Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Song nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 - 1785) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.59 KB, 7 trang )

Song nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 - 1785)
Hồ Sĩ Đống tự Long Phủ, hiệu Dao Đình; sau đổi tên là Đồng, tự Thông Phủ, hiệu
Trúc Hiên, người làng Hoàn Hậu (nay là xã Quỳnh Đôi), huyện Quỳnh Lưu, Nghệ
An. Ông thuộc dòng dõi Trạng nguyên Hồ Tông Thốc (1324 - ?). Theo nhà nghiên
cứu Hồ Sĩ Giàng trong sách Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, (Nxb Văn
hóa Thông tin, H.1995), ông tổ đầu tiên của họ Hồ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật
từ Triết Giang (Trung Quốc) sang nước ta cuối thời Ngũ đại (907-960).
1. Khoảng năm 960, ông về làm trại chủ ở hương Bào Đột (nay thuộc xã
Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu). Đến đời thứ 12 có Hồ Liêm từ hương Bào Đột
ra Thanh Hóa làm con nuôi cho Tuyên phủ sứ Lê Huấn, đổi họ là Lê. Đời thứ 13,
Hồ Kha từ Quỳ Trạch (nay thuộc xã Thọ Thành, huyện Yên Thành) đi khai
hoang vùng Nghĩa Liệt, lập ra trang Thổ Đôi, sách Hoàn Hậu (nay thuộc xã
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu). Đến đời thứ 15 có Hồ Quý Ly, Hồ Tông Thốc;
đời thứ 23 có Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương; đời thứ 24 có Hoàng giáp Hồ Phi Tích; đời
thứ 25 có Tiến sĩ Hồ Sĩ Tân; đời thứ 27 có vua Quang Trung (Hồ Thơm), Hoàng
giáp Hồ Sĩ Đống, nữ sĩ Hồ Xuân Hương Lại theo học giả Trần Thanh Mại công
bố trên Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 10 - 1964, liên quan đến việc phát hiện tập
thơ Lưu hương ký thì Hồ Sĩ Đống và Hồ Xuân Hương đều là con ông đồ Hồ Sĩ
Danh. Hồ Xuân Hương là con bà vợ thiếp người họ Hà. Có thể hồi nhỏ Hồ Xuân
Hương từng sống một thời gian ở quê cha, nhưng sau khi thân phụ qua đời
(1783), bà về sống với mẹ ở kinh thành Thăng Long.
2. Năm Cảnh Hưng thứ 33, Nhâm Thìn (1772), Hồ Sĩ Đống thi đậu Hội
nguyên, Đình nguyên (tức Song nguyên) Hoàng giáp. Theo danh sĩ Phạm Đình
Hổ (1768-1839), thi cử thời này thiên lệch, sút kém. Những đầu bài văn sách đều
từ trong súy phủ chúa đưa ra “các quan soạn đề thi thì chỉ ra những câu hóc
hiểm để làm cho khó. Bài văn chế sách đình đối thì sai quan đồng tiến sĩ phụng
soạn. Quan soạn đề nguyên đã đỗ cuối hàng tam giáp thì không muốn cho ai hơn
mình nên ra đầu đề thường rất hiểm hóc. Bởi vậy, hàng tam khôi là Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa thường không lấy được đủ, có khi thường chỉ lấy
đỗ được nhị giáp hoặc tam giáp mà thôi ”
(1)


.
Tháng Chạp năm Cảnh Hưng thứ 38, Đinh Dậu (1777), ông được cử làm Phó
sứ sang nhà Thanh. Tháng sáu năm Mậu Tuất (1778), thuyền qua hồ Động Đình,
Chánh sứ Vũ Trần Thiệu mời hai quan Phó sứ là Hồ Sĩ Đống và Nguyễn Trọng
Đương tới dặn mọi công việc và đốt tờ mật biểu xin “tiếm phong” phó quốc
vương của Trịnh Sâm trước mặt hai vị sứ thần rồi tuẫn tiết. Tiếc thương vị quan
trung nghĩa, Hồ Sĩ Đống làm thơ viếng:
Hoàng hoa lưỡng độ phú tư tuân.
Uyên đức kỳ niên cảnh ký nhân.
Cộng tiễn bang giao nhàn ngọc bạch,
Thùy tri tiên cốt lịch phong trần.
Sinh sô lệ sái đồng chu khách,
Tái bút danh qui tuẫn quốc thần.
Trù trướng thái hồ thu nguyệt sắc,
Dạ lai do chiếu ốc lương tần.
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch:
Mấy độ hoàng hoa sứ nước người,
Tuổi cao đức tốt ấy kìa ai?
Bang giao những tưởng ngọc ngà đẹp,
Tiên cốt nào hay gió bụi đầy.
Giọt lệ đồng châu đưa một lễ,
Tấm thân tuẫn quốc tiếng muôn đời.
Trăng thu mơ tưởng trên hồ nọ,
Thấp thoáng đầu nhà bóng lẩn soi.
(2)

