Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thủy - Nhìn từ góc độ người trực tiếp giảng dạy docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.29 KB, 4 trang )

Truyện An Dương Vương và Mỵ
Châu - Trọng Thủy - Nhìn từ góc
độ người trực tiếp giảng dạy
Đây là một tác phẩm cực hay của Truyện cổ nước Nam. Truyện lại bao hàm tính
phức hợp, đa nghĩa. Vì thế, khi nghiên cứu “Truyện An Dương Vương và Mỵ
Châu - Trọng Thủy”, nhiều ý kiến đồng thuận nhưng cũng không ít lời bàn bạc
ngược chiều. Đó là điều bình thường trong quá trình tiếp nhận văn chương.
Đây là một tác phẩm cực hay của Truyện cổ nước Nam. Truyện lại bao
hàm tính phức hợp, đa nghĩa. Vì thế, khi nghiên cứu “Truyện An Dương
Vương và Mỵ Châu - Trọng Thủy”, nhiều ý kiến đồng thuận nhưng cũng
không ít lời bàn bạc ngược chiều. Đó là điều bình thường trong quá trình tiếp
nhận văn chương.

Xin được bàn thêm ba điểm:
1. Về tên truyện: SGK Ngữ văn 10 (2006) lấy đầu đề “Truyện An Dương
Vương và Mỵ Châu - Trọng Thủy”, cách đặt tên này có thể gây hiểu lầm. Có
người sẽ nghĩ: Đây có thể là hai truyện theo kết cấu:
- Truyện (Chủ ngữ)
An Dương Vương
(Vị ngữ 1)
Mỵ Châu - Trọng Thủy
(Vị ngữ 2)
Chúng tôi dạy bài này học sinh có hỏi: Đây là một hai hay truyện? Thực tế,
chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy là một bộ phận của “Truyện An Dương
Vương”, gắn với quá trình dựng nước, giữ nước và mất nước của vua An Dương
Vương; chỉ đặt tên “Truyện An Dương Vương” là đủ vì tên tên truyện ấy đã bao
hàm tất cả các truyện: truyện Rùa Vàng, chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy, là
những bộ phận của “Truyện An Dương Vương”.
2. Về thể loại: Chú ý đúng mức đến thể loại khi phân tích tác phẩm là việc có
tính phương pháp luận. Tuy nhiên, nếu cực đoan hóa thành chủ nghĩa thể loại có
khi lại không cắt nghĩa được những vấn đề phức tạp, những vùng giao thoa do


