BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MƠN LUẬT MƠI TRƯỜNG
Pháp luật về phịng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây
ra – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Giảng viên: ThS. Trần Thị Trúc Minh
Nhóm: 7
Tp Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 11 năm 2023
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
TÁC HẠI DO NƯỚC GÂY RA ......................................................................................... 1
1.1. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh .......................................................................... 1
1.2. Chủ thể liên quan đến việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra ............................................................................................................................... 1
1.3. Nội dung của phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra .......... 2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TÁC HẠI DO NƯỚC GÂY
RA. ....................................................................................................................................... 3
2.1. Thực trạng đối với tài nguyên nước thuộc phạm vi quốc gia ................................. 3
2.1.1. Thực trạng tác hại của nước do thiên tai gây ra .............................................. 3
2.2. Thực trạng đối với tài nguyên liên quốc gia............................................................ 5
2.2.1. Nguồn nước liên quan giữa quốc gia Việt Nam và Trung Quốc ..................... 5
CHƯƠNG 3: BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHỊNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ DO NƯỚC GÂY RA. ...... 8
3.1. Bất cập trong thực tiễn liên quan đến việc phòng, chống và khắc phục hậu quả
do nước gây ra ................................................................................................................. 8
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................................. 11
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 18
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 19
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu/ chữ viết tắt
Cụm từ đầy đủ
1
TNN
Tài nguyên nước
2
CHXHCN
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
3
BĐKH
Biến đổi khí hậu
4
ĐBSCL
Đồng bằng sơng Cửu Long
5
PCTT
Phịng chống thiên tai
6
COP27
Hội nghị thường niên lần thứ 27 của Liên Hiệp
Quốc về khí hậu
7
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
8
TW
Trung ương
9
TTXVN
Thông tấn xã Việt Nam
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU
QUẢ TÁC HẠI DO NƯỚC GÂY RA
1.1. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh
Theo khoản 1 Điều 2 Luật TNN, tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất,
nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ của nước CHXHCN Việt Nam. Tuy nhiên, phạm vi điều
chỉnh của Luật TNN không bao gồm nước dưới đất và nước biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam, nước khống, nước nóng thiên nhiên. Các quy định
trong Luật TNN điều chỉnh các vấn đề liên quan về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước
CHXNCN Việt Nam.
Đối tượng điều chỉnh của Luật TNN bao gồm các quan hệ xã hội phát sinh trực tiếp trong
hoạt động quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu
quả tác hại do nước gây ra giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân hoặc các chủ thể khác.
Trong phạm vi bài nghiên cứu này sẽ tập trung khai thác các vấn đề liên quan đến hoạt động
phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
1.2. Chủ thể liên quan đến việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước
gây ra
Theo Điều 58 Luật TNN, chủ thể có trách nhiệm, nghĩa vụ phịng, chống và khắc phục hậu
quả tác hại do nước gây ra bao gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tham gia
phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra theo quy định của pháp luật; Chính
phủ quyết định và chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại
do nước gây ra; Bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống và khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra.
Bên cạnh đó, trách nhiệm điều phối, giám sát hoạt động phịng, chống và khắc phục hậu
quả tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông được quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật TNN như
sau: các tổ chức lưu vực sơng có trách nhiệm kiến nghị việc phịng, chống và khắc phục hậu quả
tác hại do nước gây ra trên một hoặc một số lưu vực sông liên tỉnh; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
điều phối, giám sát các hoạt động phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên
lưu vực sông nội tỉnh; Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất chỉ đạo việc phối hợp hoạt động
của tổ chức lưu vực sông, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các cơ quan, tổ chức có liên quan.
1
1.3. Nội dung của phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra
Việc đặt ra các nguyên tắc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra cần
được chú trọng xem xét như kim chỉ nam định hướng cho việc thực hiện nhiệm vụ. Tại Điều 3
Luật TNN quy định các nguyên tắc bao gồm:
(i) Việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân theo chiến
lược, quy hoạch tài nguyên nước và các quy hoạch khác có liên quan theo quy định của pháp luật
về quy hoạch đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; gắn với bảo vệ mơi
trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên
thiên nhiên khác; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
(ii) Phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải có kế hoạch và biện
pháp chủ động; bảo đảm kết hợp hài hòa lợi ích của cả nước, các vùng, ngành; kết hợp giữa khoa
học, công nghệ hiện đại với kinh nghiệm truyền thống của nhân dân và phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội;
(iii) Các dự án phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải góp phần
phát triển kinh tế - xã hội kèm với các biện pháp bảo đảm đời sống dân cư, quốc phịng, an ninh,
bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và mơi trường;
(iv) Bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, cơng bằng, hợp lý trong phòng, chống
và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra đối với các nguồn nước liên quốc gia.
Các hoạt động trong lĩnh vực này được chú trọng ưu tiên việc phòng, chống tác hại do nước gây
ra trước khi thực hiện việc khắc phục hậu quả. Việc chuẩn bị tồn diện cơng tác phịng, chống
có ý nghĩa biện chứng với cơng tác khắc phục hậu quả. Tác động của phòng, chống tác hại do
nước gây ra giúp giảm thiểu tổn thất xuống mức thấp nhất và làm cho việc phục hồi sau thiên tai
đạt hiệu quả, bền vững.
Việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra tổng quát bởi các nội dung
chính như sau:
Phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra (Điều 59 Luật
TNN).
Phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo (Điều 60 Luật TNN).
Phòng, chống xâm nhập mặn (Điều 61 Luật TNN)
Phòng, chống sụt, lún đất (Điều 62 Luật TNN)
Phòng, chống sạt, lở bờ, bãi sông (Điều 63 Luật TNN)
2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TÁC HẠI DO NƯỚC GÂY RA.
Thực trạng thành 2 nhóm nguồn nước dựa vào vị trí nằm trong phạm vi quốc gia hay không
nằm trong phạm vi quốc gia để phân tích thực trạng.
2.1. Thực trạng đối với tài nguyên nước thuộc phạm vi quốc gia
2.1.1. Thực trạng tác hại của nước do thiên tai gây ra
Hiện nay, BĐKH là hiện tượng được thế giới quan tâm bởi những ảnh hưởng to lớn của nó
đến mơi trường. Các quốc gia bằng nhiều biện pháp khác nhau đã lồng ghép các quy định nhằm
hạn chế BĐKH cực đoan; đặc biệt việc chú trọng đến thực trạng này cũng góp phần tác động tích
cực đến hoạt động phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Đầu tiên, khái quát về hiện tượng BĐKH, đây là sự thay đổi của hệ thống khí hậu từ sinh
quyển, khí quyển, thủy quyển tới thạch quyển trong hiện tại và tương lai.1 Sự BĐKH hiện nay,
tiêu biểu là sự nóng lên tồn cầu: nhiệt độ trên thế giới đang dần tăng cao, thiên tai và nhiều hiện
tượng thời tiết cực đoan gia tăng ở nhiều nơi trên thế giới, những lớp băng vĩnh cửu ở Bắc Cực
đang tan chảy, mực nước biển đang dần dâng lên do nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng
tan chảy làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương dẫn đến tình trạng các vùng đất ven
biển, ven sông nhiễm mặn ngày càng nhiều, các vùng nước thấp và ven biển có thể bị nước biển
nhấn chìm.
