Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức và việc vận dụng xây dựng đạo đức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.99 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và việc vận dụng
xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay?

Họ và tên

:

……………………………..

Mã sinh viên

:

……………………………..

Lớp

:

……………………………..

Giảng viên hướng dẫn

:


……………………………..

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và việc vận dụng
xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay?

Họ và tên

:

……………………………..

Mã sinh viên

:

……………………………..

Lớp

:


……………………………..

Giảng viên hướng dẫn

:

……………………………..

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................2
6. Kết cấu của đề tài.................................................................................................................2
NỘI DUNG............................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.....................3
1.1 Quan điểm về vai trị và sức mạnh của đạo đức...............................................................3
1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.......................................................................3
1.1.2 Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội....................................3
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.....................................................4
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân.........................................................................................4
1.2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư...........................................................................5
1.2.3 Thương u con người, sống có tình nghĩa....................................................................7
1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.....................................................................7
1.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới................................................7

1.3.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức.............................................................7
1.3.2 Xây đi đôi với chống........................................................................................................8
1.3.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời......................................................................................9
1.4 Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức, lối sống.............................................................10
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY......................................................................................................................................... 12
2.1 Thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay...................................................12


2.1.1 Ưu điểm.......................................................................................................................... 12
2.1.2 Hạn chế........................................................................................................................... 13
2.2 Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong vấn đề xây
dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay.......................................................................................13
2.2.1 Một số kết quả đạt được................................................................................................13
2.2.2 Một số hạn chế, tồn tại..................................................................................................14
2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.....................................................................15
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................................................................16
3.1 Giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong vấn đề xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay..........................................................16
3.2 Liên hệ bản thân............................................................................................................... 16
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................................18
1. Kết luận............................................................................................................................... 18
2. Kiến nghị............................................................................................................................. 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................20


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết thì chủ tịch Hồ Chí Minh là người bàn nhiều nhất về đạo
đức. “Đức là gốc” chính là quan điểm cơ bản, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức không chỉ là cái gốc, là nền tảng,
là nhân tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo của lòng cao thượng của
con người. Người đưa nội dung đạo đức cách mạng vào trong những bài giảng đầu tiên
cho lớp thanh niên chi thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam... Hồ Chí Minh quan
niệm đạo đức cách mạng chính là đạo đức của người cách mạng xuất hiện trong q
trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc; là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; ln u thương,
quý trọng con người và tinh thần quốc tế trong sáng… Tư tưởng về đạo đức của Hồ
Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, đạo đức Mác-Lênin, mang bản chất
cách mạng và khoa học triệt để, đậm đà truyền thống nhân ái Việt Nam và nhân loại.
Đạo đức nói chung và đạo đức cách mạng nói riêng chính là cái gốc của nhân
cách, là nền tảng của người cách mạng. Việc chăm lo cái gốc, cái nguồn ấy phải là
cơng việc thường xun của tồn Đảng, tồn dân cùng với gia đình và mỗi người trong
xã hội. Do vậy, việc tìm hiểu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để từ đó có
thể vận dụng vào việc xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay thật sự có một ý nghĩa
vơ cùng quan trọng và cần thiết để qua đó góp phần xây dựng, đổi mới và đưa đất
nước phát triển. Do đó, em quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và việc vận dụng xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay?” để làm chủ đề bài
tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, từ đó có thể đánh
giá thực trạng, đồng thời đề xuất được giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức trong vấn đề xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay.

1



3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và việc
vận dụng xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ những nội dung cơ bản và giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh,
phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử để tiến hành nghiên cứu đề tài.
Với phương pháp luận là quan điểm của Đảng và quan điểm của chủ tịch Hồ
Chí Minh, khi đi vào tìm hiểu sâu sẽ giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu ln đi
đúng hướng và hiệu quả.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được
chia làm ba chương sau đây:
Chương 1: Lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chương 2: Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong vấn đề
xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức trong vấn đề xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Khi đánh giá về vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã

khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây,
như nguồn của sơng suối. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
tư tưởng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Trong điều kiện Đảng
cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ Đảng xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi
vào thối hóa, biến chất.
Vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”, Người căn
dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đấy tớ trung thành của nhân dân”. Hồ Chí Minh ln
đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu
quả trên thực tế.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất
và năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc của
chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả
hành động.
1.1.2 Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở
mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương
sống và hành động của mình chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Người cho
rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh
của lồi người khơng chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản,
mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành
một sức mạnh vô địch.

