Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Vấn đề vận dụng lí luận về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (Lê Đình Kỵ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.84 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ MAI

VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN
VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU
VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU
(LÊ ĐÌNH KỴ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ MAI

VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN
VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU
VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU
(LÊ ĐÌNH KỴ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Nho Thìn

THÁI NGUYÊN - 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Thị Mai


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian theo học ở trường Đại học Khoa học - Đại học
Thái Nguyên và dặc biệt trong khoảng thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mặt vật chất, tinh thần, kiến thức và những
kinh nghiệm quý báu từ gia đình, thầy cơ và bạn bè. Qua đây, tơi xin trân
trọng bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến:
GS.TS Trần Nho Thìn, người thầy đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn và
giúp đỡ tơi trong suốt q trình làm luận văn.
Q thầy cơ trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên giảng dạy
các chuyên đề cho lớp cao học Văn học Việt Nam K9D đã hết lòng truyền đạt
kiến thức và những kinh nghiệm quý báu khi chúng tôi theo học.

Đặc biệt, tôi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, động viên, tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ để tơi
có thể hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Thị Mai


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .......................................................... 9
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................... 10
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 11
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 11
7. Đóng góp của luận văn............................................................................ 11
Chương 1. VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN
THỰC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM
VÀ TRUYỆN KIỀU ................................................................... 12
1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ
nghĩa tả chân .............................................................................................. 13
1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh,

tố cáo hiện thực, giá trị nhân sinh ........................................................ 14
1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu
thuyết Pháp .............................................................................................. 17
1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp
nghiên cứu phương Tây .......................................................................... 19
1.2. Giai đoạn sau 1945 đến năm 1970 (trước khi Lê Đình Kỵ cơng bố
cuốn sách).................................................................................................... 22
1.2.1. Hồi Thanh (1949) trong “Quyền sống của con người trong
Truyện Kiều” tiếp tục vận dụng quan niệm phản ánh hiện thực nhưng
chưa có ý thức về chủ nghĩa hiện thực.................................................... 22


iv

1.2.2. Trương Tửu và Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) vẫn
chỉ vận dụng quan niệm về phản ánh các phương diện hiện thực nhất
là đấu tranh giai cấp ................................................................................ 24
1.2.3. Các giáo trình lý luận văn học biên soạn theo lý luận Liên Xô về
các phương pháp sáng tác: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được giới thiệu ở
Việt Nam.................................................................................................. 25
1.2.4. Các bài viết thể nghiệm của Lê Đình Kỵ những năm 1960 về
Truyện Kiều .............................................................................................. 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 32
Chương 2. NỘI DUNG CÔNG TRÌNH “TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ
NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU” - ........................ 33
2.1. Giới thiệu về Lê Đình Kỵ..................................................................... 33
2.2. Chủ nghĩa hiện thực và vấn đề phản ánh hiện thực ............................. 35
2.3. Nội dung cuốn sách .............................................................................. 39
2.3.1. Cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của Truyện Kiều..................................... 41

2.3.2. Vấn đề điển hình hóa trong Truyện Kiều ...................................... 52
2.4. Giá trị nổi bật của cơng trình ............................................................... 61
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 66
Chương 3. CÁC Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ
CƠNG TRÌNH TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN
THỰC CỦA NGUYỄN DU CỦA LÊ ĐÌNH KỴ ..................... 67
3.1. Đánh giá vấn đề có hay khơng chủ nghĩa hiện thực trong văn trung
đại Việt Nam ............................................................................................... 67
3.2. Đánh giá về cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ ........................................................................ 79
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện Kiều là kiệt tác văn chương của dân tộc, có sức sống lâu bền,
sức lan tỏa rộng rãi. Do cấu trúc văn bản chứa đựng nhiều giá trị to lớn, nên
từ lâu Truyện Kiều đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành: sử
học, văn hóa học, xã hội học, khoa học văn chương… Tính riêng, trong
nghiên cứu văn học, Truyện Kiều đã có một đời sống rất sinh động. Có thể
nói, lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều là lịch sử của những cách đọc, các diễn giải
văn bản. Lịch sử ấy vô cùng phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp do phải
đi qua nhiều bộ lọc ý thức hệ và hệ hình tri thức. Khơng phải ngẫu nhiên, có
nhà nghiên cứu, ví Truyện Kiều là phịng thí nghiệm của các lý thuyết; những
lý thuyết mới một khi được du nhập vào Việt Nam nếu muốn chứng tỏ được
“quyền lực” của nó trong thực tiễn thì trước hết nó phải được thử nghiệm ở

việc đọc Kiều. Thành công của lý thuyết mới, bởi thế, là ở chỗ, nó phải đọc ra
được ý nghĩa khả thể trong văn bản Truyện Kiều, mà các cách tiếp cận trước
đó chưa chú ý đến hay chưa biết đến. Đến nay, Truyện Kiều vẫn không ngừng
được đọc lại, được tái diễn giải từ những khung tri thức - lý thuyết mới.
Bên cạnh hoạt động đọc lại, diễn giải lại Truyện Kiều từ điểm nhìn mới,
nhu cầu vẽ lại bức tranh tiếp nhận Truyện Kiều trải dài mấy trăm năm với
nhiều khúc quành lịch sử, vẫn ln được đặt ra. Có rất nhiều khoảng trống
trong lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều chưa được lấp đầy, hay làm sáng tỏ,
chẳng hạn như việc tiếp nhận Truyện Kiều ở đô thị miền Nam trước 1975 gần
đây đã được quan tâm dựng lại song hãy còn dừng ở những nét sơ lược….
Trong tình hình ấy, việc đúc rút từ các nghiên cứu Truyện Kiều trong quá khứ
thành những khung mẫu đọc, chỉ ra những cách đọc riêng, điển hình cho mỗi
giai đoạn/thời đại, những giới hạn của mỗi cách đọc… là thực sự cần thiết.
Bất kỳ một nghiên cứu nghiêm túc, đích thực nào, cũng bắt đầu từ việc chỉ ra


