổi tuỳ theo sự phát triển của thực tiễn và của lịch sử.
Triết học Mác dùng phép biện chứng quán triệt thuyết phản ánh, chỉ ra sự phản ánh
năng động của con người đối với thế giới là quá trình biện chứng của sự vận động đầy mâu
thuẫn. Bởi vì, chủ nghĩa duy vật siêu hình vừa khơng thấy tính xã hội, tính chủ thể và tính
năng động, vừa khơng nhìn thấy tính mâu thuẫn của q trình phản ánh, do đó mà chỉ có
thể lý giải sự phản ánh của con người đối với thế giới như là một trạng thái tĩnh, cứng nhắc.
Sự kiến lập thuyết phản ánh năng động của chủ nghĩa Mác, công bố một cách khoa
học bản chất của nhận thức, tức nhận thức là sự phản ánh năng động của chủ thể đối với
khách thể trên cơ sở thực tiễn. Đây là tính khách quan của nhận thức, cũng là phương diện
căn bản của bản chất nhận thức. Đồng thời sự phản ánh của con người đối với sự vật khách
quan và tính năng động, tính sáng tạo chỉ riêng con người mới có là không thể tách rời.
Trong hoạt động trừu tượng của khoa học tính năng động, tính lựa chọn và tính sáng
tạo của chủ thể nhận thức được thể hiện rất rõ. Để hoạt động thực tiễn, con người không
chỉ nhất thiết phải nhận thức được bản chất và quy luật của sự vật, mà còn phải căn cứ vào
kiểu nhận thức này để nhào nặn ra khách thể lý tưởng phù hợp với nhu cầu của chủ thể,


9
đây chính là hoạt động phản ánh mang tính sáng tạo và năng động. V.I.Lênin nói, ý thức
con người khơng chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan.
Khơng có hoạt động phản ánh của tính vượt trước và tính sáng tạo này thì khơng trở thành
nhận thức của con người.
Do đó, trong bản chất của nhận thức, phương diện phản ánh, miêu tả và tính năng
động, sáng tạo khơng thể tách rời. Tính năng động, sáng tạo không thể rời xa sự phản ánh
chính xác đối với sự vật, mà cịn cần phải lấy đó làm cơ sở, nếu khơng thì tính năng động,
sáng tạo sẽ thoát ly cơ sở khách quan. Đồng thời phản ánh và miêu tả cũng không phải là
thực hiện một cách tiêu cực và giới hạn trong trình độ trực quan. Tính năng động và tính
phản ánh khơng phải là hai quá trình nhận thức của con người mà là hai phương diện của

một quá trình nhận thức thống nhất. Hai phương diện này cùng gắn bó hữu cơ trên cơ sở
thực tiễn.


10
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN
I. Sự khác nhau cơ bản giữa nhận thức và thực tiễn
Với tính cách là phạm trù triết học, thực tiễn được phân biệt với nhận thức (lý luận):
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất, còn nhận thức lý luận là hoạt động tinh
thần (hoạt động phản ánh).
Thứ hai, đặc trưng của thực tiễn là trực tiếp cải tạo thế giới, còn đặc trưng của nhận
thức là phản ánh thế giới (nhận thức muốn cải tạo thế giới phải thông qua thực tiễn).
Thứ ba, thực tiễn mang tính phổ biến và tính hiện thực trực tiếp, cịn nhận thức lý
luận mang “tính phổ biến và tính hiện thực gián tiếp”. Nói cách khác: Cái phổ biến và cái
hiện thực trong nhận thức (lý luận) được quy định và được khái quát từ cái phổ biến và cái
hiện thực của thực tiễn. Thực tiễn luôn phong phú, sinh động và thường xuyên biến đổi,
còn nhận thức lý luận thường là cái “ khn mẫu” mang tính “ ổn định” tương đối. Vì vậy,
thực tiễn và nhận thức lý luận có ranh giới nhất định.
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có nhiều tác giả
đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo chúng tôi, hoạt động hiểu theo nghĩa chung
nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số tác giả đã dựa vào câu
nói của C.Mác – “Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn” – để đồng nhất
hai khái niệm “thực tiễn” và “hoạt động”. Theo chúng tơi, khơng có cơ sở để đồng nhất hai
khái niệm đó. Câu nói mang tính ngun tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực
tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác
đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phơbách.
Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa
xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý
giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, khơng nên đồng
nhất bản chất của q trình với bản thân q trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình

thức hoạt động nào (lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục
tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là
thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái


