Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Chương 1 giới thiệu quản trị tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.68 KB, 40 trang )

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Nội dung Chương 1, giới thiệu những vấn đề chung về quản trị tài chính doanh nghiệp
bao gồm: Khái niệm về các loại hình doanh nghiệp; Tài chính doanh nghiệp; Mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp; Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tài chính doanh nghiệp; Bảng
cân đối kế toán; Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Thị trường tài chính. Với những
mục tiêu chính và mục tiêu cụ thể như sau:
Mục tiêu chính: G1. Hiểu biết những vấn đề chung của có liên quan đến tài chính
doanh nghiệp là nền tảng kiến thức tiếp tục nghiên cứu các chương sau.
Mục tiêu cụ thể:
O1.1. Hiểu khái niệm về doanh nghiệp và phân biệt các loại hình doanh nghiệp theo
Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
O1.2. Phân tích vai trị của tài chính doanh nghiệp, bản chất của tài chính doanh
nghiệp, mục tiêu của doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vấn đề đại diện
trong loại hình cơng ty cổ phần.
O1.3. Hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính doanh nghiệp.
O1.4. Hiểu hoạt động của doanh nghiệp, quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp và thị
trường tài chính.
O1.5. Ý thức tơn trọng luật pháp, lợi ích cộng đồng, xã hội; sự cạnh tranh lành mạnh
và bảo vệ môi trường sinh thái.
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ
1.1.1. Lịch sử quản trị
Từ những năm 1840 - 1890 khi những cơ sở sản xuất nhỏ, những công trường thủ
công, xưởng thợ ra đời kèm theo nó là sự xuất hiện của những quản trị viên. Họ là chủ sở hữu
những cơ sở sản xuất nhỏ của mình và đồng thời là nhà quản trị.
Sau năm 1890, nhiều xí nghiệp lớn, nhiều liên hiệp xí nghiệp ra đời và phát triển
mạnh. Để quản lý các doanh nghiệp có quy mơ ngày càng lớn này và thích ứng với mơi
trường kinh doanh thường xun thay đổi, các nhà nước, các chính phủ đã xây dựng và ban
hành nhiều đạo luật nhằm quy định quyền hạn và trách nhiệm của những nghiệp này.

1



Trong q trình cải tổ doanh nghiệp, khơng chỉ có các chủ sở hữu mà cả những luật
gia cũng tham gia vào những chức vụ quan trọng của quản trị doanh nghiệp và hoạt động
quản trị được thực hiện trong phạm vi những điều luật quy định.
Tuy nhiên, trong giai đoạn trước năm 1910 chưa có những tác phẩm đáng kể viết về
quản trị doanh nghiệp, kể cả vấn đề tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn. Có chăng chỉ là
những kinh nghiệm được sao chép, truyền lại qua các đời, từ các cá nhân, từ các gia đình,
dịng họ. Vì vậy, quản trị doanh nghiệp chưa phải là mơn khoa học chính thống.
Từ năm 1910, nhiều doanh nghiệp, nhiều tập đồn sản xuất lớn được hình thành,
nhiều ngân hàng xuất hiện nhằm phục vụ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn và các
tập đoàn. Các chức danh Giám đốc, Tổng Giám đốc ra đời. Vấn đề quản trị doanh nghiệp
càng được đặt ra cụ thể và chặt chẽ với nhiều điều luật cụ thể.
Vào năm 1911, tác phẩm quản trị doanh nghiệp có giá trị đầu tiên được xuất bản ở
Mỹ. Cuốn sách do nhà khoa học quản trị nổi tiếng F. W. Taylo biên soạn với tiêu đề: “Những
nguyên lý và phương pháp quản trị khoa học - Principles and methods of scientice
administration". Cuốn sách chủ yếu đề cập vấn đề quản trị nhân sự là làm thế nào để người
lao động hoàn thiện và sử dụng có hiệu quả cơng cụ lao động và thời gian làm việc để tăng
năng suất lao động.
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất - WW1 (1913 - 1918), tiếp đó là cuộc đại khủng
hoảng kinh tế và tài chính đã làm cho hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản. Nhiều doanh
nghiệp còn tồn tại được tái tổ chức hoặc hợp nhất với nhau. Cơ chế quản lý mới ra đời thích
ứng với thời kỳ mới. Trên cơ sở này, các nhà quản trị doanh nghiệp mới xuất hiện với những
nguyên tắc, phương pháp và kinh nghiệm quản lý mới.
Năm 1922 đã ra đời một tác phẩm có giá trị cao về quản trị doanh nghiệp. Đó là tác
phẩm của nhà khoa học Pháp Henry Fayol về: "Quản trị công nghiệp và trị tổng hợp
(Industrial and General Administration". Nội dung cơ bản của cuốn sách đề cập đến phương
pháp quản trị văn phịng, chủ yếu nói về những chức năng cơ bản của quản trị doanh nghiệp.
Những tư tưởng và quan điểm cơ bản của cuốn sách cho đến nay vẫn được áp dụng.
Cho đến năm 1940, các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh đã nhận thấy tính tất yếu
phải xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ quản trị viên doanh nghiệp và một hệ thống