2

một cách thực chứng không chỉ những thành công, mà quan trọng hơn, cần
phải chỉ ra những giới hạn của các nghiên cứu trước đó. Luận văn này lựa
chọn một thời điểm tiếp nhận, một trường hợp diễn giải Truyện Kiều, như một
sự chuẩn bị/khởi đầu cho các thể nghiệm đọc có thể có về sau của cá nhân
người viết.
Luận văn khơng có tham vọng đem lại những khám phá mới Truyện
Kiều từ một khung lý thuyết thời thượng nào đó, nghĩa là khơng vận dụng lý
luận mới để đọc lại Kiều. Tác giả luận văn chỉ mong muốn góp một tiếng nói
vào việc tổng kết một cách đọc tiêu biểu về Truyện Kiều thập niên 60 - 70 ở
miền Bắc Việt Nam: Trường hợp Lê Đình Kỵ với cơng trình Truyện Kiều và
chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970). Sở dĩ chọn Lê Đình Kỵ bởi vì
ơng là một trong những gương mặt tiêu biểu của lối nghiên cứu văn học theo

xã hội học mác xít, mà Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là
công trình thành cơng nhất của Lê Đình Kỵ trong việc vận dụng lý luận chủ
nghĩa hiện thực để đọc Truyện Kiều. “Nghiên cứu Truyện Kiều trong mối
tương quan với chủ nghĩa hiện thực tức cũng là nghiên cứu phương pháp sáng
tác của tác phẩm cổ điển lớn nhất của nền văn học dân tộc” (Lê Đình Kỵ).
Với Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã thực
sự tạo được một dấu mốc đối với ngành Kiều học Việt Nam.
Với tư cách là giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nghiên cứu
“Vấn đề vận dụng lí luận về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”(Lê Đình Kỵ) sẽ giúp người viết luận văn
này có cơ hội trải nghiệm cách đọc của các nhà nghiên cứu đi trước, từ đó
hiểu sâu sắc thêm những chân giá trị của tác phẩm Truyện Kiều đã được thời
gian khẳng định, để ứng dụng vào hoạt động dạy học, đọc hiểu các trích đoạn
Truyện Kiều ở bậc học mà tác giả luận văn đang gắn bó.


3

2. Lịch sử vấn đề
Cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du được
khởi thảo từ năm 1965, công bố đầu thập niên 70, đây là giai đoạn phản ánh
luận Lênin/mỹ học Mác - Lê nin đã được giới thiệu ở Việt Nam tương đối rộng
rãi. Ngoài các ý kiến bàn về văn học nghệ thuật Mác, Ăng ghen, Lê nin, cịn có
ý kiến của Mao Trạch Đông, Gorki…. Bộ Nguyên lý mĩ học Mác - Lê nin (2
tập, Hoàng Xuân Nhị dịch) của Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô cũng đã được
xuất bản đầu những năm 60. Đặc biệt, năm 1962 bộ Nguyên lí lí luận văn học
(2 tập) của L.I.Timofeev do Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,
Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ Thành dịch, cũng đã chính thức hiện diện
trong đời sống học thuật miền Bắc…. Tính đến năm 1970, về mặt lý luận,
nhiều vấn đề của phản ánh luận Lenin, của phương pháp sáng tác hiện thực xã

hội chủ nghĩa đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp nhận, chuyển
ngữ và bước đầu quan tâm vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn lịch sử văn học
dân tộc, trong đó có đóng góp của dịch giả, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ.
Ngay sau khi Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất
hiện, vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện
Kiều của Lê Đình Kỵ đã được một số nhà nghiên cứu lưu ý tuy nhiên tính đến
trước những năm 2000 phần lớn các đánh giá về cơng trình của Lê Đình Kỵ
cịn sơ lược và một số nhận định chưa thỏa đảng.
Trong một bài đọc sách năm 1971, Cao Huy Đỉnh ghi nhận Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du “có những phát hiện mới về
Truyện Kiều có khả năng thuyết phục bạn đọc thực sự” [8], Lê Đình Kỵ vận
dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn lịch sử thẩm mỹ Việt Nam
nhuần nhị, cơng trình này “là một cống hiến đáng kể vào lịch sử nghiên cứu
Nguyễn Du, Truyện Kiều và văn học cổ điển Việt Nam” [8, tr.138]. Bên cạnh
đó, Cao Huy Đỉnh cũng cho rằng, Lê Đình Kỵ cịn lúng túng trong việc xác
định phương pháp sáng tác cơ bản của Nguyễn Du và Truyện Kiều: “tác giả


4

xuất phát từ những tiêu chuẩn của phương pháp hiện thực chủ nghĩa ở trong
văn học phương Tây, ở trong văn học Nga thế kỉ XIX để tìm hiểu Truyện
Kiều…”, chưa “chỉ ra được cuộc sống Việt Nam thực sự đã thấm vào Truyện
Kiều ở chỗ nào với cái dạng vốn có của nó,” Cao Huy Đỉnh nhấn mạnh
“chừng nào mà không chỉ ra được những nguyên mẫu của Truyện Kiều ở
trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII hay ở trong chính thời đại và mơi trường
sống của Nguyễn Du, thì chừng ấy khó lịng mà nói đến một chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du” ([8, tr.138]. Rõ ràng, chủ nghĩa hiện thực trong văn học
là một vấn đề được quan tâm cả ở bình diện lý luận và thực tiễn. Có lẽ ở thời
điểm cơng bố cơng trình của Lê Đình Kỵ, cách hiểu về chủ nghĩa hiện thực,