11
ý niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là q trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn
từ thực tiễn.
Sự phân biệt giữa thực tiễn và nhận thức (lý luận) là cần thiết để chúng ta biết được:
Giữa thực tiễn và nhận thức (lý luận) thì cái nào quyết định cái nào? Cái nào là tiêu chuẩn
của cái nào? Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ là tương đối, nó chỉ có ý nghĩa trong thời hạn
nhận thức luận; cịn trong đời sống hiện thực chúng ln thống nhất biện chứng với nhau.
Trong xã hội khơng có hoạt động nào của con người chỉ là hoạt động vật chất, hoặc thuần
túy là hoạt động tinh thần. Ở đây, nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần được hịa quyện
làm một và nó trở thành động lực cải tạo thế giới, thúc đẩy lịch sử.
Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù “hoạt động”, xét về ngoại diên, là rộng hơn
phạm trù “thực tiễn”. Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn
với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?
II. Sự thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc quán triệt qua điểm Mác xít về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn có một tầm quan trọng đặc biệt trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm
quan trọng đó khơng chỉ là ở chỗ: “quan điểm về đời sống về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”8 mà quan trọng hơn là việc quán triệt quan
điểm đó vào trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây
dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: “Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và
hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”9, “kết quả
của hoạt đông là sự kiểm nghiệm nhận thức của chủ quan và là tiêu chuẩn của tính khách


Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
235
9
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
8

1987, tr. 30


12
quan chân chính”10.
Như vậy thì trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, chúng có mối quan hệ như
thế nào?
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý luận
là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình lý luận của đối tượng. Cịn kết quả của
hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ở nơi có
các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên chực tế, chứ
khơng phải là trong suy nghĩ. Do vậy theo chúng tôi, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục,
tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại bức tranh
lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay đổi
cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực
lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng hố của khoa học, cịn khoa
học vân tiếp tục là hình chức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng
hiện thực.
Trước tiên, ta cần nhận thấy rằng, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát
từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy định của thế giới khách
quan. Là sản phẩm của nhận thức, lý luận được hình thành trong mối liên hệ hữu cơ với
thực tiễn, chúng có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó vai trị quyết định thuộc về thực
tiễn: “thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm khơng những của tính phổ

biến, mà cón của tính hiện thực trực tiếp”, chính vì thế mà “ vấn đề tìm hiểu xem tư duy
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn
đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính bằng thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực, sức mạnh, của tư duy tách rời thực tiễn là một
vấn đề thuần túy kinh viện”11.
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận trước hết được thể hiện ở chỗ, thực hiện là cơ

Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
239
11,2
Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
240
2


13
sở, mục đích, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức nói chung, của lý luận nói riêng.
Ăngghen chỉ rõ: “từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi
thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai mơn ấy một mặt chỉ
biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự
nhiên, chứ khơng phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên là cơ sở chủ yếu
nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”12.
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu khơng phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Chính trong quá trình thực tiễn mà nhận thức, lý luận ở con người được hình thành và phát
triển. “Hoạt động thực tiễn của con người đã phải làm cho ý thức trong con người lặp đi
lặp lại hàng nghìn triệu lần những cách logic khác nhau đặng làm cho cách này có thể có
được ý nghĩa những cơng lý”13. Con người với các nhu cầu tất yếu khách quan là cải tạo
và giải thích thế giới mã đã tác động vào giới tự nhiên. Nhờ q trình tác động đó của con
người mà một mặt các sự vật hiện tượng thuộc tính, trên cơ sở đó mà con người nhận thức

chúng và cùng với điều đó thì tư duy của con người ngày một phát triển thêm sâu sắc.
Trong mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan đó, tư duy, lý luận của con người
không chỉ nhờ thực tiễn mà hình thành và phát triển, mà điều đáng chú ý hơn, như trong
“Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen đã nhận xét: “… đến một giai đoạn phát triển nhất
định của nông nghiệp và trong những khu vực nhất định (đưa nước lên tưới ruộng ở Ai
Cập), nhất là cùng với sự xuất hiện những thành phố, những công trình xây dựng lớn và
cùng với sự phát triển của thủ cơng nghiệp thì cơ học cũng phát triển theo. Chẳng bao lâu,
cơ học lại trở nên cần thiết cho cả hàng hải và chiến tranh. Cơ học cũng cần sự giúp đỡ của
tốn học và do đó thúc đẩy toán học phát triển. Như thế là ngay từ đầu sự phát sinh và phát
triển của các khoa học đã do sản xuất quy định”14. Nên “khi xã hội có những yêu cầu về