2


trường lớp, giáo trình đào tạo quản trị viên đã ra đời. Từ đó, khoa học quản trị doanh nghiệp
đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế lớn cho các doanh nghiệp.
P. Fonet viết trong cuốn sách: “Đường xoắn ốc của những phương pháp khoa học và
hiệu quả của nó đối với quản lý cơng nghiệp - Papus of scientirc methods and its effect upon
industrial manngement”. Cuốn sách đã xác định những tư tưởng triết học và những quan điểm
của quản trị tiến bộ.
Sự phát triển của quản trị doanh nghiệp từ năm 1946 đến nay: Đây là giai đoạn sau kết
thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai - WW2 (1945), chuyển sang khôi phục, phát triển kinh tế
và giao lưu quốc tế. Cùng với trào lưu đó, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nhiều nước công
nghiệp tiên tiến đã đạt được tốc độ cao trong tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1946 trở đi, ngày
càng xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị nói về quản trị doanh nghiệp. Ở nhiều nước đã thành
lập các trường riêng để giảng dạy và đào tạo những nhà quản trị doanh nghiệp từ cấp thấp đến
cấp cao nhất doanh nghiệp.
Có thể kể đến các trường ở Mỹ: Trường Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh - MBA (Master
of Business Administration), Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Business School); ở
Nhật: Trường Đào tạo Giám đốc dưới chân núi Phi-ghi... Có thể kể đến một số tác phẩm quản
trị doanh nghiệp đặc biệt có giá trị trong thời kỳ này như. Cuốn sách: "Quản lý năng động"
xuất bản năm 1945 của hai nhà khoa học người Anh và Mỹ. Tác phẩm này đã tổng kết những
nguyên tắc của quản trị doanh nghiệp đạt được từ xưa đến năm 1945. Trên cơ sở lý luận về
quản trị doanh nghiệp mới phù hợp với điều kiện hiện tại.
Sau đó lần lượt hàng trăm cuốn sách khác nhau, nhiều sách giáo khoa, bài báo về quản
trị doanh nghiệp ra đời. Những hội thảo, hội nghị quốc tế, nhiều lớp học được tổ chức để làm
sáng tỏ những vấn đề cơ bản của quản trị doanh nghiệp trong điều kiện hiện đại. Từ sau năm
1960, là thời kỳ sôi nổi, phát triển nhất của quản trị doanh nghiệp mà nhân loại đạt được từ
nền kinh tế tư bản phát triển tới nay. Một công ty Mỹ trong năm 1960, đã phải chi tới 3 triệu
đô chỉ để phục vụ việc sưu tầm, thu thập, tổng hợp những tài liệu về quản trị doanh nghiệp,

nhằm bồi dưỡng cho những quản trị viên của công ty (chưa kể tiền lương và những chi phí
khác phục vụ cho đội ngũ giáo sư, cán bộ giảng dạy...).
Như vậy, qua các giai đoạn phát triển của quản trị doanh nghiệp chúng ta thấy nổi bật
một vấn đề là xã hội từ chỗ chấp nhận một phần đến chấp nhận toàn phần vai trò của quản trị
doanh nghiệp, mà gắn liền với nó là các quản trị viên có nghiệp vụ và các cố vấn có năng lực