3


Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời
thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân

Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu, là nguồn cổ vũ động
viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan
trọng nhất, bao trùm nhất. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất
chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu
ngẩng lên trời.”
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đơng, song có nội dung hạn hẹp, phản ánh bổn phận của dân đối với
vua, con đối với cha mẹ: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Hồ Chí Minh đã mượn
khái niệm cũ và đưa vào nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một
cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trung với nước phải gắn liền hiếu với
dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Đây là chuẩn mực
đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin
dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân
dân hết lòng. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh u cầu phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
*Nội dung chủ yếu của trung với nước:
● Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
● Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.

4



● Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
*Nội dung của hiếu với dân:
● Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
● Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
● Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
● Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân.
1.2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Đây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con
người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến
ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng khơng bao giờ thực hiện mà lại bắt
nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Người cũng dùng những phạm
trù đạo đức cũ, lọc bỏ những nội dung lạc hậu, đưa vào những nội dung mới đáp ứng
nhu cầu cách mạng.
*Nội dung của “cần”:
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con
người.
*Nội dung của “kiệm”:
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ,
không hoang phí, khơng bừa bãi”, nhưng khơng phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng
của Người còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao. Theo Hồ Chí Minh Cần phải đi
liền với Kiệm, cần mà không kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng khơng
đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
*Nội dung của “liêm”:


5


Liêm là ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị,
tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham
học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là: “Cậy quyền thế mà đục khoét,
ăn của dân, hoặc trộm của cơng làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh
tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, khơng dám làm
là tham lạo”.
*Nội dung của “chính”:
Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc: Đối
với mình, khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm
mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người, khơng nịnh hót người trên,
xem khinh người dưới; ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, không dối
trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc cơng lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến
chốn, khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính là những phẩm chất rất cần thiết đối với người cán bộ,
đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ
của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. Nó là cái cần để “làm việc, làm người,
làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc
và nhân loại”.
*Nội dung của “chí cơng vơ tư”:
Chí cơng vơ tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị,
không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Thực hành chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người
vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh
viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp

dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người u mến và ca ngợi, nếu lịng
dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích
cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.

6


Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là để người cách
mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
1.2.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa
với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều
thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình u thương con người
là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vị rất rộng
lớn, đó là tình thương bao la dành cho những người cùng khổ, những người lao động
bị áp bức, bóc lột khơng chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Yêu thương con
người là nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác; phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong
mỗi con người. Bác căn dặn, Đảng phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau, trên
ngun tắc tự phê bình và phê bình chân thành, thẳng thắn, khơng “dĩ hồ vi q”,
khơng hạ thấp con người, càng không phải vùi dập con người.
1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, nhằm vào
mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia dân tộc. Nội dung của chủ nghĩa quốc tế
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc.
Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vơ sản tồn

thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên
toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc;
chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, sơ vanh, chủ nghĩa bành trướng, bá quyền. Người
khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em”; giúp bạn là tự giúp mình; thắng lợi
của mình cũng là thắng lợi của nhân dân thế giới.
1.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
1.3.1 Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức

7


Nói đi đơi với làm, Hồ Chủ tịch coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhât trong
xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định tuef giữa
những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm đường cách mệnh. Bản thân Hồ Chí
Minh là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đơi với việc làm. Nói đi đơi với
làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – đạo đức cách mạng.
Nói đi đơi với làm đối lập hồn tồn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một
đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà khơng làm.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện
của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, vác mặt làm quan cách mạng, nói mà khơng làm.
sau này Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần
chúng của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ
theo lối quan chủ. Miệng thì nói “sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích
của quần chúng, trái ngược với phương châm, chính sách của đảng và Chính phủ, làm
tổn hại uy tín của đảng và chính phủ trước nhân dân. Nêu gương về đạo đức là một nét
đẹp của truyền thống văn hóa phương Đơng. Nói đi đơi với làm phải gắn liền với nêu
gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ: “nói chung thì các dân tộc phương
Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống cịn có gí trị hơn một trăm
bài diễn văn tun truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ
cách mạng tiền phong, mà cịn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.

Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”.
Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong
những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng
con người mới, cuộc sống mới”. Để làm được như thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng
những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao
động sản xuất, trong chiến đấu, trong học tập...
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng
lớn, vững chắc khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của
tồn xã hội.
1.3.2 Xây đi đơi với chống

8


Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt, xấu, đúng, sai, cái đạo đức và
cái vô đạo thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con
người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Do đó, việc xây và chống trong lĩnh
vực đạo đức rõ ràng không đơn giản, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích
xây. Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng
công việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục
đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; phù hợp với từng
lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, từng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi
dậy được ý đạo đức lành mạnh ở mỗi người.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cai xấu, cái vô đạo đức trong
đời sống hằng ngày. Người cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo
đức mới chỉ có thể được xây dựng thành cơng trên cơ sở kiên trì chống mục tiêu chủ
nghĩa đế quốc, chống những thói quen, tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Đây thực sự là một cuộc chiến đấu khổng lồ giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng

và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan
trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần
chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
1.3.3 Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự
do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng
mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng địi hỏi mỗi người
phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối
quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, khơng tự lừa dối; phải thấy rõ cái hay,
cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để
khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hằng ngày.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức khơng phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà
đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực
tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố".

9


Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên
tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức ln luôn gắn
liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để
giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại
đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh ln ln
chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển
kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người.
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ
động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá

nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng
đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
1.4 Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức, lối sống
“Đối với mình, phải siêng nǎng, khơng được lười biếng, ai lười biếng không
làm được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hố ra tham lam, nhất là đối với
tiền bạc của đoàn thể phải rất phân minh”. (Con đường giải phóng. Tháng 12 nǎm
1940. Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)
“Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến
đỉnh. Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Mấy nǎm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xi nhất là
về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu”. (Bài
nói chuyện với bộ đội, cơng an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô. Ngày 5
tháng 9 nǎm 1954.T.7, Tr.346)
“Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thơng mà phải có đạo đức
cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài khơng có đức, tham ơ hủ hố có hại cho nước.
Có đức khơng có tài như ơng bụt ngồi trong chùa, khơng giúp ích gì được ai”. (Bài nói
chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I. Ngày 12 tháng 6 nǎm 1956.
T.8, Tr.184.)
“Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có cơng
trạng khơng nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức

10


tính mà người cách mạng nào cũng phải có”. (Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao
cấpcủa Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục. Tháng 5 nǎm 1957. T.8,
Tr.391)
“… Cần, Kiệm, Liêm, Chính” là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi
đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.

Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời.
Thiếu một phương, thì khơng thành đất
Thiếu một đức, thì khơng thành người...
Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà khơng
Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng khơng có đáy; nước
đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, khơng lại hồn khơng.
Kiệm mà khơng Cần, thì khơng tǎng thêm, khơng phát triển được. Mà vật gì đã
khơng tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ
thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khơ kiệt.
Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có
ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng cịn
phải Chính mới là người hồn tồn.
Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình khơng chính,
mà muốn người khác chính là vơ lý”.
(Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 nǎm 1949. T.5)
“Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng
muốn ǎn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc
nhân dân ta cịn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ǎn ngon mặc đẹp,
như vậy là khơng có đạo đức”. (Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp của Bộ
Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.Tháng 5 nǎm 1957. T.8, Tr.391)
11