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa đạt được một nhận thức chung,
chưa có tiếng nói đồng thuận trong giới, nhưng đã có những chỉ dấu cho thấy
nó đã được quan tâm luận giải từ nhiều phía. Chủ nghĩa hiện thực không chỉ
là câu chuyện của những nhà lý luận văn học, những nhà nghiên cứu văn học
sử thời cận hiện đại, mà còn là vấn đề của những nghiên cứu về văn học dân
gian, văn học cổ điển. Nói cách khác, đó là một vấn đề trung tâm của các
nghiên cứu văn học. Đúng như một nhà nghiên cứu thập niên 70 khẳng định:
“vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử văn học là
xem xét trước thời kỳ chủ nghĩa hiện thực phê phán những năm 30, trong văn
học Việt Nam đã có chủ nghĩa hiện thực hay chưa, nếu có thì nó xuất hiện từ bao
giờ và chủ nghĩa hiện thực đó hình thành trong những điều kiện lịch sử nào, đặc
tính và nội dung của nó ra sao…” [4, tr.101]. “Ít có phạm trù lý thuyết nào lại
được bàn cãi nhiều như phạm trù chủ nghĩa hiện thực” [1].
Sau Cao Huy Đỉnh, Đỗ Đức Dục trong bài “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất
hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam” thừa nhận có một “chủ
nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, song ông cũng nhận định rằng, cơng
trình của Lê Đình Kỵ chưa nêu được “quá trình hình thành của chủ nghĩa hiện
thực trong văn học Việt Nam” [4, tr.101].


5

“Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử văn học Việt
Nam” [2], Nguyễn Đình Chú nhìn thấy sự phát triển về tư tưởng học thuật của
Lê Đình Kỵ từ bài viết đầu tiên tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều
năm 1963 đến năm 1970: Lê Đình Kỵ vượt qua giai đoạn bước đầu tìm hiểu,
ra mắt bạn đọc cơng trình quy mơ hơn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du. Cũng như Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử trong “Thời gian
nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du” khẳng
định: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một cơng trình

sâu sắc và cơng phu [54].
Sau khi khảo sát bước đầu lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều, Trần Nho
Thìn trong một bài viết khẳng định xu hướng tất yếu của việc cần thiết phải
“nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại từ góc độ văn hóa” [60] như một
sự bổ sung cho các phương pháp nghiên cứu trước kia, một mặt khách quan
ghi nhận việc vận dụng khái niệm “chủ nghĩa hiện thực” (phương pháp sáng
tác) trong thập kỉ 60, 70 để phân tích Truyện Kiều là “một nỗ lực mới nhằm
khoa học hóa cơng việc nghiên cứu” nhưng mặt khác, tác giả tiểu luận cũng
thẳng thắn chỉ ra rằng,”việc đưa những tiêu chí của chủ nghĩa hiên thực - một
trào lưu văn học phương Tây ở giữa thế kỉ XIX vốn có những đặc trưng loại
hình rất khác so với văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX để mô tả Truyện Kiều là một việc khá mạo hiểm và thực tế đã bộc lộ
những bất cập”. “Hướng đi này mặc nhận rằng Nguyễn Du, một tác gia văn
học trung đại, cũng hướng về “chủ nghĩa hiện thực” như một tác gia hiện thực
chủ nghĩa bất kì. Từ đây những điểm có sự trùng khít thì kết luận về sự hiện
diện của chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Du, cịn những nơi
nào khơng có sự trùng khít thì giải thích là có sự ràng buộc níu kéo của mĩ
học truyền thống. Cách tiếp cận này thực chất đã biến Truyện Kiều từ một
chỉnh thể nghệ thuật thành một thực thể đầy mâu thuẫn, thiếu thống nhất, nơi
chứa đựng những phương pháp sáng tác khác nhau). Nói chung, bài viết của


6

Trần Nho Thìn, chưa đi sâu đánh giá chi tiết cơng trình của Lê Đình Kỵ mà
chỉ tập trung xem xét tổng quan về lịch sử của sự ứng dụng các hệ thống lý
luận khác nhau vào nghiên cứu Truyện Kiều, trong đó việc vận dụng việc lý
luận chủ nghĩa hiện thực chỉ là một đường hướng. Điểm mấu chốt trong bài
viết này của Trần Nho Thìn là chỉ những những bất cập có thể có và cần
rút kinh nghiệm đối với các cách tiếp cận trước kia; theo tác giả, nghiên

cứu Truyện Kiều cần tính tới đặc trưng văn hóa thời đại Nguyễn Du, cần
thận trọng để tránh những cách giải thích có tính suy diễn, gán ghép, hiện
đại hóa tác phẩm: “lỗi khơng phải do phương pháp nghiên cứu được sử
dụng mà là do người nghiên cứu, do ý thức về tính lịch sử cụ thể của đối
tượng chưa đầy đủ” [60, tr.49].
Cũng như Trần Nho Thìn, Phạm Quang Long khi bàn “Về sự hình
thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam”, đã nhận xét: “Có thể
nói cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một cái
mốc quan trọng của giới nghiên cứu về Nguyễn Du nói chung, Truyện Kiều nói
riêng. Với cơng trình này nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho giới nghiên cứu
văn học Việt Nam trung cận đại trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu từ góc
nhìn tư duy văn học của thời đại, từ cá tính sáng tạo của nhà văn và hệ thống thi
pháp thể loại. Từ việc giải mã cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của tác giả Truyện Kiều
nhà nghiên cứu đã lý giải các thao tác điển hình hố nhân vật của Nguyễn Du
dưới ánh sáng của lý thuyết thể loại và phương pháp nghệ thuật. Có thể nói cho
đến nay chưa có ai viết về điển hình hố của Truyện Kiều thú vị như Lê Đình
Kỵ, sau hơn 30 năm cơng trình của ơng xuất hiện.... Những phần viết về điển
hình hố, ngơn ngữ nhân vật của Lê Đình Kỵ rất tinh tế, hấp dẫn nhưng đáng tiếc
là do đã xác định theo hướng chứng minh có một chủ nghĩa hiện thực trong
Truyện Kiều, dù đó là thứ chủ nghĩa hiện thực có điều kiện thì một khi hướng
nghiên cứu đã chưa chính xác thì những chi tiết, những thao tác dù có sâu sắc
đến đâu nó bị hạn chế tác dụng. Đó là điều đáng tiếc” [40].