3


vận dụng những kiến thức lý luận quản trị doanh nghiệp vào thực tiễn. Ngày nay, nhất là
những năm đầu của thập kỷ 90, ở hầu hết các nước đã hình thành một hệ thống trường lớp để
đào tạo, bồi dưỡng các nhà quản trị doanh nghiệp tài ba đem lại.
1.1.2. Khái niệm quản trị
Quản trị là một khái niệm rất rộng bao gồm nhiều lĩnh vực. Ví dụ quản trị hành chính
trong các tổ chức xã hội, quản trị kinh doanh trong các tổ chức kinh tế. Trong lĩnh vực quản
trị kinh doanh lại chia ra nhiều lĩnh vực: Quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị
Marketing, quản trị sản xuất,v.v...
Quản trị nói chung theo tiếng Anh là “Administration”. Tuy nhiên, khi dùng từ, theo
thói quen, chúng ta coi thuật ngữ quản lý gắn liền với với quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
tức là quản lý ở tầm vĩ mơ. Cịn thuật ngữ quản trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với
một tổ chức, một doanh nghiệp. Có rất nhiều quan điểm về quản trị:
- Quản trị là phối hợp hiệu quả các hoạt động của người cùng chung trong tổ chức.
Đây là quá trình nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra bằng việc phối hợp nguồn lực của tổ
chức. Quản trị cịn là q trình các nhà quản trị hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
- Quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hồn thành cơng việc
qua những nỗ lực của những người khác.
Quản trị là cơng tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự
khác cùng chung một tổ chức.
- Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm đạt được
mục tiêu đề ra trong một môi trường luôn ln biến động.

- Quản trị là một q trình nhằm đạt đến các mục tiêu đề ra bằng việc phối hợp hữu
hiệu các nguồn lực của doanh nghiệp.
- Quản trị theo quan điểm hệ thống, còn là việc thực hiện những hoạt động trong mỗi
tổ chức một cách có ý thức và liên tục. Quản trị trong một doanh nghiệp tồn tại trong một hệ
thống bao gồm các khâu, các phần, các bộ phận có mối liên hệ khăng khít với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển. Nhiều người cùng làm việc với nhau trong một
nhóm để đạt tới một mục đích nào đó, cũng giống như các vai mà các diễn viên đảm nhiệm
trong một vở kịch, dù các vai trò này là do họ tự vạch ra, là những vai trò ngẫu nhiên hoặc

4


tình cờ, hay là những vai trị đã được xác định và được sắp đặt bởi một người nào đó, nhưng
họ đều biết chắc rằng mọi người đều đóng góp theo một cách riêng vào sự nỗ lực của nhóm.
Như vậy, quản trị được hiểu là sử dụng một nguồn lực hữu hạn để đạt được mục tiêu
tối đa. Hay nói cách khác là tận dụng tốt nhất nguồn lực, sử dụng nguồn lực đạt hiệu quả nhất.
1.1.3. Bản chất của quản trị
Mục tiêu của quản trị là tạo ra giá trị thặng dư tức tìm ra phương thức thích hợp để
thực hiện công việc nhằm đạt hiệu quả cao nhất với chi phí các nguồn lực ít nhất. Nói chung,
quản trị là một quá trình phức tạp mà các nhà quản trị phải tiến hành nhiều hoạt động từ khâu
đầu đến khâu cuối của một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực chất của quản
trị là quản trị các yếu tố đầu vào, quá trình sản xuất các yếu tố đầu ra theo quy trình hoạt động
của một tổ chức, một doanh nghiệp.
Những quan niệm trên cho dù có khác nhau về cách diễn đạt, nhưng nhìn chung đều
thống nhất ở chỗ quản trị phải bao gồm ba yếu tố (điều kiện):
Thứ nhất: Phải có chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra tác động quản trị và một đối
tượng quản trị tiếp. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động đó. Tác động có thể chỉ
một lần và cũng có thể nhiều lần.
Thứ hai: Phải có một mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn
cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị được

thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động. Về thuật ngữ chủ thể quản trị, có thể
hiểu chủ thể quản trị bao gồm một người hoặc nhiều người, còn đối tượng quản trị là một tổ
chức, một tập thể con người, hoặc giới vô sinh (máy móc, thiết bị đất đai, thơng tin...).
Thứ ba: Phải có một nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong quá
trình quản trị.
Như vậy, quản trị xét về mặt kinh tế - xã hội là quản trị vì mục tiêu, lợi ích của doanh
nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp tồn tại, sống còn và phát triển lâu dài. Nói cách khác bản
chất của quản trị tùy thuộc vào chủ sở hữu của doanh nghiệp. Quản trị xét về mặt kỹ thuật tổ
chức là sự kết hợp nỗ lực của con người trong tổ chức. Nói một cách khác, quản trị là quản trị
con người trong doanh nghiệp thơng qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng của
doanh nghiệp.
1.1.4. Chức năng quản trị

5


5 chức năng cơ bản của quản trị là: hoạch định, tổ chức, chỉ đạo, điều phối và kiểm
soát. Quản trị nói chung, dù ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, cũng là một phần không thể
thiếu của đời sống và đặc biệt cần thiết khi chúng ta cần thực hiện một loạt những hành động
nhằm đạt được một mục tiêu nào đó.

Hình 1.1. Chức năng quản trị
1.1.5. Cấp bậc quản trị

Hình 2. Cấp bậc quản trị
1.1.6. Vai trị quản trị
Nhà quản trị giữ vai trò là người lãnh đạo, là đầu tàu dẫn dắt nhân viên thực hiện các
công việc, nhiệm vụ của doanh nghiệp. Phạm vi lãnh đạo của nhà quản trị rất rộng, bao gồm

6



từ việc tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ, đánh giá, khen thưởng và cả việc cho dừng hợp đồng lao
động.
Theo kết quả nghiên cứu của Henry Mintzberg vào những năm 1960, nhà quản trị phải
đảm đương 10 vai trò khác nhau. Các vai trị này được chia thành ba nhóm:
Nhóm 1. Vai trò quan hệ với con người: Tổ chức mạnh khi nhiều người trong tổ chức
đó đều hoạt động hướng đến mục tiêu của tổ chức. Để đạt được điều đó, nhà quản trị có vai
trị hướng các thành viên của tổ chức đến mục tiêu chung vì lợi ích của doanh nghiệp.
(1) Vai trò đại diện: Đại diện cho công ty và những người dưới quyền trong tổ chức.
(2) Vai trò lãnh đạo: Phối hợp và kiểm tra công việc của nhân viên cấp dưới; Tuyển
dụng, đào tạo, hướng dẫn, khích lệ nhân viên.
(3) Vai trị liên kết: Quan hệ với người khác để hồn thành cơng việc được giao cho
đơn vị của họ. NQT luôn là 1 người trọng tài, có trách nhiệm hịa giải, đồn kết tất cả các
thành viên thành một khối thống nhất để phát huy sức mạnh tập thể.
Nhóm 2. Vai trị thơng tin: Thông tin là tài sản của doanh nghiệp, do vậy quản lý
thơng tin cũng là một vai trị quan trọng của nhà quản trị.
(4) Vai trò thu thập và tiếp nhận các thơng tin: Nhà quản trị có nhiệm vụ thường xuyên
xem xét, phân tích bối cảnh xung quanh tổ chức để thu thập những tin tức, sự kiện có ảnh
hướng tới hoạt động của tổ chức.
(5) Vai trị phổ biến thơng tin: Phổ biến cho mọi người có liên quan tiếp xúc các thông
tin cần thiết đối với cơng việc của họ.
(6) Vai trị cung cấp thơng tin: Thay mặt tổ chức để đưa tin tức ra bên ngồi với mục
đích cụ thể có lợi cho doanh nghiệp.
Nhóm 3. Vai trò quyết định:
(7) Vai trò doanh nhân: Vai trị này được thể hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến
hoạt động của tổ chức như việc áp dụng công nghệ mới hay điều chỉnh một kỹ thuật đang áp
dụng.
(8)Vai trị giải quyết xáo trộn: Ứng phó với những bất ngờ làm xáo trộn hoạt động
bình thường của tổ chức nhằm đưa tổ chức sớm trở lại ổn định.