“… Kiên trì và nhẫn nại,
Khơng chịu lùi một phân, vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần”.
(Bốn tháng rồi. Nhật ký trong tù. Nǎm 1942-1943. T.3, Tr.387)
“Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng

viên phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu khơng trị cho khỏi hết, thì
nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng”. (Kiểm điểm công việc của Đảng.
Tháng 1 nǎm 1949.Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)
“Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:
▪ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
▪ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
▪ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
▪ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư”.
(Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140, ngày 2 tháng 9 nǎm 1950.
T.6, Tr.90)
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1 Thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay
2.1.1 Ưu điểm
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, thế hệ trẻ Việt Nam vẫn
luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày cơng
vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ,
dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương
diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học cơng nghệ, để cùng với tồn Đảng,
tồn dân thực hiện cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
12


Các phong trào thi đua như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp,
Tuổi trẻ học đường... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh
hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và
tơn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp

bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có thể thấy, thế hệ
trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.1.2 Hạn chế
Do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế
tồn cầu hóa, và đặc biệt, do khơng nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận
thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai
nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích
hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa,
nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ
đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành
mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, các thế lực thù địch đang
chờ đợi và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược
diễn biến hịa bình hịng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt
Nam.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó liên quan
trực tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện, một nội dung quan
trọng của chiến lược lấy dân làm gốc. Có thể khẳng định, cùng với những biện pháp
tích cực và đồng bộ khác, cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” mà Đảng ta vừa phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện,
phấn đấu.
2.2 Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong vấn đề xây
dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Một số kết quả đạt được
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã kế thừa, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức để giáo dục cho các cán bộ,
13



đảng viên, thanh niên về đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng, để nhằm đáp ứng với
đòi hỏi của tình hình cách mạng đặt ra ở mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau. Trong
kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, lớp lớp thanh niên đã không quản hy
sinh, chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân; khơng
ngại khó khăn, vất vả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cấp ủy đảng và người đứng đầu
các cơ quan, đơn vị, địa phương đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai nhiều chương trình, dự án, như Dự án
tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã; Đề án thí điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện về các xã
nghèo tham gia phát triển nơng thơn, miền núi… Qua đó, nhiều thanh niên đã trở
thành nguồn cán bộ có chất lượng; những doanh nhân trẻ thành đạt, những gương điển
hình tiên tiến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhìn chung, đa phần các cán bộ, đảng viên, thanh niên hiện nay đều đã đáp ứng
được những nhiệm vụ đặt ra, có ý thức kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm trong công
việc, đặt ra lối sống lành mạnh để thực hiện góp phần vào sự phát triển của kinh tế xã
hội nhất là trong thời kỳ, hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể thấy, vấn đề đạo đức cách
mạng trong giai đoạn hiện nay được đề cao theo hướng đẩy mạnh mạnh mẽ đối với
cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo, tầng lớp thanh niên... Nhìn chung, đa phần các
chủ thể đã đáp ứng được những nhiệm vụ đặt ra, có ý thức kỷ luật, có tinh thần trách
nhiệm trong công việc, đặt ra lối sống lành mạnh để thực hiện góp phần vào sự phát
triển của kinh tế xã hội nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.2 Một số hạn chế, tồn tại
Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng cho các cán
bộ, đảng viên, thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vẫn còn tồn tại một
số hạn chế:
● Một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự
chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng cho các cán bộ,

đảng viên khác và cả thanh niên; còn nặng về hình thức, chưa chú trọng đến nội dung,
14