Trong những năm qua, dưới sự tác động mạnh mẽ của BĐKH dẫn đến các hiện tượng thời
tiết cực đoan, gây trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm nước và ô nhiễm nguồn nước; mưa, lũ
thất thường với quy mô và mức độ ngày càng gia tăng đã và đang gây thiệt hại nghiêm trọng đến
đời sống con người. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của BĐKH do
có đường bờ biển dài, BĐKH tác động mạnh mẽ lên tài nguyên nước, thời tiết diễn biến bất
thường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp của
nước ta.
Theo Báo cáo của Ủy ban liên quốc gia về BĐKH đã khẳng định: BĐKH gây ra tử vong và
bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như: sóng thần, bão, lũ lụt, hạn hán,…Khí hậu
biến đổi liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đời sống và sức khỏe cộng đồng ở mọi quốc gia, đặc
TH, “Biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
[ truy cập ngày 20/11/2023
1
3
biệt là những người nghèo sinh sống ở những vùng dễ bị tác động của BĐKH gây ra (sóng thần
vùng ven biển, các bệnh truyền nhiễm vùng nhiệt đới…).2
Ở nước ta, thiên tai đã và đang diễn ra rất nghiêm trọng, rủi ro về tính mạng, vật chất và
tinh thần thật sự rất lớn, không thể đo lường. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống thiên tai, tại Việt Nam, trong những năm gần đây, thiên tai xảy ra dồn dập với
cường độ lớn, phạm vi rộng với diễn biến phức tạp đã gây ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài
sản, cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất, tài sản của người dân và sự
phát triển bền vững của đất nước.
Dưới tác động của BĐKH, dòng chảy mùa lũ của phần lớn các con sơng có xu thế tăng.
Đặc biệt đối với ĐBSCL, hàng năm, vào mùa lũ, lũ sông Mê Công làm ngập gần 2 triệu ha, kéo
dài 3-4 tháng, gây thiệt hại lớn về tính mạng và tài sản con người. Sự tan nhanh của các tảng
băng đã làm cho mực nước biển dâng lên nhanh chóng, mưa lớn kéo dài khiến cho lưu vực nước
trên các con sơng khơng có chỗ thốt, hiện tượng ngập úng vùng đồng châu thổ vào mùa mưa lũ,
các dòng sông xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng tập trung dân cư. Nhiều trận bão, lũ quét,
mưa lớn sạt lở núi… tác động nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng giao thông. Mưa bão làm ngưng
trệ các hoạt động giao thông, xuống cấp nghiêm trọng chất lượng các đoạn đường bị ngập trong
thời gian dài, gây sạt lở đất đá khu vực đồi núi, làm ngưng trệ hoạt động giao thông làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của bà con. Lũ thượng nguồn tăng, nước biển dâng cao đã hạn chế khả
năng tiêu thốt lũ trên hệ thống sơng của ĐBSCL gây nên ngập lụt trầm trọng dẫn đến thời gian
lũ lên sớm hơn và rút muộn khiến khó khăn trong thoát nước và ảnh hưởng đến mùa vụ của bà
con.
Trong năm, từ năm 2016 đến năm 2020, số lượng người chết, mất tích lên đến hàng trăm
người, thiệt hại về kinh tế lên đến 60 nghìn tỷ. Căn cứ vào số liệu thực tiễn tại báo cáo của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phịng, chống thiên tai, nhóm đã lập ra biểu đồ như sau:
Trương Thị Mỹ Nhân, “Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển con người”,
[ truy cập ngày 20/11/2023.
2
4
Dựa vào những số liệu này cho thấy Việt Nam đang chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH
khi diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp, tần suất tăng lên, cường độ mạnh hơn. Thiệt hại về
tính mạng, vật chất kinh tế khơng hề có dấu hiệu suy giảm mà ngày càng tăng.
2.2. Thực trạng đối với tài nguyên liên quốc gia
2.2.1. Nguồn nước liên quan giữa quốc gia Việt Nam và Trung Quốc
Do tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc nên những nguồn nước liên quốc gia từ Trung Quốc
đổ về Việt Nam thường là từ đầu nguồn đổ về hạ nguồn. Vào những đợt mưa, bão lớn, việc Trung
Quốc điều tiết lượng nước tại đập nước có ảnh hưởng rất lớn đối với Việt Nam. Các cơ quan
chức trách luôn trong tinh thần chuẩn bị, cảnh giác cao độ để ứng phó với tình hình xả lũ tại các
đập nước này.
Thực tiễn hoạt động phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước gây ra cụ thể.:
Vào ngày 20 tháng 08 năm 2020, Ban Ngoại vụ huyện Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã
gửi thư cho Sở Ngoại vụ tỉnh Lào Cai thông báo về việc Nhà máy thủy điện Mã Đổ Sơn, Trung
Quốc sẽ xả lũ trên sông Hồng. Tuy nhiên, việc xả lũ này diễn ra đúng thời điểm các tỉnh phía
Bắc nước ta đang trải qua nhiều ngày mưa lớn, thậm chí đã gây lũ trên sông Thao và ngập lụt ở
tỉnh Yên Bái sẽ ảnh hưởng đến các tỉnh phía Bắc của Việt Nam. Ngay lập tức trong ngày 20/08,
Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTT có Cơng văn gửi Tổng cục Khí tượng
Thủy văn về việc cung cấp thông tin và tác động của xả lũ thủy điện từ Trung Quốc; Đồn cơng
tác của Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên tai đi kiểm tra tình hình ngập lụt và chỉ
đạo ứng phó tại TP n Bái, tỉnh Phú Thọ. 3
Hiện nay khơng có quy định nào về việc chia sẻ thông tin xả lũ của Trung Quốc, mà chỉ có
thơng tin về 5 trạm quan trắc ở phía thượng nguồn theo quy chế có thể cung cấp thơng tin. Hiện
có 5 trạm quan trắc gần biên giới, cung cấp 3 lần/ngày theo quy chế hợp tác giữa hai bên về mực
nước, lưu lượng, lượng mưa. “Họ xả lũ hay khơng xả lũ thì thông qua trạm quan trắc là cơ sở để
chúng ta đưa ra nhận định, phòng tránh. Tất nhiên, nếu các bên có thể chia sẻ với nhau rộng rãi
hơn về kế hoạch xả lũ thì cơng tác chỉ đạo, ứng phó sẽ được chủ động”.4
Như vậy, đánh giá tình hình quản lý trong cơng tác phịng, chống và khắc phục hậu quả,
tác hại của nước gây ra do thiên tai có những vấn đề bất cập cần thực thi biện pháp quan hệ ngoại
giao để giải quyết. Về nguyên tắc, theo khoản 1 Điều 69 Luật TNN quy định “...phòng, chống
và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra giữa các nước có chung nguồn nước trong đó có
Xuân Trường, “Thủy điện Trung Quốc xả lũ ảnh hưởng thế nào đến Việt Nam?”, Báo VTC News, [ truy cập ngày 20/11/2023
4
Hà Thanh, “Trung Quốc xả lũ, nhưng tác động đến Việt Nam không lớn”, Báo Tuổi Trẻ online, [ truy cập ngày 20/11/2023
3
5
Việt Nam được giải quyết trên cơ sở thương lượng, phù hợp với điều ước quốc tế mà nước
CHXHCN Việt Nam là thành viên và thông lệ quốc tế”. Tuy nhiên, thực tế phản ánh cho thấy
nhiều sự bất cập trong công tác thực hiện đối với các nguồn nước liên quốc gia. Thứ nhất, các
đợt xả lũ từ Trung Quốc thường mang những khả năng tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại đến Việt
Nam; nhưng việc “hỗ trợ” trong hoạt động phịng, chống hậu quả lại khơng có sự chủ động cộng
tác từ phía Trung Quốc, họ chỉ thơng báo thời điểm xả lũ mà không kịp thời cung cấp các thơng
tin khác khiến phía Việt Nam khó khăn trong cơng tác phịng ngừa. Việc thơng báo này cũng
khơng có sự thỏa thuận, suy xét cho lợi ích của quốc gia hữu nghị Việt Nam. Thứ hai, đặt trong
trường hợp Việt Nam đã thực thi các biện pháp phòng, chống cần thiết mà hậu quả vẫn xảy ra
thì liệu Trung Quốc có cần thực hiện nghĩa vụ “chung tay” khắc phục hậu quả với Việt Nam?