7


(9)Vai trò người phân phối tài nguyên: Phân phối tài nguyên hợp lý giúp đạt hiệu quả
cao. Các tài nguyên bao gồm con người, tiền bạc, thời gian, quyền hạn, trang bị hay vật liệu.
(10) Vai trò đàm phán: Thay mặt tổ chức để thương thuyết với những đơn vị khác
cũng như với bên ngoài.
1.1.7. Năng lực quản trị
Quản trị là q trình làm việc cùng và thơng qua các cá nhân, các nhóm và các nguồn
lực khác. Quản trị được thử thách và đánh giá qua việc đạt được các mục tiêu thông qua sự tổ
chức và thực hiện các kỹ năng khác nhau. Trước tiên, nhà Quản trị cần có những năng lực
quản lý của người lãnh đạo như hiểu biết một vốn kiến thức nhất định về hệ thống luật và thuế
trong kinh doanh, về marketing, tài chính doanh nghiệp, dây chuyền sản xuất, cơng nghệ …
Đây là u cầu tiên quyết vì nó gắn liền với hiệu quả của quá trình ra quyết định thì mới có
thể trở thành một nhà Quản trị tài năng.Theo Robert L. Katz, nhà quản trị cần có năng lực:
(1) Năng lực kỹ thuật (kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ): Là năng lực áp dụng các
phương pháp, quy trình và kỹ thuật cụ thể trong 1 lĩnh vực, chuyên môn nào đó; là khả năng
thực hiện 1 cơng việc nhất định thể hiện trình độ chun mơn nghiệp vụ của nhà quản trị.
(2) Năng lực nhân sự: Liên quan đến khả năng tổ chức, động viên và điều khiển nhân
sự; là năng lực đặc biệt của nhà quản trị trong mối quan hệ với những người ở bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp, nhằm tạo thuận lợi và thúc đẩy sự hồn thành cơng việc chung.
(3) Năng lực nhận thức hay tư duy: Nhà quản trị cần xây dựng phương pháp tư duy
chiến lược để đề ra đường lối, chính sách đúng đắn với những bất trắc và đe dọa từ môi
trường kinh doanh.
Một số năng lực quan trọng mà một nhà quản trị cần phải có, cụ thể:
(1) Năng lực lãnh đạo: Đây có lẽ khơng thể nào nằm ngồi năng lực quản lý của người
lãnh đạo. Lãnh đạo giỏi được thử thách qua sự thành công trong việc thay đổi hệ thống và con
người. Thuật ngữ “lãnh đạo” đang được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi nhắc đến vai trị
của nhà quản trị vì chức năng của lãnh đạo là xử lý thay đổi. Nhà quản trị cần phải lãnh đạo

giỏi để thay đổi sản phẩm, hệ thống và con người một cách năng động. Nhà quản trị giỏi phải
là người thúc đẩy quá trình quyết định một vấn đề và trao cho nhân viên của họ quyết định
vấn đề đó. Nếu bạn là một nhà quản trị giỏi, quyền lực sẽ tự đến với bạn, nhưng bạn cũng