đi sâu vào những vấn đề đặt ra cần tập trung giáo dục cho cán bộ, đảng viên và thanh
niên trong thời đại mới, như: ý chí, khát vọng vươn lên trong cơng việc, cuộc sống,
tình u thương với q hương, đất nước...
● Vẫn có những điểm tiêu cực xuất hiện ở một bộ phận cán bộ, đảng viên,
thanh niên trong cuộc sống hằng ngày. Trong đó, cụ thể là một bộ phận cán bộ, đảng
viên, thanh niên là những cán bộ, đảng viên bị thối hóa, biến chất, thiếu tu dưỡng và
rèn luyện đạo đức. Họ sống buông thả, thờ ơ, bàng quan với bản thân, gia đình và xã
hội; thậm chí có nhiều thanh niên cịn vi phạm pháp luật. Từ đó, gây ra việc bản thân
ích kỷ, bị sa đà vào những cám dỗ về lợi ích vật chất gây ra những sự việc đáng buồn,
rạn nứt niềm tin trong lòng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
*Về khách quan có nhiều nguyên nhân như:
Thời tiết diễn biến phức tạp, nguy cơ dịch bệnh ln tiềm ẩn, có khả năng bùng
phát trên diện rộng... Hạn chế của cán bộ, đảng viên, thanh niên về đạo đức cách mạng
còn do những nguyên nhân khách quan thuộc mặt trái của nền kinh tế thị trường; là sự
bùng nổ thiếu kiểm sốt thơng tin trên mạng intemet và giao lưu quốc tế đã tạo điều
kiện cho những mặt tiêu cực của văn hóa và lối sống bên ngồi du nhập vào nước ta; là
trong xã hội ta hiện nay vẫn còn những tàn dư của đạo đức phong kiến, thực dân và âm
mưu “diễn biến hịa bình” của kẻ thù.
*Về ngun nhân chủ quan là chủ yếu, đó là:
Tư duy đổi mới của khơng ít cán bộ, đảng viên, thanh niên chưa theo kịp với
yêu cầu trong tình hình mới; Năng lực lãnh đạo, quản lý và trình độ chun mơn của
một vài cán bộ chủ chốt còn hạn chế; còn một số cán bộ, đảng viên, thanh niên nói
nhiều, làm ít, ngại khó, sợ va chạm, thiếu gương mẫu, tự thỏa mãn với bản thân.
Về cơng tác giáo dục chính trị, đạo đức thì có những ngun nhân chủ quan,
trước hết là có biểu hiện bng lỏng việc giáo dục đạo đức, lối sống cách mạng theo tư

tưởng Hồ Chí Minh trong một thời gian khá dài do các cán bộ, đảng viên, thanh niên
nhận thức chưa đầy đủ về vai trị của đạo đức cách mạng. Thêm vào đó là những hiện
tượng xử lý không nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên, thanh niên xa rời
đạo đức cách mạng...

15


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong vấn đề xây dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Để phát huy sức mạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong vấn đề xây
dựng đạo đức ở Việt Nam hiện nay, em xin đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phải coi trọng nhiệm vụ giáo dục cho cán bộ, đảng viên, thanh niên
về đạo đức, phẩm chất, lối sống. Cần tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh
niên qua sinh hoạt ở tổ chức đảng. Trong sinh hoạt chi bộ và cấp ủy khơng chỉ có phần
đánh giá cơng việc, mà còn phải kiểm điểm, đánh giá về đạo đức cán bộ, đảng viên,
thanh niên.
Thứ hai, tăng cường vai trò, hiệu lực của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tập trung chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có hiệu quả.
Nhà nước đã ban hành pháp lệnh và phát triển thành luật phòng ngừa và chống tham
nhũng, lập ra các cơ quan chống tham nhũng.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là
Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Bác Hồ là
một con người giản dị, Người đã từng sống bên cạnh chúng ta, chân thật, gần gũi như
một người bình thường. Những điều Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, công chức, đảng
viên, thanh niên về đạo đức cách mạng là những điều được rút ra từ thực tiễn cuộc đời
Người đã sống và hoạt động cách mạng. Do đó, cơng tác tun truyền cần tập trung

làm cho mọi người hiểu được và nhận thức một cách chân thực về tư tưởng và tấm
gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, cần tăng cường tuyên truyền, học tập những tấm gương tiêu biểu về đạo
đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng, xây dựng, bồi đắp cái tốt, cái đúng trong hành vi
đạo đức, biểu dương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác một cách cụ thể. Nhiều
tấm gương trong sáng về đạo đức cách mạng của các đồng chí lãnh đạo các chiến sĩ
cách mạng qua các thời kỳ cần được tuyên truyền học tập.
3.2 Liên hệ bản thân

16



×