7

Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục cho in và phát hành Tuyển tập Lê Đình
Kỵ. Trong “Lời giới thiệu” cho cuốn sách này, Huỳnh Như Phương cung cấp
thêm chi tiết: nhan đề Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du do
nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau (“của Nguyễn Du”), dù vậy thì dụng ý nhấn

mạnh mối quan hệ của kiệt tác này với những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực
vẫn không thể ghi ngờ. Huỳnh Như Phương xem Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực là đỉnh cao của sự nghiệp học thuật của Lê Đình Kỵ, “ở đây khơng
chỉ tư duy khái qt và khả năng kiến giải của một nhà lý luận mà cịn cả sự
cảm thụ tinh tế, năng lực phân tích sắc sảo của một ngịi bút phê bình... Thời
Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở nước ta không phải khơng có xu hướng vận
dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương Tây vào việc nghiên cứu
những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã khơng tránh khỏi ít nhiều
khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa hiện thực là
cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều: trong một bản in ở
Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988, ông đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách
này là Truyện Kiều, đỉnh cao văn học. Thành ra, khơng thể phủ nhận là có
một độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực và thế giới
nghệ thuật của Nguyễn Du. Âu đó cũng là nỗi ám ảnh của một thời” [48].
Nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét một cách thỏa đáng, Lê Đình Kỵ
đã "vượt lên cái khung ơng tự đặt cho mình" [55, tr. 344].
Năm 2013 Trịnh Bá Đĩnh trong Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt
Nam đã có một số đánh giá sâu sắc và khách quan về Lê Đình Kỵ cũng như
đóng góp của Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Theo tác
giả này, Lê Đình Kỵ là một hiện tượng nổi bật trong đời sống lí luận phê bình
văn học thập kỉ 60, các cơng trình của ơng về chủ nghĩa hiện thực đều gây
được chú ý, gây nên những cuộc bàn cãi sôi nổi: Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du là “đỉnh cao nhất” [9, tr.169] trong sự nghiệp học
thuật của Lê Đình Kỵ, “là tác phẩm sáng giá nhất”, tiêu biểu cho cách mà Lê


8

Đình Kỵ vận dụng chủ nghĩa hiện thực để phê bình văn học [9, tr.171]. Để
làm rõ hơn quan điểm của mình, Trịnh Bá Đĩnh nhấn mạnh: Lê Đình Kỵ xuất

phát từ những ngun lý có sẵn của lí luận về chủ nghĩa hiện thực để viết
cơng trình của mình, tuy nhiên phải thấy rằng Lê Đình Kỵ khơng chọn con
đường minh họa giản đơn các nguyên lý về chủ nghĩa của nước ngoài. Mặc dù
chỉ dành năm trang viết về Lê Đình Kỵ và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du trong cơng trình bàn thảo về tiến trình lịch sử lý luận phê
bình Việt Nam từ khởi nguồn đến hiện đại, song những đánh giá của Trịnh Bá
Đĩnh và đặc biệt là những nỗ lực giới thiệu tuyển tập của Huỳnh Như Phương
trước đó có thể xem là một bước chuyển rõ rệt nhằm đánh giá lại, cơng bằng
hơn về Lê Đình Kỵ và những đóng góp của ơng đối với nền lý luận phê bình
văn học Việt Nam.
Cơng bằng, thì trước Huỳnh Như Phương (2006), và Trịnh Bá Đĩnh
(2013), đã có một số tác giả, đã có những động thái đánh dấu một hướng đọc
lại Lê Đình Kỵ. Có thể kể đến bài viết Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du của Nguyễn Lộc (in trong Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực, nxb. Hội Nhà văn, 1992); Một đời lao động tận tụy và sáng tạo (in
trong Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 1998) của
Nguyễn Văn Hạnh, Thi pháp Truyện Kiều (Nxb. Giáo dục, 2005) của Trần
Đình Sử … Các bài viết, chuyên luận này đều tập trung khẳng định sự đóng
góp xuất sắc của Lê Đình Kỵ cho ngành Kiều học, những thành cơng nổi trội
của Lê Đình Kỵ khi vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực, chia sẻ với sự dè
đặt của ơng trước những vấn đề hóc búa trong nghiên cứu Truyện Kiều….
Nhìn lại q trình tiếp nhận cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau.
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam là một trong
những vấn đề trung tâm của các nghiên cứu, thảo luận thập niên 60, 70, 80.
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là cơng trình vận dụng lý


9


luận hiện thực chủ nghĩa để nghiên cứu một trường hợp đỉnh cao của văn học
cổ điển. Hầu hết các ý kiến về cơng trình này đều ghi nhận cách đặt vấn đề
mới mẻ của Lê Đình Kỵ.
Phần lớn các ý kiến về Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du nếu không phải là bài điểm sách, đọc sách thì cũng chỉ là một nội
dung nhỏ trong một tiểu luận/bài viết đặt những vấn đề bao trùm, khái quát,
phức tạp hơn. Chưa có một cuốn sách riêng nào lấy Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du làm đối tượng nghiên cứu độc lập. Trước năm
2000, nhiều ý kiến đánh giá về Lê Đình Kỵ cịn thiếu khách quan, có chỗ vẫn
giữ định kiến đối với ơng, những hiểu lầm về ông, kể từ cuộc thảo luận ồn ào
mà chiều hướng chính là phê phán cuốn giáo trình Các phương pháp nghệ
thuật trước đó của Lê Đình Kỵ (1962). Sau năm 2000, việc đánh giá Lê Đình
Kỵ nói chung và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du diễn ra
theo chiều hướng khách quan, khoa học hơn.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu cơ bản của đề tài là vấn đề vận dụng lí luận chủ
nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là đánh giá những thành công và chưa
thành cơng; ý nghĩa và đóng góp của cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du trong lịch sử trưởng thành, phát triển của ngành
Kiều học. Nói rộng là chỉ ra khung tri thức mà tác giả Lê Đình Kỵ đã sử dụng,
có những thế mạnh, ưu điểm và cả giới hạn gì trong việc đọc, diễn giải Truyện
Kiều, kiệt tác văn chương của dân tộc.