12

Sđd, tr. 236

Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
237
14


14
kỹ thuật, thì xã hội thúc đầy khoa học hơn mười trường đại học”15.Vì vậy mà khơng có
thực tiễn thì khơng có nhận thức nói chung, lý luận nói riêng. Mọi trí thức xét đến cùng
đều bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội về bản chất là có tính chất thực tiễn. Tất cả
những thần bí đang đẩy lý luận vào con đường chủ nghĩa thần bí, đều được giải quyết một
cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết về thực tiễn đó.
Như thế trong q trình hoạt động thực tiễn trí tuệ của con người được phát triển
cho đến lúc có lý luận. Bản thân lý luận khơng có mục đích tự thân. Nó ra đời chính là vì
và chủ yếu là vì nó cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người – thực tiễn là mục đích
của nhận thức, của lý luận.

Trong vai trò tác động, quyết định của thực tiễn đối với lý luận (nhận thức) thì “…
thực tiễn của con người và của loài người là sự kiểm nghiệm, là tiêu chuẩn của tính khách
quan của nhận thức”16 điều đó có nghĩa thực tiễn chính là nơi để (nhận thức) lý luận kiểm
tra tính đúng đắn của mình, nó là tiêu chuẩn chân chính của chân lý. Bởi vì thực tiễn là
những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập với những nhận thức.
Nó ln ln vận động và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó mà thúc đẩy nhận thức và vận
động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không vượt ra sự kiểm nghiệm
của thực tiễn, vì chỉ có “thành cơng” (hiệu quả) của hoạt động thực tiễn mới chứng minh
được sự phù hợp hay không phù hợp của tri thức của chúng đối với thực tiễn.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà khơng có tính chủ
quan, tính hướng đích? Theo chúng tơi, đây là vấn đề quan trọng để phân biệt hoạt động lý
luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn không thể thiếu ý thức. Song luận điểm đó khơng
chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và lý luận. Thứ
nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được trong q
trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động lý luận có một giá trí độc lập,
cịn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như là một mơ hình của
tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó (mục đích, mơ hình, lý tưởng), trong trường hợp này,

3

Sđd, tr. 239


15
khơng có một giá trị độc lập, nó khơng có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự
nhiên hay xã hội. Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu
đấy đủ) để đưa các kết quả hoạt động lý luận vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế định
một khuynh hướng nghiên cứu mới – nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ,
đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo
xã hội do quần chúng tiến hành địi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận

thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó khơng thể thiếu lý luận, lý
luận được tiếp biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của
thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ khơng thể
tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì thực
tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của hoạt động xã
hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động
thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ
giữa chúng ln mang tính lịch sử – cụ thể – đó là khâu nhận thức lý luận (sản xuất ra tri
thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo chúng tơi, cịn được làm sáng tỏ hơn và
cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thể – khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian
cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây khơng đơn giản là con người có tư duy lý
luận, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tồng thể các đặc trưng xã hội
của nó, cịn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn có thề
nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân,
các ý định và mục đích của mình trong khách thề, phát triển các năng lực của mình. Như
vậy, ngồi thực tiễn, chủ thể khơng có một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý
tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó trong thế giới.
Nhưng mặt khác, chúng ta cần phải thấy một điều rằng, tiêu chuẩn thực tiễn không
phải là cái tuyệt đối, đầy đủ hồn tồn vì thực tiễn bao hàm trong mình khơng chỉ cái khách
quan mà cịn cả cái chủ quan, hơn nữa nó ln vận động, biến đổi và phát triển. Do đó, “dĩ
nhiên khơng nên quên rằng tiêu chuẩn thực tiễn, xét cho cùng không bao giờ có thể xác


16
nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một hiện tượng nào đó của con người, dù dó là hiện
tượng thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó cũng khá “khơng xác định” để khơng cho ghép
các hiểu biết của hóa thành một cái gì “tuyệt đối”; đồng thời nó cũng khá xác định để có
thể tiến hành đấu tranh quyết liệt chống tất cả các thứ chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri” 17