Thực tế cho thấy chưa có nhiều sự thương lượng trong cơng tác xây dựng, quản lý phương án
phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra giữa Trung Quốc và Việt
Nam.
Vì giữa Trung Quốc và Việt Nam chưa có Điều ước quốc tế chung điều chỉnh các vấn vấn
đề về phòng, chống và khắc phục hậu quả đối với các nguồn nước liên quốc gia phía Bắc nên
thật khó để xác định rằng Trung Quốc đã có hành vi vi phạm, gây thiệt hại hay có hành vi trái
với bất kỳ nguyên tắc nào. Ngoài ra, việc thiếu vắng các quy định chung giữa 2 nước cũng tạo ra
sự bất cập về đến quy trình thủ tục trong việc thông báo trước cho các quốc gia liên quan nếu các
dự án tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng tiêu cực đến quốc gia ven sông khác cũng như khơng có
quy định nào về cơ chế, cách thức giải quyết tranh chấp một cách cụ thể.
Xét trên các nguyên tắc chung của quan hệ quốc tế, về mặt hữu nghị, Trung Quốc đã có
hành động khơng thiện chí khi chỉ thơng báo trong thời gian ngắn ngủi và vào thời điểm nước ta
đang phải hứng chịu những trận mưa lớn và ngập lụt, từ đó vấn đề ngoại giao được đặt ra. Việc
cân nhắc về những quyền lợi và rủi ro của các bên có liên quan cần được đặt ra xem xét lại một
lần nữa. Bởi đây khơng chỉ là vấn đề khu vực mà nó cịn là vấn đề liên quan đến lợi ích của các
quốc gia. Việc đặt vấn đề phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước gây ra là điều cần
thiết nhằm cân bằng “lợi ích” của các quốc gia trong cùng khu vực, có nguồn nước chung. Đồng
thời, các quốc gia phải đưa ra các giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề xung đột lợi ích,
thể hiện tinh thần trách nhiệm một cách thiện chí.
Do đó đưa ra đề cập về một số nguyên tắc nền tảng, thơng dụng trong lĩnh vực mơi trường
nói chung để đánh giá về hành vi xả lũ của Trung Quốc.
Đầu tiên, nguyên tắc làm cơ sở để các quốc gia phải hợp tác với nhau liên quan các vấn đề
về môi trường: nguyên tắc môi trường làm mối quan tâm chung của nhân loại. Việc giải quyết ở
6
quy mơ tồn cầu về các vấn đề liên quan đến khắc phục hậu quả do nước gây ra đòi hỏi phải có
sự tham gia của tất cả quốc gia để bảo vệ lợi ích chung cộng đồng quốc tế qua đó là xuất hiện
các điều ước quốc tế liên quan đến việc khắc phục hậu quả do nước gây ra. Mặc dù nguyên tắc
này không chứa đựng những quy định và nghĩa vụ pháp lý cụ thể nhưng nó tạo ra cơ sở pháp lý
chung cho cộng đồng quốc tế có trách nhiệm đối với những hậu quả do nước gây ra.
Thứ hai, nguyên tắc làm căn cứ cho việc chịu trách nhiệm khi các quốc gia có hành vi gây
ảnh hưởng đến quốc gia khác: nguyên tắc ngăn ngừa sự gây hại (prevention of harm). Nguyên
tắc này giải thích rằng, mỗi quốc gia có thẩm quyền tuyệt đối trên phần lãnh thổ của mình nhưng
những hoạt động đó vẫn có thể gây hại hoặc có thể xâm phạm đến chủ quyền quốc gia khác.
Quyền lợi của các quốc gia liên quan bị xâm hại chính là tiền đề của nguyên tắc này. Nguyên tắc
ngăn ngừa sự gây hại được khẳng định trong các điều ước quốc tế về môi trường như công ước
về Đa dạng sinh học, Công ước của Liên Hợp Quốc về BĐKH, đồng thời, được coi là một tập
quán quốc tế về Môi trường bởi tịa án Cơng Lý Quốc tế. Ngun tắc này dựa trên hành vi gây ô
nhiễm của các quốc gia. Theo đó, các quốc gia phải ngăn chặn sự ơ nhiễm xuyên biên giới nhằm
kiểm soát các nguy cơ gây thiệt hại mơi trường cho các quốc gia có liên quan đồng thời nguyên
tắc này cấm những hành vi có khả năng nguy hại đáng kể cho môi trường như trút bỏ các chất
thải độc hại vào các hồ biên giới và loại trừ khả năng gây hại cho môi trường từ những hành vi
hợp pháp cũng như đưa ra những giới hạn trong việc đưa chất thải vào các nguồn nước sử dụng
chung. Cơ sở cho những nghĩa vụ này xuất phát từ yếu tố môi trường và khả năng khơng thể tái
tạo lại.
Ngun tắc này có thể được vận dụng để làm tiền đề cho hành vi mở rộng liên quan đến
mơi trường, cụ thể trong lĩnh vực phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước gây ra.
Xu thế này đã được một số quốc gia nghiên cứu, triển khai.