10


4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ cụ thể mà luận văn
cần thực hiện trước hết là cung cấp cái nhìn tổng quan về cách tiếp cận vấn đề
chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều trước thập niên 70 và trong chừng mực
nhất định là việc nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung từ hệ thống lý luận
ấy. Quan trọng hơn nữa là phải trình bày được đầy đủ nội dung chính yếu của
cơng trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình
Kỵ để làm cơ sở cho việc đúc kết những bài học về việc vận dụng lý luận chủ
nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của tác giả; đồng thời với
nhiệm vụ này là xem xét một cách khách quan các ý kiến đánh giá của giới
nghiên cứu về cơng trình này, phân tích lý giải những thành công, giới hạn,
những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các ý kiến đánh giá đó.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận
văn khi triển khai sẽ phải sử dụng tổng hợp, phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu. Cụ thể:
- Phương pháp xã hội học được sử dụng để xác định, đánh giá, lý giải
các cách tiếp cận Truyện Kiều; việc tiếp nhận cơng trình Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ trong đời sống học thuật
trong và sau thập niên 70.
- Phương pháp tiểu sử học được sử dụng để mơ tả, giới thiệu về tác giả
Lê Đình Kỵ, nhằm tạo ra một cơ sở để hiểu đúng hơn những đóng góp và hạn
chế của tác giả Lê Đình Kỵ trong cơng trình mà luận văn lấy làm đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp văn hóa học được sử dụng phối hợp với phương pháp xã
hội học để nhìn nhận các diễn giải Truyện Kiều như những hoạt động văn hóa
gắn liền với những mẫu người văn hóa; như những sinh hoạt văn hóa xã hội
chịu sự chi phối của ý thức hệ.



11

Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp so sánh để khảo sát mối liên
hệ giữa nội dung bàn luận trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du với một số quan điểm liên quan của tác giả khác trong văn học sử dân tộc.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là công trình của Lê Đình Kỵ Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất bản năm 1970 (Nhà
xuất bản khoa học xã hội).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận gồm 3 chương
Chương 1. Vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong nghiên
cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều
Chương 2. Nội dung công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du - vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực.
Chương 3. Các ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu về cơng trình
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn có hai đóng góp nhỏ.
Một là, đúc kết bài học hữu ích về việc vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện
thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của Lê Đình Kỵ với cơng trình Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du.
Hai là, khẳng định cơng trình này của Lê Đình Kỵ là một điển hình của
phương pháp đọc lại văn học cổ điển từ lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa, thứ lý luận vốn thịnh hành và có quyền lực diễn giải các hiện
tượng văn học bất kể là hiện tại hay quá khứ lúc bấy giờ ở miền Bắc.


12


Chương 1
VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ TRUYỆN KIỀU
Trước khi bàn về vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong
nghiên cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều hồi đầu thế kỉ XX, thiết tưởng
cũng nên trình bày rõ về nội hàm của các thuật ngữ mà luận văn hướng đến
thảo luận: Chủ nghĩa hiện thực và các khái niệm liên quan - Chủ nghĩa hiện
thực phê phán, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa….
“Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một
phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội
dung chặt chẽ” [10, tr.54] với các nguyên tắc mỹ học như sau: mô tả cuộc
sống bằng hình tượng và điển hình hóa; thừa nhận và tái hiện chân thực sự tác
động qua lại giữ con người và mơi trường sống, tính cách và hoàn cảnh; coi
trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mơ tả con
người và cuộc sống, chú ý khách quan hóa những điều được mơ tả… “Ngồi
chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực cịn địi hỏi một sự tái hiện chân thực
những tính cách điển hình trong những hồn cảnh điển hình” [45], Mác nhấn
mạnh: “chỉ có thế giới được hiểu biết y như nó tồn tại mới là hiện thực”.
Thuật ngữ, chủ nghĩa hiện thực phê phán, như tên gọi của nó, “nhấn mạnh
khuynh hướng phê phán, tố cáo”, “tinh thần phê phán toàn bộ hệ thống các
quan hệ xã hội, các hiện thực mâu thuẫn giữa chế độ tư sản với các chuẩn
mực nhân tính đúng như nó có trong thực tế”. Còn khái niệm chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa được dùng để chỉ phương pháp pháp sáng tác có các
đặc điểm như: lấy “thế giới quan Mác-Lênin làm cơ sở triết học, ngun lý
tính đảng vơ sản làm nguyên tắc chỉ đạo”, chủ trương “miêu tả hiện thực một
cách chân thực lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển biện chứng của nó”,
coi việc đấu tranh nhằm khẳng định bằng nghệ thuật những cái mới, cái tích