điều này có nghĩa rằng: việc kiểm tra tri thức của con người không phải làm một lần là có
thể xong, mà nó là q trình cùng với quá trình vận động và phát triển của thực tiễn. Một
tri thức đã được thực tiễn kiểm tra xác định là đúng đắn thì nó trở thành chân lý, nhưng
không phải là chân lý cuối cùng và bất biến mà nó cần được kiểm tra trong thực tiễn tiếp
theo. Đó là điều cần thiết bảo đảm cho tri thức của con người không trở thành “chết cứng”,
“giáo điều” mà ngày càng chính xác, hồn thiện và có hiệu quả hơn.
Từ việc phân tích vai trị của thực tiễn đối với lý luận, đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn,
dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn chúng ta sẽ không tránh khỏi sai lầm. Vì vậy, qn triệt
tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn sẽ giúp ta tránh được những cực đoan, sai lầm như
bệnh giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa tương đối, thái độ chủ quan tùy tiện … Thông qua
việc phân tích vai trị của thực tiễn đối với lý luận, một mặt chúng ta nhấn mạnh đến vai
trò của thực tiễn đối với lý luận, mặt khác chúng ta cũng cần nhấn mạnh đến vai trò, sự tác
động của lý luận đối với thực tiễn.
Trong lịch sử tư tưởng triết học trước Mác, cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy
tâm, dù ở góc độ này hay góc độ khác đều tuyệt đối mặt này hay mặt kia của mối quan hệ
giữa vật chất, kinh tế và ý thức, tư tưởng. Trong khi đề cao tính độc lập, sáng tạo của ý
thức, tư tưởng, chủ nghĩa duy tâm cố tình qn rằng, tính độc lập của ý thức, tư tưởng chỉ
có ý nghĩa tương đối chứ khơng phải là tuyệt đối và tính sáng tạo của nó không phải chỉ là
sự tưởng tượng thuần túy, tách khỏi đời sống vật chất - kinh tế. Còn chủ nghĩa duy vật, do

17

Nguyễn Thế Nghĩa, Triết Học với sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội, 1997, tr.81


17

quá đề cao tính quyết định của vật chất, kinh tế mà khơng thấy tính độc lập, sáng tạo của ý
thức, tư tưởng cũng như sự tác động trở lại của nó đối với đời sống vật chất - kinh tế.
Nếu chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thì thơng
qua quan hệ chủ thể – khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái
ý mệnh mục đích, động cơ…) thành cái vật chất (khách thể được cải tạo phù hợp với mục
đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm
đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định
hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi
máy móc, vơ thức. Cịn nếu tuyệt đối hoá sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì
chúng ta khơng thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào
chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính
tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận của con
người với thế giới không bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực tiễn. Hơn
nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải
tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến
lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn ln bao hàm quan hệ
lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vịng khâu đặt mục đích của hoạt động thực
tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó khơng có nghĩa là khơng có sự đối lập tuyệt đối giữa
lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song chúng có tính
độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi tạo thành một thể
thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của
hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể “cải
tạo” thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng khơng có khả năng cải biến một
cái gì ngồi khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý
tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mơ hình lý luận. Theo chúng tơi,
cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ nghĩa thực
dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn



18
nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Chúng ta cần nhấn mạnh một điều khác là: tính độc lập tương đối của lý luận là có
tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận cách mạng hồn tồn không phải là thực tiễn cách
mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng
trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản
thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành một chức năng
nào đó trong xã hội khơng phải là ở ngồi khn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản
thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo chúng tôi cần được vạch rõ cả trên các
bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối
liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại
thiếu ý thức, song thực tiễn khơng thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả
trình độ của ý thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính “thứ
nhất” và “thứ hai” áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng lại không
áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo chúng tơi, ở đây chỉ có thể nói
tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét về phương diện
bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng
hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật
chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là
nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập, thì
thực tiễn và lý luận lại khơng tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa rằng
thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực và bản
thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản
thân lý luận. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ khơng biết đối
chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm
và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối, đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng ta cũng sẽ vấp
phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách

mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở chỗ: ơng đã đưa thực tiễn vào