Thứ ba, các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của quốc gia đối với
các vấn đề môi trường: Nghĩa vụ thông tin và tham vấn. Đây là nguyên tắc số 19 của tun bố
Rio theo đó các quốc gia phải thơng báo trước với một thời gian hợp lý và tiến hành tham vấn
với các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng do các hoạt động liên quan đến môi trường. Vì vậy
trước khi thực hiện hoặc cho phép tiến hành các hoạt động có khả năng tác động đáng kể đến
mơi trường của một quốc gia khác thì phải thơng báo cho quốc gia đó đồng thời cung cấp hồ sơ
dự án và phải được tiến hành trên tinh thần hợp tác và thiện chí sẵn sàng thảo luận và dự án đồng
thời không cản trở những quốc gia khác tiến hành theo dõi các hoạt động liên quan đến dự án.
Xét thấy Trung Quốc cũng là một trong những thành viên tham gia tuyên bố Rio, đánh giá rằng
việc áp dụng nguyên tắc này để giải quyết vấn đề phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của
nước gây ra giữa Việt Nam và Trung Quốc là điều khả thi, có tính áp dụng cao. Ngun tắc này
7
nên được thực hiện đầy đủ hai khía cạnh là “thơng tin” và “tham vấn” để góp phần bảo đảm
quyền, lợi ích xứng đáng của hai quốc gia hữu nghị có cùng nguồn nước.
CHƯƠNG 3: BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ PHỊNG, CHỐNG VÀ KHẮC PHỤC HẬU QUẢ DO NƯỚC GÂY RA.
3.1. Bất cập trong thực tiễn liên quan đến việc phòng, chống và khắc phục hậu quả do
nước gây ra
Về mặt công tác lãnh đạo, theo Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí Thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai năm 2020,
đã đưa ra đánh giá những mặt hạn chế, yếu kém cần khắc phục trong hoạt động phòng, chống và
khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra. Cụ thể, công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa
toàn diện, trách nhiệm chưa rõ ràng, hệ thống văn bản pháp luật, chính sách chưa cụ thể, còn
nhiều bất cập. Sự lãnh đạo, chỉ đạo nhiều lúc chưa kịp thời; một số nơi cấp chính quyền chưa
nhận thức được tầm quan trọng, tính khẩn cấp của thiên tai dẫn đến tình trạng chủ quan, lơ là.
Bên cạnh đó, xu thế BĐKH đang diễn ra ngày một tiêu cực, kéo theo đó là những hệ lụy cực
đoan, thiên tai bất thường, có nguy cơ ảnh hưởng nặng nề đến đời sống con người.
Công tác dự báo, cảnh báo thiên tai còn nhiều hạn chế, chưa sát với thực tế, nhất là dự báo
mưa lớn, diễn biến của bão ở gần bờ, nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất dẫn đến hiệu quả chỉ đạo,
chỉ huy chưa cao. Điển hình là việc dự báo sai Bão số 11 vào cuối năm 2017. Theo đó, chiều
ngày 13/10/2017, Trung tâm khí tượng thủy văn Quốc gia dự đốn đây là cơn bão sẽ mạnh đến
cấp 12, giật cấp 15, ảnh hưởng từ vùng biển Vịnh Bắc Bộ, biển Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Tuy
nhiên, đến ngày 16/10/2017, Trung tâm này đã dự đoán lại rằng bão số 11 đã suy yếu thành áp
thấp nhiệt đới. Việc dự báo sai đã gây tổn thất một số tiền lớn cho việc chuẩn bị chống bão.
Nguyên nhân xuất phát một phần do điều kiện kinh tế đất nước đang khó khăn trong việc đầu tư
phát triển hay nâng cấp mạng lưới trạm dự báo mới.
Trang thiết bị cứu hộ cứu nạn còn thiếu, một số nơi còn chưa phù hợp, lực lượng tham gia
cứu hộ, cứu nạn ở nhiều nơi còn thiếu chuyên nghiệp. Thực hiện phương châm 4 tại chỗ ở nhiều
nơi còn chưa được quan tâm đúng mức, còn trông chờ vào sự hỗ trợ từ TW. Công tác triển khai
thực hiện phòng, chống thiên tai diễn ra trên thực tế còn rất lúng túng, dẫn đến nhiều thiệt hại
khơng đáng có vẫn thường xun xảy ra, đặc biệt là phương án di dân ra khỏi vùng có nguy cơ
xảy ra lũ quét, sạt lở đất; phương án đảm bảo an toàn khu vực hạ du các hồ chứa;...
Về mặt tài chính, theo nghiên cứu cho thấy nguồn lực ngân sách nhà nước để cứu trợ phục
hồi thiên tai tiềm ẩn nguy cơ bị thiếu hụt trầm trọng. Ví dụ, trong các năm 2009 và 2017 số thiếu
8
hụt lần lượt là 1.806,75 tỷ đồng và 6.210 tỷ đồng do vào năm 2009, Việt Nam phải gánh chịu
hậu quả thiên tai cơn bão Ketsana (bão số 9), được so sánh có sức tàn phá như siêu bão Xangsane
(2006); năm 2017, Việt Nam phải đối mặt với cơn bão lớn kỷ lục Damrey và 14 cơn bão khác.
Trong các năm còn lại trong giai đoạn 2009-2018, nguồn lực của ngân sách nhà nước đều có thể
đáp ứng được chi phí cứu trợ và phục hồi trong ngắn hạn. Bài nghiên cứu đưa ra đánh giá rằng
ngân sách nhà nước không đủ nguồn lực để tái thiết khi xảy ra thiên tai, nhất là những thiên tai
gây thiệt hại nghiêm trọng.5
Do sự bất ngờ, khó đốn cũng như khơng có sự chuẩn bị kĩ trước nên quy trình hỗ trợ thiệt
hại sau thiên tai tại một số nơi đặc biệt là miền núi còn chậm trễ, chưa kịp thời hỗ trợ người dân.
Việc điều hòa nguồn quỹ giữa các địa phương khi có tình huống thiên tai nghiêm trọng hoặc xử
lý tồn quỹ cuối năm theo quy định chưa thực sự khả thi, khơng kịp thời, có thể dẫn đến tình trạng
chi quỹ khơng tập trung vào các nhiệm vụ thực sự cấp bách; chưa tận dụng nguồn quỹ đề giải
quyết một số hoạt động thuộc nhiệm vụ quản lý của TW, hoạt động liên quan đến liên vùng, liên
tỉnh; chưa đáp ứng được đề nghị của một số tổ chức quốc tế trong việc hỗ trợ cho Việt Nam khắc
phục nhanh hậu quả thiên tai; chưa có điều kiện để thực hiện các giải pháp để bảo tồn quỹ, tăng
cường bảo vệ ngân sách. Như ở Quảng Nam từ khi bị ảnh hưởng bởi bão lũ từ tháng 10/2020,
tuy nhiên gần hai năm qua hàng nghìn hộ dân vẫn chưa nhận được kinh phí hỗ trợ khắc phục
thiệt hại theo Nghị định 02 của Chính phủ.6
Đối với chính sách bảo hiểm rủi ro thiên tai chưa quy định trong luật hiện hành.