truyện đặt ra. Đây là một truyện cổ, hội tụ đủ những yếu tố của: Thần thoại -
Truyền thuyết - Cổ tích.
“Truyện Rùa Vàng” trong “Lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh và Kiều Phú
tập trung chủ yếu vào những yếu tố thần kỳ mà Rùa vàng là hiện thân. Tính chất
thần thoại của truyện đã lý giải vì sao An Dương Vương xây được Loa Thành, nhờ
nỏ thần mà đánh giặc, rồi Rùa vàng rẽ nước để vua cầm sừng tê bảy tấc đi về thủy
cung…
Thể loại truyền thuyết càng rõ hơn. Truyện đã phản ánh một sự thật lịch sử, ít
ra là “Cái cõi của sự thật lịch sử” (Phạm Văn Đồng): Vua cha mất cảnh giác nên
“Cơ đồ đắm biển sâu” (Tố Hữu). Đó là bài học muôn đời, mang tính chất cho mọi
dân tộc, mọi thời đại.
“Truyện An Dương Vương” cũng rất đậm màu cổ tích. Hình ảnh “Ngọc trai -
giếng nước” thực chất là một giấc mơ (Truyện Cổ tích là những giấc mơ đẹp - Ý
của Gorki). Một sự thể tất của nhân dân trước cái vô tình của Mỵ Châu, dẫu là vô
ý nhưng hậu quả khôn lường, nàng phải lìa đầu dưới lưỡi gươm oan nghiệt của
vua cha. Mỵ Châu rắc lông ngỗng dọc đường để Trọng Thủy theo dấu tìm mình,
được Rùa vàng phán xét, thực chất là phán xét của lịch sử: - “Tặc tại hậu bối”
(Tạm dịch: Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc). Trong trường hợp này, Mỵ Châu là
giặc, không phải con ngồi sau lưng cha nữa. Tuy nhiên, vì “vô ý” nên dân gian đã
kể: “Máu Mỵ Châu chảy xuống biển, trai sò ăn lấy, đều biến thành hạt châu”.
Chúng tôi đã đến Di tích Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), nơi nhộn nhịp nhất, hương
khói nhiều nhất, không khí trầm mặc nhất trong lòng du khách lại là điện thờ
tượng Mỵ Châu cụt đầu. Điều đó nói lên sự cảm thông của người đời khi “Trái tim
nhầm chỗ”. Đây là yếu tố có hậu mà truyện cổ tích rất ưa dùng. Phân tích truyện
này phải chú ý đến cả ba thể loại trên. Dĩ nhiên, liều lượng phải khác nhau. Chỉ
chú trọng vào thể loại truyền thuyết sẽ không lý giải được nhiều vấn đề do truyện
đặt ra.
3. Từ lý thuyết “Đặc trưng thể loại”, có ý kiến cho rằng: “Cảm hứng chủ đạo
của tác giả dân gian trong truyện vẫn ngợi ca, khẳng định” (Kỷ yếu Hội thảo khoa
học “Dạy văn ở trường phổ thông”, trường Đại học Vinh, trang 76), như vậy là

mới căn cứ vào kết cục của truyện: Dân gian minh oan cho Mỵ Châu, An Dương
Vương đi vào cõi bất tử… Người đọc thấy rằng: Cảm hứng ngợi ca ở truyện này là
thứ yếu, nếu không nói là mờ nhạt. Cái đáng quan tâm ở đây là thái độ phê phán
của dân gian nhằm gửi một thông điệp: Bất cứ ai, bất cứ thời đại nào, quốc gia nào,
mất cảnh giác là mất nước. Mỵ Châu “Trái tim nhầm chỗ để trên đầu / Nỏ thần vô
ý trao tay giặc / Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” (Tố Hữu), có nguyên nhân từ việc
mất cảnh giác của An Dương Vương. Đó là hệ quả của việc “nuôi ong tay áo”.
Cho dù việc ở rể làm con tin…xưa kia là chuyện phổ biến giữa các quốc gia có
chiến tranh. Bài học lịch sử này có trong ý đồ sáng tạo của tác giả dân gian, chứ
không phải vì đất nước thường xuyên có chiến tranh, nên ta lấy lịch sử để vận vào.
Ý kiến: Cần trả tác phẩm VHDG về với môi trường sinh thành ra nó chỉ đúng
một phần thôi. Bởi lẽ môi trường sinh thành tác phẩm cách ta hàng ngàn năm. Con
người của thế hệ hôm nay khó mà “phục chế” lại quá khứ. Có chăng chỉ là tưởng
tượng và giả định. Khả thi nhất là căn cứ vào văn bản, chữ nghĩa đã định hình, rồi
“trừu xuất văn bản khỏi đặc trưng loại hình” để rút ra ý nghĩa, lắng nghe thông
điệp của người xưa.
Lại nữa, tác phẩm VHDG có từ lâu rồi, mà hôm nay, mai sau còn bao điều để
chúng ta suy ngẫm, đó đâu chỉ là chuyện của đời xưa. Chuyện xưa không liên
quan gì đến hôm nay, chắc không ai đọc. Những truyện cổ xuất sắc bao giờ cũng
giúp độc giả đứng vững trên đôi chân hiện tại “Nhìn lại ngày xưa và trông tới mai
sau” (Tố Hữu).

×