13

cực trong cuộc sống là nhiệm vụ chủ yếu của sự phản ánh thực tại [10, tr.54].
Ở Việt Nam, càng về sau, lý luận về chủ nghĩa hiện thực được hiểu là chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Trong khuôn khổ luận văn, dưới đây chúng tôi điểm lại đôi nét về việc
vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu văn học sử Việt Nam
giai đoạn trước 1970.
1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ
nghĩa tả chân
Từ trước năm 1945, lý luận chủ nghĩa hiện thực đã được vận dụng vào
việc phân tích, đánh giá văn học Việt Nam, từ văn học dân gian, cổ-trung đại
đến văn học hiện đại.
Đầu thế kỉ XX, trong đời sống báo chí, sáng tác, phê bình văn học Việt
Nam xuất hiện khái niệm “tả thực”, “tả chân” với ý nghĩa khu biệt với thứ văn
chương ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại. Các tác giả đầu tiên đề cập
đến khái niệm này và vận dụng nó trong phê bình, đánh giá là Thiếu Sơn,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học…
Giới thiệu “Một lối văn mới: Sống chết mặc bay” [50], Phạm Quỳnh đã
có nhận xét: Trong học giới, báo giới ta, chắc ai cũng đã biết tên ông Phạm
Duy Tốn. Ông là một người rất nhiệt thành với văn chương quốc ngữ, và đã
biệt lập ra một lối văn riêng lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như
một tấm ảnh phản chiếu cái chân tương như hệt. Ông tin rằng phàm văn
chương đã tả được hết cái thực, là tự khắc có cái sức cảm động vô cùng,
không cần phải nghị luận xa xôi. Văn chương ta xưa nay thường lấy sự mập
mờ phảng phất làm hay, càng phiếu diễu bao nhiêu càng huyền diệu bấy nhiêu
nên ít dụng lối tả thực, coi là tầm thường. Nay xét văn học họa học của Thái
Tây, phần nhiều lại trọng lối tả thực hơn là lối phá bút. Quốc văn ta sau này
tất chịu ảnh hưởng của văn Tây nhiều, lối tả thực rồi tất mỗi ngày một thịnh
hành. Như bài văn ông Phạm Duy Tốn sau này cũng gọi là một bài tả thực



14

tuyệt khéo… Văn tả thực mà được như vậy cũng đã khéo thay. Bản báo đăng
bài này mà có lời khen ơng Phạm Duy Tốn đã có cơng với quốc văn”. Ở một
bài viết khác, “Lối tả chân trong văn chương”, Phạm Quỳnh cũng có những
nhận xét tương tự, ơng nói: “Văn chương đời nay thường trọng lối tả thực hơn
lối phá bút…” [51] Xuất phát từ quan niệm trọng lối tả thực như vậy, nên điều
lệ của một cuộc thi sáng tác tiểu thuyết trên Nam phong tạp chí năm 1918 đã
yêu cầu: “tiểu thuyết phải làm theo lối châu Âu…. Phải dùng phép tả thực,
không được bịa đặt những chi tiết hoang đường, kỳ quái. Trọng nhất là tả
được cái tâm lý người ta cùng cái tình trạng trong xã hội” [52].
Thiếu Sơn trong Phê bình cảo luận (1933), nhận thấy do ảnh hưởng
của khoa học nên tiểu thuyết coi trọng việc tả thực: “gần đây khắp văn
chương thế giới đâu đâu cũng có cái phong trào tả thực. Mà cái phong trào
này là nguyên lai tự cái tri thức nhân loại nó đã tiến hóa theo khoa học tới một
cái trình độ khác cao. Nhưng tả thực là thế nào? Tả thực là đem những sự mắt
thấy tai nghe cho vào văn chương sách vở. Nhà cổ điển chỉ tả những hiện
tượng đại đồng của tâm giới. Nhà lãng mạn chỉ tả những mối tình cảm mơ
màng của thi nhân. Cịn nhà văn học tả thực thì chẳng chịu bỏ sót một cái gì
là khơng nói đến. Tâm giới cũng tả mà ngoại giới cũng tả…..Trong phái tả
thực đã có người chịu khó trà trộn vào những hạng người lao động thợ
thuyền, lẩn quẩn ở những nơi đầu đường xó chợ, cốt để tìm tịi học hỏi
cho biết cái sinh hoạt của khắp các hạng người trong xã hội… Như ý tơi,
thì tả thực là nên, nhưng phải tả hết cả sự thực, chớ nên nói cái này mà bỏ
cái kia” [56, tr.59-60].
1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh, tố
cáo hiện thực, giá trị nhân sinh
Nói về lý luận chủ nghĩa tả chân, không thể không nhắc đến Hải

Triều, người có cơng đầu trong việc xây dựng nền lý luận phê bình văn
học mác xít ở ta.


15

Trong bài “Sự tiến hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân sinh” Hải
Triều đã dùng duy vật biện chứng pháp phê bình cái quan hệ của sự tiến hóa
về văn học và sự tiến hóa về nhân sinh” [67]. Hải Triều quan niệm văn học
quan hệ chặt chẽ với xã hội, văn học là một bộ phận của thượng tầng kiết
thiết, “văn học là cái biểu hiện của nhân sinh, khơng biểu hiện được nhân sinh
thì khơng ra văn học”, “nếu nền kinh tế của xã hội biến đổi thì nền văn học
cũng biến đổi theo”. Đứng trên lập trường này, Hải Triều đề cao văn học gắn
với nhân sinh, phê phán thứ: văn học tự nhiên chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa,
tượng trưng chủ nghĩa, duy mỹ chủ nghĩa, nghệ thuật thuần túy.
Đối với Hải Triều, văn học có chức năng phơ diễn tư tưởng, mà tư
tưởng là cái phản ảnh của vật chất [68]; hoàn cảnh vật chất chi phối sự sáng
tạo văn chương; văn chương là sản phẩm của xã hội, thời đại, “phát ngun
của nghệ thuật là trong sự sống” [70], “khơng có nhà văn nào có thể thốt li ra
khỏi sinh hoạt xã hội mà sáng tác văn chương được” [75]. Thời đại biến đổi
thì văn học biến đối theo, muốn cắt nghĩa văn học phải căn cứ vào xã hội,
nhân sinh: “diễn tả cho đúng cái tư tưởng, cái ý chí tình cảm của mỗi giai cấp,
mỗi thời đại trong lịch sử là một cái sứ mệnh tối cao của nhà văn học chân
chính, dẫu ở đời nào cũng thế, ở xứ nào cũng thế” [69].
Hải Triều chủ trương lấy nghệ thuật phụng sự cho nhân sinh: “nghệ
thuật chân chính - theo Hải Triều - là cái nghệ thuật vị nhân sinh” [70]. Ông
tán thành quan điểm của L.Tolstoi cho rằng văn nghệ sĩ phải “chỉ cho loài
người thấy con đường giải thốt khỏi những khốn khổ ngày nay và tìm những
cái mới mẻ hơn”. Nghệ sĩ đích thực là người lấy nhân sinh, dân sinh làm cứu
cánh cho nghệ thuật, là người thuộc về quần chúng nhân dân, “giữa cuộc phân