Đa số, các chính sách tài chính ứng phó với rủi ro thiên tai ở Viêt Nam là ngân sách dành
cho đầu tư phát triển sau thiên tai, thảm họa nhằm khắc phục hậu quả sau thiên tai, tuy nhiên chủ
yế u dưa vào ngân sách nhà nướ c mới chỉ đáp ứng được một phần tổng thiệt hại hàng năm khơng
giải quyết được vấn đề. Chính sách bảo hiểm rủi ro thiên tai nhằm kiểm soát rủi ro và bảo đảm
tính an tồn về tài chính, để trong trường hợp thảm họa xảy ra, các nguồn tài chính có thể được
huy động một cách nhanh chóng nhằm hỗ trợ giảm nhẹ những tác động của rủi ro và đẩy nhanh
quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.7
Nguyễn Diệu Hằng, “Ngân sách Nhà nước cho ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai ở Việt Nam: thực trạng và đề
xuất”, [ Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 278 (ii), truy cập ngày 20/11/2023.
6
Hoài Văn, “Hỗ trợ khắc phục thiệt hại mưa lũ năm 2020: Dân vẫn chưa nhận được tiền”, [ truy cập ngày 20/11/2023
7
Hồ Hương, “Những tồn tại, hạn chế nhất định trong Luật phòng, chống thiên tai hiện hành”,
[ />ists/News&ItemID=42077], truy cập ngày 20/11/2023
5
9
Về mặt nội dung pháp luật:
Trong cơng tác phịng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai: trên cơ
sở thực tiễn áp dụng những quy định, Cơ quan soạn thảo-Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng
thơn cho biết trong q trình thực hiện Luật PCTT và các văn bản hướng dẫn thi hành còn phát
sinh những vấn đề bất cập, vướng mắc và khoảng trống pháp lý. Ví dụ như cịn một vài loại hình
thiên tai chưa được phân cấp rủi ro thiên tai; một số cấp độ rủi ro thiên tai được phân cấp chưa
phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn trong chỉ đạo, chỉ huy ứng phó thiên tai. Bộ máy quản lý ở
cấp tỉnh với tính chất kiêm nhiệm chưa có đơn vị, bộ phận tham mưu chuyên sâu về phòng ngừa,
kiểm sốt rủi ro thiên tai. Bên cạnh đó, khi sự cố đê điều, hồ chứa, thiên tai xảy ra việc phản ứng
hỗ trợ khẩn cấp chưa thực sự hiệu quả do chưa hình thành các đội ứng phó thiên tai chuyên
nghiệp để sẵn sàng điều phối, xử lý.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quá trình thực hiện nội dung của
phịng, chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành kinh tế, xã hội của địa phương
cịn rất hạn chế và chưa có quy định đủ mạnh để giám sát, kiểm tra. Theo báo cáo cho biết số
lượng cơng trình, dự án làm gia tăng nguy cơ rủi ro thiên tai ngày càng nhiều (hệ thống đường
giao thông, các khu công nghiệp...lấn chiếm gây cản trở thốt lũ). Hiện nay, số lượng cơng trình,
nhà máy, dự án khu đơ thị xuất hiện ngày càng nhiều làm gia tăng nguy cơ rủi ro thiên tai. Hệ
thống giao thông chằng chịt lấn chiếm gây cản trở thốt lũ. Mặt khác, trong hồ sơ trình Ủy ban
Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 37 vừa qua, đại diện Cơ quan soạn thảo - Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng trình bày rằng việc xây dựng và
thực hiện kế hoạch phòng chống thiên tai ở các cấp còn chậm, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn.
Do vậy, hầu hết các kế hoạch chỉ mang tính hình thức, thiếu khả thi, hiệu quả thấp. Việc xây
dựng phương án ứng phó với các cấp độ rủi ro thiên tai tuy đã được các địa phương quan tâm
thực hiện, song nhiều phương án chưa sát thực tế diễn biến của thiên tai, nhất là trong điều kiện
nhiều loại hình thiên tai ngày càng có xu thế cực đoan, trái quy luật.8
Về mặt quan hệ quốc tế trong lĩnh vực nguồn nước liên quốc gia:
Theo đánh giá của chuyên gia, tuy đã có sự hợp tác mạnh mẽ giữa các quốc gia nhưng
những vấn đề mới vẫn tiếp tục xuất hiện và thách thức Việt Nam đối mặt với áp lực từ các nguồn
nước thượng nguồn. Nhiều phái đồn cơng tác của chính phủ Việt Nam đã được cử sang Trung
Quốc để tìm cơ chế tốt nhất cho việc trao đổi thơng tin về sông Hồng từ các nước thượng nguồn,
Hồ Hương, “Những tồn tại, hạn chế nhất định trong Luật phòng, chống thiên tai hiện hành”,
[ />ists/News&ItemID=42077], truy cập ngày 20/11/2023.
8
10
tuy nhiên việc liên lạc này chỉ ở mức độ hạn chế, thơng tin thu thập cịn ít. PGS Nguyễn Vũ Việt
cho rằng, Việt Nam cần thực hiện đánh giá rủi ro đối với từng lĩnh vực, từng khu vực, khủng
hoảng tài nguyên nước quốc gia, rà soát những tồn tại trong quản lý tài nguyên nước quốc gia và
các hệ thống liên quan để nâng cao hơn nữa công tác quản lý khoa học; xây dựng chiến lược
quốc gia ứng phó với BĐKH và Chiến lược cho các vấn đề tài nguyên nước xuyên biên giới, …9
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật
Thứ nhất, về nhóm biện pháp cơng trình để đối phó với tác hại do nước gây ra, Nhà nước
nên tăng cường sự hợp tác với các chuyên gia trên thế giới để trau dồi kinh nghiệm, đảm bảo an
tồn đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước nên tận dụng nguồn lực trong nước thông qua
các chính sách có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích người dân không ngừng sáng tạo, thiết kế các
nghiên cứu cơng nghệ đổi mới có khả năng áp dụng thực tiễn cao, phù hợp với kinh tế, chính trị
của đất nước.
Xu thế về hợp tác quốc tế để phát triển khả năng ứng phó với tác hại do nước gây ra được
củng cố trong thời gian gần đây. Hà Lan là quốc gia tập có những chuyên gia hàng đầu thế giới
về thủy lợi và đối phó với BĐKH, đặc biệt là thiết kế những con đê hiện đại có khả năng vượt
bậc trong hoạt động điều phối thuỷ văn, chống lụt, rửa mặn và tưới tiêu. Gần đây, vào tháng 12
năm 2022, Hà Lan đã ký kết Kế hoạch hợp tác chung với Việt Nam với nội dung tăng cường hợp
tác trên các lĩnh vực, bao gồm: phát triển và thúc đẩy các dự án hợp tác về cơ bản tài nguyên
nước điều tra và lập kế hoạch, bảo vệ, phân bổ và hài hòa, thiên tai giảm thiểu rủi ro và khả năng
phục hồi, và các công cụ kinh tế trong dự thảo Luật TNN sửa đổi sắp tới của Việt Nam; chia sẻ
kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước giữa hai nước; thúc đẩy chia sẻ kiến thức về thích ứng khí
hậu và tăng cường hợp tác về nước để hỗ trợ ý định của Việt Nam tham gia Hội đồng quốc tế về
Đồng bằng và Vùng ven biển tại Hội nghị về Nước của Liên hợp quốc vào ngày 2224/3/2023,10... Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế còn mang đến cho Việt Nam nguồn lực mạnh mẽ
trong việc phát triển hoạt động phòng, chống hậu quả tác hại do nước gây ra. Nền tảng chia sẻ
thông tin hợp tác tài nguyên nước Lan Thương- sông Mekong, “TTXVN: Việt Nam thực hiện
nhiều biện pháp cải thiện quản lý tài nguyên nước”.