Năm Cảnh Hưng thứ 43, Nhâm Dần (1782), ông được thăng Bồi tụng, Hữu thị
lang bộ Hộ. Một năm sau (1783), được thăng hành Tham tụng, rồi về chịu tang
cha, sau đổi sang võ ban làm quyền phủ sự tước Giác Hải hầu. Ít lâu sau lại trở
về ban văn, thăng Đô ngự sử, gia Thượng thư bộ Binh, tước Giác quận công.

Ông vào Quảng Nam kinh lý việc biên. Trở về từ Phú Xuân, ông có làm bài
thơ:
Thiên lý quan hà mộng đế kinh,
Quy châu cơ bạc Phú Xuân thành.
Nhân do kiêu dưỡng thành lăng vũ,
Thiên vị ân ưu khởi thánh minh.
Sơn bắc thủy quang song trữ nhãn,
Triều cơ biên sự lưỡng quan tinh.
Trung tiêu cảnh cảnh tân y chẩm,
Mao điếm thờ văn kê sổ thành.
Bạch Hào (Nguyễn Đổng Chi) dịch:
Dặm ngàn nhớ cảnh đế kinh
Thuyền về tạm nghỉ bên thành Phú Xuân.
Người sao kiêu ngạo vô ngần,
Thương dân trời khiến thánh nhân ra đời.
Núi sông đôi mắt sáng ngời,
Trong triều, ngoài cõi, không nguôi tấc lòng.
Canh khuya tựa gối mơ mòng,
Tiếng gà điếm cỏ một vùng gáy ran.
(3)

Đọc thơ có thể hiểu ông luôn lo nghĩ đến việc triều chính, việc biên cương khi
ông chứng kiến ở Phú Xuân lính thì kiêu, tướng thì lười mà trấn thủ Phạm Ngô
Cầu thì không có tài chống giữ. Sau khi về kinh ông đã mấy lần xin cử tướng
khác vào thay thế, nhưng rồi ông qua đời và việc đó cũng bị gác lại
(4)
.
Hồ Sĩ Đống là một viên quan tài đức được nhiều người quý trọng. Song
nguyên Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828), người cùng thời và cùng quê
Nghệ An viết về ông: “Tham đốc Ban quận công Hồ Sĩ Đống là người ôn hòa,

bình dị, thi đỗ Hoàng giáp, vâng mệnh đi sứ có công. Khi Tĩnh Vương (Trịnh
Sâm) còn sống, ông chưa được trọng dụng nhưng lòng người đều kính phục đức
vọng của ông. Đến thời Đoan Vương (Trịnh Khải) ông được thăng vọt lên chức
Hành tham tụng (Quyền Tể tướng - Hồ Sỹ Hùy chú). Đến khi ông ốm, chúa
thượng sai người thăm hỏi và ban cho chức tham đốc, lại được ban tước Ban
quận công. Ông mất, quân lính các đoan cơ thuyền đội ở Kinh không ai là không
thương xót. Ông Bùi Hành tụng (Bùi Huy Bích) có làm bài văn tế ông, trong đó
có câu (dịch): Kẻ sĩ đại phu có văn học, có đức độ, có phẩm vọng như ông ít
lắm”
(5)
.
3. Đương thời Hồ Sĩ Đống còn là một nhà thơ nổi tiếng. Tác phẩm gồm có
Hoa trình khiển hứng (Cảm hứng tiêu khiển trên hành trình đi sứ) sau còn gọi là
Dao Đình sứ tập - là tập thơ đi sứ, theo bài tựa ông viết cuối năm Kỷ Hợi (1779)
“Tập hợp được hơn trăm bài”; và Dao Đình thi tập (Tập thơ của Dao Đình).
Hiện nay trong Thư viện Khoa học xã hội (Hà Nội) có 2 bản sách của Hồ Sĩ
Đống, đó là Dao Đình sứ tập (Ký hiệu A515) và Dao Đình thi tập (Ký hiệu
A1852). Theo Trần Văn Giáp trong sách Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (T1 và T2
in chung), Nxb Khoa học xã hội, 2003, tr.960 thì Dao Đình thi tập là tập thơ
chung cho tất cả các bài thơ của Hồ Sĩ Đống, còn Dao Đình sứ tập chỉ là tập thơ
riêng làm trong dịp đi sứ năm 1777. Ông còn viết lời tựa cho tập Sứ hoa tùng
vịnh của Nguyễn Tông Khuê khi ở Yên Kinh (Bắc Kinh).
Danh sĩ Phan Huy Chú (1782-1840) khen thơ ông là “hồn hậu, phong nhã, có
khí khái” và chọn giới thiệu 2 bài: Đăng Nhạc Dương lâu (Lên lầu Nhạc
Dương); Đăng Hoàng Hạc lâu (Lên lầu Hoàng Hạc) trong phần Văn tịch chí bộ
Lịch triều hiến chương loại chí
(6)
. Còn theo danh sĩ Phạm Đình Hổ thì trong
khoảng đời Vĩnh Hựu (1735-1739), Cảnh Hưng (1740-1786) chỉ có Nguyễn
Tông Khuê (1693-1767), Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) và Hồ Sĩ Đống là ba