19
lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra
khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý
niệm. Thực tiễn xã hội hồn thành vai trị thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính
là do nó khơng đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và
do nó ln là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, khơng
nên tuyệt đối hố cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một q trình mang tính lịch sử – xã hội cụ thể.
Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của q
trình đó, theo chúng tơi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta ln có được một lập
trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa
giáo điều máy móc và bệnh lý luận sng.
Với thuộc tính cơ bản của mình được đặc trưng bởi tính trừu tượng và khái quát cao,
lý luận đưa lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng. Lý luận
có vai trị to lớn đối với thực tiễn, bởi nó có tác động trở lại thực tiễn góp phần làm biến
đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Ăngghen viết: “cố nhiên là vũ khí phê
phán khơng thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí được, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh
bại bởi lực lượng vật chất thôi, nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập được vào quần chúng, … khi nó trở thành triệt để. Triệt để là hiểu sự vật đến
tận gốc rễ của nó”18 và với một ý nghĩ nào đó thì lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động,
soi đường dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn, chính vì vậy mà Lênin cho rằng: “khơng có lý luận
cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng.”19
Như vậy, lý luận và thực tiễn có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, thực tiễn
giữ vai trị quyết định. Vì vậy, một lần nữa ta cần khẳng định lời của Lênin: “phải có sự
thống nhất giữa thực tiễn và nhận thức”, chỉ có như vậy mới tránh được những sai lầm,
thiếu sót trong hoạt động thực tiễn, tạo được lập trường thực tiễn vững vàng tránh rơi vào


Tập trích tác phẩm kinh điển, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, xuất bản năm 1976, tr.
240
19
Sđd, tr. 241
18


20
chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa cũng như bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều,
máy móc, quan liêu.
Nhìn chung, khi nói đến sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta cần hiểu
rõ:
- Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như
trình độ cao của nhận thức.
- Lý luận được hình thành khơng phải bên ngồi thực tiễn mà trong mối quan hệ với
thực tiễn nên thực tiễn cao hơn nhận thức.
- Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn, trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người
được hình thành và phát triển.
- Con người tác động vào thế giới từ đó thế giới thể hiện các thuộc tính, qui luật của
mình qua q trình nhận thức của con người.
- Con người không được thế giới thỏa mãn nên cải tạo thế giới bằng hoạt động thực
tiễn. Trong quá trình thay đổi thế giới, con người cũng biến đổi cả bản thân mình về năng
lực và trí tuệ.
- Q trình họat động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển và thành lý luận.
Lý luận cần thiết và phục vụ cho họat động thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý. Lấy thực tiễn để kiểm nghiệm lý luận.
Tuy nhiên, để nhận thức thực tiễn đúng đắn, chúng ta cần phải phê phán bệnh kinh
nghiệm và bệnh giáo điều. Bởi vì, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là bệnh chỉ quá chú trọng
đến những kinh nghiệm có dược nhờ hoạt động thực tiễn mà khơng chịu trau dồi thêm tri

thúc lý luận. Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng và hành động của con người
được biểu hiện trong thực tế đời sống xã hội, coi thường lý luận khoa học đề cao kinh
nghiệm, tuyệt đối hóa vai trị của kinh nghiệm, khơng chịu tiếp thu các tri thức khoa học.
Còn bệnh giáo điều chủ nghĩa thì ngược lai, chỉ chú trọng đến lý luận mà xa rời thực tiễn,
không đưa lý luận quay trở lại thực tiễn. Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành
động thực tế của con người tuyệt đối hóa vai trò của khoa học, coi thường kinh nghiệm,
xem nhẹ thực tiễn hoặc áp dụng khoa học vào thực tiễn một cách máy móc, thiếu sáng tạo,