tranh của xã hội, trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân loại đang
mong mỏi”, nghệ sĩ phải biết diễn dịch nỗi lòng của họ, “làm sao mà những
sự đau thương, mong mỏi, sự buồn giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều
vẽ lên thành những bức tranh linh hoạt chan chứa tình cảm” [71], diễn tả bằng
những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo”, “bình dị mà thiết thực” [72].


16

Theo Hải Triều, tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan là tác
phẩm đã “mở ra một kỉ nguyên mới cho các tư triều văn nghệ tả thiệt về xã
hội ở nước ta”. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có hai đặc điểm: về hình
thức,khuynh hướng về tả thực; về nội dung, khuynh hướng về xã hội. “Hình
thức và nội dung đi đơi với nhau thì tác phẩm mới có giá trị. Xem văn Kép Tư
Bền, chúng ta nhận thấy rõ tác giả đã đứng về mặt tả thực chủ nghĩa
(réalisme). Với những câu văn rất thành thực, chắc chắn, hí hởn, ngộ nghĩnh,
nhiều khi cục cằn thơ bỉ nữa, chúng ta phải phục Nguyễn Quân là một nhà kể
chuyện rất thiệt và rất có duyên. Về phương diện tả thực, có thể nói tác giả đã
đạt đến mục đích một phần lớn rồi vậy”. Nghệ thuật tả thực chủ nghĩa, như
Hải Triều yêu cầu, là thứ nghệ thuật vị xã hội đích sinh hoạt”. [73]
Cần phân biệt ở Hải Triều hai loại tả thực chủ nghĩa. Một loại tả thực
chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan và một loại như M.Gorki [74]. Hải Triều
gọi khuynh hướng tả thực của Gorki là chủ nghĩa tả thực xã hội, “cốt ở sự tả
một cách chân thực, rành mạch những thực trạng quá khứ hay hiện tại, làm
thế nào cho sự tả thực ấy có thể đưa quần chúng đến chỗ giác ngộ tranh đấu
để kiến thiết xã hội chủ nghĩa” [73]. Tả thực xã hội hay tả thực xã hội chủ
nghĩa (như sáng tác của Gorki, Lan Khai) trong các diễn giải của Hải Triều
chính là một thuật ngữ chỉ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa: “văn
chương của giai cấp vô sản là văn chương tả thực xã hội” [75]. Hải Triều
khẳng định: “chủ nghĩa tả thực xã hội ln ln thừa nhận mỗi tác phẩm đều

có một khuynh hướng, nhưng chủ nghĩa tả thực xã hội hết sức kiêng kị những
xu hướng chủ quan, độc đoán, cơ giới, những tư tưởng cố định, những tín
điều bất dịch mà tác giả đã vụng về ấn ghép vào câu chuyện… Một nhà văn
khuynh hướng về chủ nghĩa tả thực xã hội chỉ nên phụng sự sự thật, chớ nên
buộc sự thật phải phụng sự mình” [76].
Qua các bài bút chiến, phê bình của Hải Triều, chúng ta có thể rút ra
đặc điểm của mỹ học tả thực chủ nghĩa ở Hải Triều gồm đặc điểm sau: tác
phẩm phải có khuynh hướng tả thực và nội dung xã hội; lấy cuộc đời thực tế,
những điều mắt thấy tai nghe làm chất liệu; quan sát tỉ mỉ những người,


17

những việc ở xung quanh, chú ý miêu tả chi tiết, phơi bày chân thực cảnh đời,
tình đời; phê phán cái hèn mạt, cái xấu xa, thành kiến hủ bại, cái xã hội cũ kỹ;
quan tâm tả cái đau thương sầu khổ của hạng người nghèo khổ, bênh vực giai
cấp cần lao, nhen nhóm lên “một chút tình đối với nhân loại” và giác ngộ
quần chúng đấu tranh đánh đổ “thế giới cũ” (chống lại xã hội thực dân phong
kiến, tố cáo cái ác, cái xấu của xã hội đó, nhằm lật đổ nó), xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Có thể nói, Hải Triều khơng chỉ là nhà phê bình có lý luận về chủ nghĩa
hiện thực/tả thực xã hội chủ nghĩa, ông tiếp thu tả thực chủ nghĩa của phương
Tây, Liên xơ, đồng thời cịn là người vận dụng nhất quán lý luận tả thực chủ
nghĩa như một điểm tựa phê bình các hiện tượng, các quan điểm nghệ thuật vị
nghệ thuật, thoát li hiện thực thập niên 30. Cách vận dụng lý luận của Hải Triều,
về đại thể, mang màu sắc thực dụng, chủ yếu hướng tới phục vụ chính trị, cách
mạng. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến ông được tôn vinh là nhà
văn chiến sĩ, nhà văn cách mạng, nhà văn tiên phong của nền văn học mới.
1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu
thuyết Pháp

Đinh Gia Trinh là nhà phê bình văn học, khn mặt nổi bật của nhóm
trí thức Thanh Nghị. Sự vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực ở trường hợp
Đinh Gia Trinh thể hiện rõ nhất trong các bàn thảo của ông về tiểu thuyết Việt
Nam cận đại.
Trong bài viết “Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại” đăng trên tạp chí
Thanh Nghị số 26 năm 1942, Đinh Gia Trinh có nhắc đến một tín hiệu khởi
sắc của tiểu thuyết xứ ta: “gần đây trong sự sản xuất tiểu thuyết của xứ ta,
người thức giả đã nhận thấy một ít tác phẩm có giá trị và một vài hoan nghênh
của công chúng” [66]. Tác phẩm có giá trị và gây được húng thú với độc giả
mà Đinh Gia Trinh khen ngợi, chính là thứ tiểu thuyết có khuynh hướng tả
thực, được ơng định danh là “tiểu thuyết tả chân” [66].