Nền tảng chia sẻ thông tin hợp tác tài nguyên nước Lan Thương- sông Mekong, “TTXVN: Việt Nam thực hiện nhiều biện
pháp cải thiện quản lý tài nguyên nước”, [ truy
cập ngày 20/11/2023
10
Bộ Tài nguyên và Môi trường, “Việt Nam và Hà Lan thúc đẩy hợp tác về quản lý nước”,
[ truy cập ngày 20/11/2023
9
11
Ví dụ như dự án “Tăng cường khả năng chống chịu với những tác động liên quan đến
BĐKH cho các cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển Việt Nam” (trong đó hợp phần 2 - trồng
rừng ngập mặn) của Chính phủ, hỗ trợ bởi Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc và Quỹ Khí
hậu xanh11; dự án “Trồng rừng ngập mặn - Giảm thiểu rủi ro, thảm họa” do Hội Chữ thập đỏ Đan
Mạch, Nhật Bản thông qua Hiệp hội Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế tài trợ từ năm
1997 đến năm 2015 và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tài trợ trực tiếp năm 2016, với tổng kinh phí
hơn 11,3 triệu USD nhằm Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn. 12
Mặt khác, đối với các tổ chức, cá nhân có ý thức tự nguyện cao trong hoạt động phòng,
chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, Nhà nước có chính sách tuyên dương, khen
thưởng khích lệ xứng đáng nhằm lan tỏa tinh thần chung tay vì mơi trường chung. Điển hình vào
năm 2020 và 2021, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh đã vận động các đơn
vị, tổ chức, cá nhân ủng hộ khắc phục hậu quả do thiên tai bão lũ với số tiền và hàng hóa quy
thành tiền ước tính được 506,1 tỷ đồng; số tiền và hàng hoá trên đã được hỗ trợ kịp thời đến
người dân bị thiệt hại để xây dựng, sửa chữa nhà, trường học, nhà văn hoá, nhà cộng đồng tránh
lũ,…; hỗ trợ phát triển sản xuất, tặng quà với số tiền và hàng hoá trị giá 505,7 tỷ đồng. Riêng
năm 2020, thông qua Mặt trận và Quỹ cứu trợ các cấp đã có trên 6.000 đồn của các tổ chức, các
cá nhân trong và ngoài nước với gần 7.500 lượt cứu trợ trực tiếp, hỗ trợ cả khẩn cấp và lâu dài
cho bà con nhân dân tỉnh Quảng Bình bị thiệt hại do thiên tai; có hơn 993 đơn vị, doanh nghiệp,
nhà hảo tâm ủng hộ và cứu trợ tiền, hàng trực tiếp cho người dân thông qua các tổ chức thành
viên của Mặt trận và lực lượng vũ trang trong tỉnh với tổng trị giá 190,1 tỷ đồng… 13 Ngồi ra,
Tổng Cơng ty Thăm dị Khai thác Dầu khí (PVEP) Tập đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam phối
hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn tỉnh Thái Bình, Viện nghiên cứu sinh thái và
môi trường Rừng tổ chức Lễ phát động chương trình trồng rừng ngập mặn tại 3 xã Thụy Trường,
Thụy Xuân, Thụy Hải của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 14
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý của cơ quan hành chính trong
việc bảo vệ tài nguyên nước. Những tác động do BĐKH, thiên tai, xâm ngập mặn ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống nhân dân, đến sự phát triển của đất nước, nguồn nước ngọt sinh hoạt ngày
TG, “Hồi sinh rừng ngập mặn: “Dải đê xanh” giúp dân yên tâm trước bão”, Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương,
[ truy
cập ngày 20/11/2023.
12
Trịnh Sơn, “Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn”, Báo Nhân dân điện tử, [ truy cập ngày 20/11/2023
13
Lê Anh, Duy Hưng, “Mặt trận các cấp thực hiện tốt công tác phịng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai”,
[ truy cập ngày 20/11/2023.
14
Đức Tính, “PVEP hành động Vì một Việt Nam xanh”, Báo Quân đội nhân dân, [ truy cập ngày 20/11/2023.
11
12
càng cạn kiệt nên đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường tổng điều tra cơ bản về tài nguyên nước,
kiểm kê tài nguyên nước. Từ các công tác điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế,
hạch toán, sẽ thiết lập cơ sở dữ liệu, tài khoản các nguồn tài nguyên của đất nước rồi sau đó hoàn
thiện hệ thống quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên bảo đảm phân bổ nguồn lực tài nguyên
hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội để đảm bảo việc khai thác sử dụng tài nguyên nước hiệu
quả15, suy thối cạn kiệt nguồn nước. Bên cạnh đó, việc giám sát của cơ quan nhà nước đối với
các hành vi có khả năng tác động khiến hậu quả tác hại của nước gây ra trở nên cực đoan nên
được thực hiện mạnh mẽ, có trách nhiệm hơn nữa. Các hành vi vi phạm tiêu cực diễn ra ngồi
vịng pháp luật là vấn nạn dai dẳng, cần có sự kiên quyết và áp dụng các chế tài tương xứng để
răn đe, giáo dục.
Thứ ba, trong thực hiện cơng tác phịng, chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra, hiện
tượng chồng chéo thẩm quyền của các cơ quan chức trách mang tính phức tạp khiến họ khó thực
hiện trách nhiệm trên thực tế. Việc sửa đổi các quy định phù hợp với thực tiễn, có sự phối hợp
liên ngành, đồng thời vẫn đảm bảo quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể là điều cần thiết để
thực thi pháp luật có hiệu quả hơn. Vì lĩnh vực mơi trường rất rộng, các chế định trong lĩnh vực
này không độc lập hồn tồn với nhau mà có sự tác động qua lại; do vậy việc quy định chủ thể
có quyền quyết định đối với vấn đề chồng chéo nhiệm vụ cũng là địi hỏi khách quan.