21
không căn cứ vào điều kiện cụ thể để áp dụng cho phù hợp. Cả bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều đều xa rời nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa MácLênin, xét đến cùng nguyên nhân là do thiếu tri thức khoa học, tri thức khoa học còn yếu
kém. Hai thứ bệnh này sẽ cản trở con người đạt đến chân lí, về sự nhận thức thế giới ngày
càng đúng đắn, sâu sắc hơn. Cách khắc phục là con người cần luôn trau dồi tri thức lý luận
đồng thời cần phải biết áp dụng những tri thức ấy vào thực tiễn.
III. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công cuộc phòng và chống
COVID 19 hiện nay ở nước ta.
Đại dịch COVID-19 đặt ra cho nhân loại nhiều vấn đề đáng suy ngẫm, trong đó có
sự thử thách đối với sự phù hợp, tính bền vững, khả năng ứng phó của mỗi quốc gia. Tại
Việt Nam, đợt bùng phát dịch lần thứ 4 rất khốc liệt với biến chủng Delta cực kỳ nguy
hiểm - biến chủng đã làm đảo ngược các thành quả phòng chống dịch trên thế giới và làm
thay đổi mọi thứ trong cơng tác phịng chống dịch ở nước ta.
Hiện nay, cả nước đang bước vào bối cảnh mới vơ cùng khó khăn (dịch bệnh diễn
biến hết sức phức tạp, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế - xã hội), trực tiếp đe dọa tính mạng
con người và sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Ðảng, Nhà nước và Chính phủ Việt
Nam đã triển khai nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp, thiết thực để vừa phát triển kinh
tế, vừa phòng, chống dịch hiệu quả, bảo đảm “khơng để ai bị bỏ lại phía sau”. Trên tinh
thần chỉ đạo sát sao của Chính phủ, trong cả nước đã đồng thuận, tích cực hưởng ứng và
triển khai quyết liệt trong phòng, chống dịch Covid-19.
Riêng lĩnh vực y tế, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai các văn bản cụ thể như:

Chỉ thị 10/CT-UBND, Chỉ thị 16/Chỉ thị 16/CT-TTg năm 2020, Chỉ thị 15/CT-TTg năm
2020, Chỉ thị 12-CT/TU, Công văn 2468/UBND-VX ngày 23/7/2021 về tăng cường mạnh
mẽ các biện pháp thực hiện giãn cách xã hội tồn Thành phố Hồ Chí Minh theo tinh thần
Chỉ thị 16/CT-TTg, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 16/CT-TTg, nhất là các giải pháp phòng
chống dịch theo phương châm “4 tại chỗ” với tinh thần chủ động, quyết liệt, linh hoạt, sáng
tạo; thực hiện nghiêm các giải pháp giãn cách, cách ly, khoanh vùng, truy vết, xét nghiệm,
điều trị, tiêm vaccine trên địa bàn tồn thành phố. Cơng văn 2468/UBND-VX ngày


22
23/7/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tăng cường mạnh mẽ các biện
pháp thực hiện giãn cách xã hội tồn Thành phố Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 16/CTTTg. Quyết định 3466/QĐ-UBND ngày 04/10/2021 về Quy chế hoạt động tại các Trung
tâm cách ly tập trung phòng, chống dịch COVID-19 do UBND TP.HCM ban hành. Quyết
định 3869/QĐ-UBND ngày 13/11/2021 về thành lập các Khu cách ly y tế tập trung tại
khách sạn trong phòng, chống dịch COVID-19 do người được cách ly tự nguyện chi trả
trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Thủ Đức và các quận-huyện. Dựa trên những chỉ
đạo, quyết định cụ thể về phòng chống dịch mà ngành Y tế mà lãnh đạo TP.HCM chỉ đạo
tập trung, huy động cả hệ thống chính trị và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các sở ban
ngành và quận, huyện, TP.Thủ Đức một cách đồng bộ. Thực hiện hiệu quả chiến lược “mỗi
phường, xã, thị trấn là một pháo đài; mỗi người dân là một chiến sĩ”. Trong đó, vai trị của
Ban chỉ đạo phòng, chống dịch quận, huyện và phường, xã đóng vai trị quyết định. Ngành
Y tế đã xây dựng hệ thống giám sát, cảnh báo dịch, xây dựng tình huống và kịch bản diễn
tập tương ứng từng cấp độ dịch là rất cần thiết và mang ý nghĩa quyết định cho sự chủ động
khi ứng phó với dịch bệnh, kịp thời phát hiện các địa bàn có nguy cơ chuyển sang cấp độ
dịch cao hơn để chủ động có giải pháp can thiệp. Ban chỉ đạo phịng, chống dịch đã triển
khai xét nghiệm theo hướng trọng tâm, trọng điểm và triển khai thần tốc để phát hiện quản
lý F0 trong xử lý ổ dịch; phối hợp linh hoạt giữa kỹ thuật PCR và test nhanh kháng nguyên
để dập dịch nhanh chóng. Tăng cường phối hợp quân dân y, y tế công lập và tư nhân, đông
tây y kết hợp, phát huy vai trò hiệu quả của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức thiện
nguyện tham gia cơng tác phịng, chống dịch. hát huy sự phối hợp hiệu quả của lực lượng