18

Đặc điểm của tiểu thuyết tả chân được Đinh Gia Trinh mô tả như sau.
Trước hết về chủ thể sáng tác: nhà tiểu thuyết “tìm tài liệu ở đời xung quanh”,
kể về những hoàn cảnh, nhân vật, xã hội trong đó nhà tiểu thuyết và độc giả
sống. Tiểu thuyết tả thực, là tiểu thuyết phản ánh “chân tượng của xã hội”,
được xây dựng trên cơ sở sự thực xung quanh chứ khơng phải hồn tồn là
tưởng tượng, “nhân tạo”: “nội dung các tiểu thuyết Việt Nam cận đại cho ta
hiểu được đời sống vật chất và tinh thần xã hội Việt Nam, hay nói ngược lại,
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam cận đại khiến ta hiểu được
tính cách nội dung của tiểu thuyết Việt Nam mới” [66]. Như thế, theo Đinh Gia
Trinh, điểm quan trọng nhất của tiểu thuyết tả chân là phải có giá trị hiện thực,
nội dung của nó phải tốt lên cái khơng khí đặc trưng của thời đại bằng các nét
vẽ chân thực, gần gũi. “Tiểu thuyết đựng những nguyện vọng, những phản ánh
của đời sống tinh thần và vật chất của xã hội. Muốn suy xét một dân tộc, một
nhà mỹ học khuyên ta, nên để ý đến nền âm nhạc và lối kiến trúc của nước ấy.
Ta phải thêm vào: nên xét đến văn chương của nước ấy và nhất là môn tiểu

thuyết của nước họ”- Đinh Gia Trinh lưu ý [66]. Về điểm này, Đinh Gia Trinh
đã đặt tiểu thuyết ngang với một tác phẩm lịch sử, và nhà tiểu thuyết như một
sử gia của thời đại. Đọc tiểu thuyết tả chân cũng như đọc lịch sử.
Cũng Đinh Gia Trinh trong bài “Tính cách văn chương Việt Nam trước
thời kỳ Âu hóa” [65] chỉ ra mấy đặc điểm có tính cách phương pháp luận để
chúng ta hiểu thêm phương pháp sáng tác của Truyện Kiều. Theo Đinh Gia
Trinh, ở ta tư duy khoa học rất yếu ớt, tựa như không đáng kể, “Ở nước ta,
khoa học không phát triển mạnh nên lý trí khơng được hướng thượng, triết
học không năng thay đổi, và văn chương chỉ quanh quẩn với mấy ý tưởng
khuôn mẫu bất di dịch được xã hội thâu nhận đã lâu đời.” [65]. Nhận xét này
của Đinh Gia Trinh giúp ta có thêm cơ sở để phân biệt và đánh giá đúng hơn
tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều. Cũng theo tác giả Đinh Gia Trinh, xã
hội Việt Nam đóng kín, nhà văn xưa khơng ưa tả cảnh tỉ mỉ, văn chương Việt


19

Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả những niềm
riêng của một người, văn chương Việt Nam thiên về tính cách một "văn
chương của trường hợp"

chẳng hạn “Ơn Như viết quyển Cung ốn,

Nguyễn Du viết quyển Kim Vân Kiều, là để tả một cách kín đáo chút tâm
sự đau đớn của mình …
Rõ ràng, lập trường và đích đến của Hải Triều khác với Đinh Gia Trinh.
Một đằng đứng trên quan điểm Mác xít, ra sức vận dụng chủ nghĩa Mác vào
thực tiễn Việt Nam, tự nhận lãnh lấy sứ mệnh của một nhà văn tham dự vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, cho nền văn học mới. Còn một đằng túy thuần túy

bàn về tư duy nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, tư duy tả chân chứ không
chủ ý khai thác một cách thực dụng vấn đề tả thực vào phục vụ đấu tranh cách
mạng, đánh đổ chế độ phong kiến thực dân; không phải ngẫu nhiên trong lịch
sử lý luận văn học cách mạng, Đinh Gia Trinh là một tên tuổi ít được nhắc
đến như Hải Triều.
1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp
nghiên cứu phương Tây
Xét riêng trong lĩnh vực Kiều học trước 1945. Có thể xem Phạm
Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa là những tác giả tiêu biểu cho
khuynh hướng tiếp thu lý luận và phương pháp nghiên cứu phương Tây vào
đánh giá, định giá Truyện Kiều.
Mở đầu bài “Truyện Kiều” in trên Nam Phong số 30 (1919), Phạm
Quỳnh cho rằng, văn chương Nôm ở ta vốn nghèo nàn nhưng tình cờ sản xuất
được bộ sách quý, do đó khơng thể lấy cái “tỉ lệ thường của văn chương
Nôm” mà đánh giá Truyện Kiều, “phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn
học Thái Tây mới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của
một nền tuyệt tác trong quốc văn Việt Nam” [53]. Dựa theo phương pháp
nghiên cứu phương Tây, Phạm Quỳnh lần lượt xét mấy vấn đề: Cội rễ Truyện


×