Ví dụ trong hoạt động phịng, chống sạt, lở bờ, bãi sơng, cần giải quyết tình trạng tiêu cực
của việc khai thác cát, sỏi lịng sơng để ngăn chặn sạt, lở, làm ảnh hưởng xấu đến sự ổn định
lịng, bờ, bãi sơng, hồ. Các ngành, địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp
thời các chỉ thị, các thông báo kết luận và văn bản chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền cấp trên. Đối
với địa bàn giáp ranh giữa các huyện, UBND các huyện cần chủ động xây dựng kế hoạch phối
hợp kiểm tra thường xuyên, xác định cụ thể tàu thuyền từng địa bàn để có những biện pháp xử
lý phù hợp, có giải pháp khơng để tình trạng tàu thuyền đăng ký trên địa bàn này sang khai thác
cát, sỏi lịng sơng trái phép ở địa bàn khác. Về phía Sở Tài ngun và Mơi trường, sẽ phối hợp
với các sở, ban, ngành, địa phương liên quan rà sốt, bổ sung quy hoạch các điểm mỏ có cát, sỏi
lịng sơng nhằm đáp ứng nhu cầu về vật liệu xây dựng, phối hợp với chính quyền địa phương
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để xử lý các hành vi vi phạm.16
Nguyễn Thị Hạnh, “Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài nguyên nước ở Việt Nam”, Tạp chí Cơng thương điện tử,
[ truy
cập ngày 20/11/2023.
16
A.T, “Cần tăng cường công tác quản lý nhà nước và xử lý tình trạng khai thác cát, sỏi lịng sơng trái phép”,
[ truy cập ngày 21/11/2023
15
13
Thứ tư, mở rộng quy định thanh tra, kiểm tra đặc biệt đối với việc thực hiện chức trách của
cơ quan nhà nước trong lĩnh vực môi trường là vấn đề cần tăng cường trong tương lai. Qua đó,
đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc, đúng trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền; hạn chế
những điều tiêu cực trong q trình quản lý hành chính; nâng cao hiệu quả hoạt động phòng,
chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Theo Điều 75 Luật TNN quy định nội dung
thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước bao gồm:
(1) Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường và cơ
quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành tài nguyên nước;
(2) Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành tài nguyên nước tuân theo quy định
của Luật này và quy định của pháp luật về thanh tra.
Tại Hội nghị tập huấn nghiệp vụ và triển khai công tác thanh tra, kiểm tra ngành tài nguyên
và môi trường năm 2019, Bộ trưởng Trần Hồng Hà chỉ ra hạn chế, tồn tại đối với công tác này
trong thời gian qua, vẫn chưa tao đư ̣ ơc bư ̣ ớc đôt phá; nhiều vụ việc chỉ được triển khai khi các
vi phạm đã được các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện và đăng tin hoặc do Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo. Công tác phát hiện hành vi vi phạm cịn nhiều thiếu sót dẫn đến nhiều hệ lụy
tiêu cực, gây bức xúc trong nhân dân, chưa đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật. Qua đánh
giá, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đưa ra yêu cầu, nội dung đổi mới, tạo đột phá cho công tác thanh,
kiểm tra của ngành trong thời gian tới. Quán triệt phương châm năm 2019 của Chính phủ là “Kỷ
cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, đội ngũ cán bộ thanh tra phải thể
hiện được sự trình độ chun mơn, liêm khiết, công minh khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Mặt
khác, cần đưa công tác thanh tra đi vào chiều sâu. Đối với công tác chuyên môn, Bộ trưởng đề
nghị thường xuyên tăng cường thanh tra đột xuất; tích cực phối hợp tốt trong việc xây dựng, triển
khai kế hoạch thanh tra hàng năm, thiết lập cơ chế trao đổi thơng tin để khắc phục tình trạng
chồng chéo, trùng lặp giữa Bộ, ngành và địa phương trong lĩnh vực tài nguyên môi trường. Về
tiếp công dân, cần thực hiện đa dạng hóa các kênh thơng tin để tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị
của người dân đối với công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo.17
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang, “Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Cần tao bước đột phá trong công ̣ tác thanh
tra, kiểm tra về tài nguyên và môi trường”, [ truy cập ngày
21/11/2023.
17
14
Thứ năm, xét về việc giải quyết tranh chấp, bất đồng trong lĩnh vực phòng, chống và khắc
phục hậu quả do nước gây ra:
(i) Đối với quốc tế: trong quan hệ quốc tế, việc tích cực tham gia vào các điều ước quốc tế
song phương, đa phương sẽ tạo cơ sở cho Việt Nam đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của quốc
gia. Với vị trí đặc thù là nơi hạ nguồn của phần lớn các nguồn sông liên quốc gia, Việt Nam phải
dự liệu trước các tình huống đe dọa đến sự an tồn bền vững mơi trường, chủ động và tích cực
phịng, chống tác hại do nước gây ra xuất phát từ hành vi của quốc gia khác trong cùng khu vực.
Trong quan hệ hữu nghị quốc tế, khi xảy ra tranh chấp, bất đồng về nguồn nước liên quốc gia,
Việt Nam ln tận tâm, thiện chí giải quyết trên cơ sở thương lượng; tuy nhiên nhược điểm của
phương pháp này là chậm chạp, tốn thời gian vì các quốc gia ln muốn đảm bảo quyền cho
quốc gia mình ở mức độ cao nhất. Trong tương lai, việc nghiên cứu và vận dụng các nguyên tắc,
thông lệ, tập quán quốc tế trên thế giới về lĩnh vực mơi trường là cần thiết; qua đó, tạo nền tảng
vững chắc để Việt Nam thực hiện tốt hơn công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả do nước
gây ra mà vẫn đảm bảo được quan hệ hữu nghị với các quốc gia khác.
(ii) Đối với nội tại quốc gia: có nhiều tranh chấp về sử dụng nguồn nước đã xảy ra ở nước
ta. Gần đây nhất là việc nhà máy thuỷ điện Bắc Hà ở Lào Cai và thủy điện Hương Điền, Thừa
Thiên Huế xả lũ gây thiệt hại nặng nề cho nhiều hộ nông dân. Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơ
chế hiệu quả, tồn diện để giải quyết khắc phục hậu quả cho người bị thiệt hại. Thứ nhất, Luật
vẫn trao quyền rất lớn cho chính quyền trong việc giải quyết tranh chấp và dường như chỉ được
thiết kế cho việc giải quyết tranh chấp giữa địa phương này với địa phương khác, trong khi chưa
rõ về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa người dân với doanh nghiệp và giữa một địa phương với
cơ quan quản lý tài nguyên nước. những vướng mắc về tố tụng dân sự trong việc giải quyết các
khiếu kiện về tranh chấp nguồn nước cũng là một khó khăn trong thực tế xử lý tranh chấp về
nguồn nước. Thứ hai, cơ chế để người dân khởi kiện được thực hiện theo quy định chung của
pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có
liên quan. Theo đó, phía ngun đơn phải tự chứng minh rằng bên bị đơn có hành vi trái pháp
luật, có lỗi cũng như phải xác định thiệt hại cụ thể để có cơ sở cho việc bồi thường. Trong khi
đó, việc xác định lỗi của bên vi phạm rõ ràng là không hề dễ dàng đối với người dân. Hơn nữa,
nếu người dân hoặc các chính quyền địa phương muốn khởi kiện cơ quan quản lý nhà nước cấp
trên thì cũng khơng có cơ chế nào có thể thực hiện trong thực tế. Thứ ba, mặc dù việc xả lũ của
thủy điện gây thiệt hại đến rất nhiều hộ dân, nhưng pháp luật về tố tụng dân sự Việt Nam vẫn
chưa chấp nhận cho khởi kiện tập thể, gây khó khăn cho cả người dân lẫn toà án khi thực hiện cả
15
ngàn vụ kiện giống nhau như vậy.18 Với những bất cập do ý thức chủ quan đến từ cơ quan, tổ
chức trong hoạt động phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, thiết nghĩ việc
đặt ra cơ chế riêng biệt để giải quyết những tranh chấp trong lĩnh vực tài nguyên nước là yêu cầu
khách quan cần được thực hiện.