quân đội, công an và ngành y tế trong việc hỗ trợ cho các địa phương ngay từ đầu về bảo
đảm an sinh xã hội, an ninh, an toàn trật tự xã hội, tổ chức cách ly nghiêm ngặt, chăm sóc
và điều trị tại nhà, tại các bệnh viện dã chiến cho F0. Tuy nhiên, do dịch Covid -19 bùng
phát với sự xuất hiện của biến thể Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều
so với chủng gốc trước đây, ngành Y tế phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch
chưa có tiền lệ nên khi thực hiện các chỉ đạo, nghị quyết của Chính phủ, của Ủy ban nhân
dân TP ban hành thì ngành y tế đã có những quyết định làm tình hình chống dịch khơng
đạt hiệu quả như:


23
- Việc cách ly F0 để ngăn chặn sự lây lan là cần thiết, nhưng không nhất thiết phải
cách ly tập trung, chỉ cách ly tập trung khi không đủ điều kiện cách ly tại nhà; nhiều khu
cách ly tập trung với quy mô nhỏ gắn liền với địa bàn phường, xã thì tốt hơn cách ly tập
trung với quy mô cấp quận, huyện hay thành phố. Cho dù cách ly tại nhà hay cách ly tập
trung phải gắn liền với chăm sóc, điều trị và cung ứng gói thuốc, gói an sinh…;
- Hệ thống y tế bộc lộ hạn chế, nhất là y tế cơ sở còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng
được yêu cầu khi dịch bùng phát, người dân khó khăn khi tiếp cận các dịch vụ y tế, dẫn đến
quá tải và tử vong. Chưa kịp thời có các chính sách huy động nguồn lực, hợp tác cơng tư trong
phịng, chống dịch;
- Việc kiểm tra, giám sát còn sơ hở. Tại một số điểm xét nghiệm, tiêm vaccine còn
xảy ra chen lấn;
Do phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm với tinh thần cầu thị, lắng nghe, vì vậy Ngành Y tế khi
áp dụng các biện pháp, giải pháp đã được thực tiễn chứng minh là đúng thì phải kiên định,
kiên trì, nhất quán trong lãnh đạo, chỉ đạo và quyết liệt, hiệu quả trong tổ chức thực hiện.
Về mặt nhận thức, Việt Nam nhận thức rõ yếu tố quan trọng trong phịng chống dịch
là thơng tin phải minh bạch để người dân không hoang mang. Bưng bít thơng tin sẽ dẫn
tới kém hiệu quả trong phịng chống dịch.Về mặt triển khai, ngay từ đầu, chính phủ Việt
Nam đã truyền đạt rộng rãi tới người dân về mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh, khẳng
định rõ: COVID-19 không chỉ là một bệnh cúm, mà là một căn bệnh cực kỳ nghiêm trọng,

vì vậy mọi người được khuyên không nên tự gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác.
Khơng chỉ thường xun cập nhật số liệu, tình hình dịch bệnh cho người dân và
quốc tế, Việt Nam cịn sáng tạo các phương thức truyền thơng mới. Hàng ngày, các bộ
phận khác nhau của chính phủ Việt Nam - từ lãnh đạo đến Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền
thơng và chính quyền địa phương - đều nhắn tin cho công dân. Chi tiết về các triệu
chứng nhiễm bệnh và biện pháp bảo vệ được truyền đạt qua văn bản đến điện thoại di động
trên cả nước. Chính phủ cũng đã hợp tác với các dịch vụ mạng xã hội như Zalo,


24
Facebook… để cập nhật thông tin. Các thành phố treo áp phích nhắc nhở người dân nâng
cao ý thức trong việc ngăn chặn sự lây lan của virus.
Toàn hệ thống chính trị, tồn Đảng, tồn dân phải chủ động, tích cực vào cuộc; kế
thừa, phát huy những thành tựu, kết quả đã đạt được; khắc phục những hạn chế, yếu kém
cịn tồn tại; và bình tĩnh, tỉnh táo đề ra nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để xử lý
kịp thời, đúng đắn những vấn đề mới phát sinh do tác động bất lợi của đại dịch gây ra.


×