nhà thơ xuất sắc hơn cả. Thơ Nguyễn Tông Khuê “thì tinh vi đẹp đẽ, nhưng có
phần vụn vặt quá”, thơ của Nguyễn Huy Oánh “là bậc thanh cao, nhưng vẫn có
ý mô phỏng”, thơ Hồ Sĩ Đống “thì chủ lấy khí phách, không thèm lấy điêu khắc
vẽ vời làm khéo”
(7)
. Cũng theo Phạm Đình Hổ, nhờ có ba nhà thơ này “thi học
đời ấy đã trung hưng lên được, nhưng so với các thi gia đời Lý, đời Trần thì
cũng chưa thể sánh bằng”. Dĩ nhiên, theo quan điểm chính thống, “thi học” ở
đây không gồm ngâm khúc, hát nói, truyện thơ rất thịnh đạt thời ấy mà Phạm
Đình Hổ không thể không chứng kiến. Ông chỉ bàn đến các thể loại văn học
mang tính chức năng, lối văn thi cử, mà thi cử xuống dốc nên thơ (buổi đầu) đời
Lê trung hưng “chỉ câu nệ về khuôn phép, xu thế thấp kém, không kể làm gì”
(8)
.
Phạm Đình Hổ lý giải: “Xét đời xưa tuyển học trò ở trong nhà hương học, kén
chọn lấy đức hạnh với văn nghệ, thì văn nghệ vẫn thứ yếu”
(9)
. Với nho sĩ, “thi dĩ
ngôn chí, văn dĩ tải đạo”, nhưng nói chí và chở đạo thế nào đây khi trước mắt họ
hàng ngày diễn ra cảnh danh phận mờ mịt, vua Lê chỉ là hư vị, một nước vừa có
vua vừa có chúa là cảnh trước đó chưa có bao giờ!
4. Hồ Sĩ Đống sống cuộc đời khá ngắn ngủi nhưng đã có những đóng góp tích
cực trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn học. Đáng tiếc thơ ông chưa
được dịch nên bạn đọc rộng rãi chưa hiểu biết mấy về ông như họ đã từng hiểu
biết và vô cùng yêu mến người em gái cùng cha khác mẹ của ông là nữ sĩ Hồ
Xuân Hương. Có thể mượn lời của Phó Giáo sư Bùi Duy Tân nhận định khái
quát về cuộc đời và thơ văn ông để kết thúc bài viết này: “Hồ Sĩ Đống là người
cẩn trọng, bình tĩnh, giản dị, có tài văn chương. Sáng tác của ông thường là đề
vịnh di tích, nhân vật lịch sử, đền miếu, phong cảnh trên dọc đường đi sứ. Nhìn
chung, chúng thường có những nét tươi đẹp, uyển chuyển, do khả năng đổi mới

của cảm xúc và cách thể hiện độc đáo của nhà thơ. Cùng với thơ đi sứ của
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tông Quai (cũng tức là Nguyễn Tông
Khuê - HSH chú), Lê Quý Đôn , thơ Hồ Sĩ Đống góp phần tạo nên thể cách
trầm hùng, nhuần nhã của thơ đi sứ thời Lê trung hưng”
(10)
./.

Chú thích
(1), (2)
Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn
học Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr.93, 186.
(3), (4)
Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb Khoa học Xã hội, H.1993, tr.313 - 314.
(5)
Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, Nxb Khoa học xã hội, H.1987, tr.57.
(6)
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, 1992,
T3, tr147.
(7), (8), (9)
Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, Sđd, tr.144, 91, 92.
(10)
Bùi Duy Tân: Mục từ Hồ Sĩ Đống trong Từ điển văn học (bộ mới), NxbThế
giới, H.2004, tr.642.

×