Tại Malaysia, việc đảm bảo chính sách bảo trợ xã hội cho người dân bản địa sống gần khu
vực thủy điện được nghiên cứu để đưa ra giải pháp giải quyết tranh chấp một cách hợp lý. Việc
thương lượng về các điều khoản đền bù, giao đất và tái định cư được thực hiện chủ yếu giữa các
trưởng thôn, các ban ngành của thôn và các cơ quan ban ngành. Các đề xuất về bồi thường đã
được thảo luận trong cộng đồng và được các trưởng làng đưa ra trước với sự chú ý của chính
phủ. Việc tái định cư được hỗ trợ song hành cùng sự đảm bảo kế sinh nhai; họ được thông báo
rằng sẽ có việc làm, đủ đất để thay thế đất cũ, cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường, điện, nước và quan
trọng hơn là trạm y tế và trường học cho con cái họ.19 Cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù được
tiến hành trên cơ sở thương lượng tập thể giữa người dân và cơ quan, tổ chức có liên quan là phù
hợp để hai bên có thể đi đến thống nhất quan điểm, có cơ hội được thể hiện quan điểm của bản
thân một cách hợp lý. Đồng thời, phương pháp này cũng thể hiện tính nhanh chóng hơn việc giải
quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự (thường được đánh giá là mất một quá trình từ việc mở phiên
tòa đến việc thi hành). Việc này giúp đảm bảo hoạt động khắc phục hậu quả diễn ra kịp thời đối
với những tổn thất gây ra.
Thứ sáu, vai trò của tuyên truyền, giáo dục là điều cần thiết để nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật và tầm quan trọng của việc phát triển môi trường bền vững; qua đó tác động vào cách
xử sự của các chủ thể thực hiện việc khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên
thiên nhiên. Tài nguyên là tài sản quý giá, không thể hồi phục lại khi khác thác; tài ngun đóng
vai trị là nguồn vốn, đầu vào của nền kinh tế. Do vậy, việc được khai thác, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả và bền vững; coi việc khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên là yêu cầu khách
quan của thực tiễn. Vấn đề sở hữu, quyền khai thác, chế độ sử dụng tài nguyên cần được nhận
thức một cách sâu sắc, đúng đắn, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, song hành cùng với vấn
đề bảo vệ các nguồn tài nguyên. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc nâng cao nhận thức về sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên; thiết lập cơ chế
thích hợp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia hoặc hỗ trợ đắc lực cho việc giám sát, quản lý tài
Hoàng Việt, “Cơ chế giải quyết tranh chấp nguồn nước cịn thiếu tồn diện”, Báo Con người và Thiên nhiên,
[ truy cập ngày
21/11/2023.
19
Tegan Blaine, Ph.D.; Chris Collins; Laura Leiva, “The Limits of Social Protection: The Case of Hydropower Dams and
Indigenous Peoples' Land”, [ truy cập ngày 21/11/2023.
18
16
nguyên, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi có khả năng gây tác động làm trầm trọng thêm hậu quả
tác hại do nước gây ra.
17
KẾT LUẬN
Điều kiện tự nhiên ưu đãi cho Việt Nam một hệ sinh thái đa dạng và nguồn nước phong
phú. Tuy nhiên do các điều kiện khách quan như biến đổi khí hậu, dân số tăng nhanh, cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa khơng ngừng tác động vào tài ngun nước, cùng với sự quản lý chưa chặt chẽ
của nhà nước đã dẫn đến những hậu quả mà nước mang lại đối với nước ta nói riêng và thế giới
nói chung.
18
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Tài nguyên nước 1992;
2. Luật Tài nguyên nước 2012;
3. Luật Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa;
4. Luật Phòng, chống thiên tai 2013;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Mơi trường, NXB Cơng an nhân
dân;
6. TH, “Biến đổi khí hậu và tác động của biến đổi khí hậu”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam,[ truy cập ngày 20/11/2023
7. Trương Thị Mỹ Nhân, “Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển con người”,
[ />1.pdf], truy cập ngày 20/11/2023.
8. .Hà Thanh, “Trung Quốc xả lũ, nhưng tác động đến Việt Nam không lớn”, Báo Tuổi Trẻ
online,
[ />9. Xuân Trường, “Thủy điện Trung Quốc xả lũ ảnh hưởng thế nào đến Việt Nam?”, Báo
VTC News, [ />10. Trần Phương, “COP27 bàn bồi thường cho các nước đang phát triển”, Báo Tuổi trẻ,
[ />20221105084709291.htm]
11. Bộ Tài Chính Việt Nam (2016), “Việt Nam cần làm gì để tiếp tục dẫn đầu trong cuộc đua
giành
FDI?”,
/>12. Nguyễn Diệu Hằng, “Ngân sách Nhà nước cho ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai ở
Việt Nam: thực trạng và đề xuất”, [ Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 278 (ii).
13. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kiên Giang, “Bộ trưởng Trần Hồng Hà: Cần tao bước
đột phá trong công ̣ tác thanh tra, kiểm tra về tài nguyên và môi trường”,
19
[ />14. Hoàng Việt, “Cơ chế giải quyết tranh chấp nguồn nước cịn thiếu tồn diện”, Báo Con
người và Thiên nhiên, [ />15. Lê Anh, Duy Hưng, “Mặt trận các cấp thực hiện tốt cơng tác phịng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai”, [ />16. Đức Tính, “PVEP hành động Vì một Việt Nam xanh”, Báo Quân đội nhân dân,
[ />17. Nguyễn Thị Hạnh, “Hoàn thiện các quy định pháp luật về tài ngun nước ở Việt Nam”,
Tạp chí Cơng thương điện tử, [ />18. “Explainer:
Who
will
pay
for
climate
'loss
and
damage'?”,
[ 20]
19. Louise Osborne, “Who is paying for climate change loss and damage?”,
[ />damage/a63622795]
20. Tegan Blaine, Ph.D.; Chris Collins; Laura Leiva, “The Limits of Social Protection: The
Case
of
Hydropower
Dams
and
Indigenous
Peoples'
Land”,
[ />
20