8


phải biết khai thác quyền lực của những người khác. Bạn phải thúc đẩy quá trình quyết định
và làm cho q trình đó hoạt động. Đó là một bài tốn khó.
(2) Năng lực lập kế hoạch: Nhà quản trị là người ra quyết định và tồn bộ bộ máy của
cơng ty sẽ hành động theo quyết định đó. Nghĩa là quyết định của nhà quản trị ảnh hưởng rất
lớn tới vận mệnh của doanh nghiệp. Một kế hoạch sai lầm rất có thể sẽ đưa đến những hậu
quả khó lường. Vì vậy kỹ năng lập kế hoạch rất quan trọng để đảm bảo cho nhà quản trị có
thể đưa ra những kế hoạch hợp lý và hướng toàn bộ nhân viên làm việc theo mục tiêu của kế
hoạch đã định. Khi kế hoạch được hoàn thành, nhà quản trị phải chuyển tải thông tin kế hoạch
cho cấp trên và cấp dưới để tham khảo ý kiến. Trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch, người
quản lý sẽ cần đến những công cụ giải quyết vấn đề và khi cần thiết, phải ra và thực thi các
quyết định trong quyền hạn của mình.
(3) Năng lực giải quyết vấn đề: Trong các năng lực quản lý của nhà quản trị thì khả
năng lường trước rủi ro và giải quyết vấn đề gần như bắt buộc và quyết định cấp độ thành
công của nhà lãnh đạo đó. Q trình giải quyết vần đề có thể được tiến hành qua các bước
nhận diện vấn đề, tìm nguyên nhân của vấn đề, phân loại vấn đề, tìm giải pháp và lựa chọn
giải pháp tối ưu. Một nhà quản trị giỏi sẽ tiến hành quá trình này một cách khéo léo và hiệu
quả.
(4) Năng lực giao tiếp tốt: Càng ngày người ta càng nhận ra sức mạnh của các mối
quan hệ, cái mà có được từ một kỹ năng giao tiếp tốt. Bạn phải thành thạo giao tiếp bằng văn
nói và cả văn viết. Bạn phải biết cách gây ấn tượng bằng giọng nói, ngơn ngữ cơ thể, đôi mắt
và cách diễn đạt dễ hiểu, thuyết phục. Các bản hợp đồng ngày nay có được phụ thuộc rất
nhiều vào mối quan hệ và khả năng thương thuyết. Khả năng giao tiếp tốt cũng phát huy tác
dụng trong quản lý nhân sự. Một chuyên gia về nhân sự đã từng kết luận rằng tiền có thể mua

được thời gian chứ không mua được sự sáng tạo hay lịng say mê cơng việc. Mà mức độ sáng
tạo hay lịng say mê cơng việc lại phụ thuộc vào khả năng tạo động lực cho nhân viên để
khẳng định lòng trung thành và sự cam kết của người lao động khơng thể có được bằng việc
trả lương cao. Thực tế là mức lương cao và một văn phòng đầy đủ tiện nghi chỉ là điều kiện
cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để nhà quản trị có thể giữ một nhân viên tốt.
Một số tính cách quyết định đến năng lực quản trị của nhà quản trị, cụ thể:
(1) Tầm nhìn xa: Một nhà quản trị có vai trị quan trọng hơn một cá nhân rất nhiều.
Phải dường như luôn biết cách hoạch định tốt mọi công việc và là người cung cấp những lời

9


khuyên hữu ích nhất cho những cộng sự hay thuộc cấp của mình. Khơng chỉ có một tầm nhìn
xa, anh ta còn biết cách truyền đạt những ý tưởng của mình cho người khác hiểu để cùng với
mình thực hiện tốt những ý tưởng đó. Những thơng điệp được truyền đi phải ln sinh động,
rõ ràng và có sức thuyết phục cao. Do đó, sự thành thạo trong khả năng giao tiếp bằng lời nói
ln là phẩm chất cần có của một người lãnh đạo giỏi như đã nói ở trên. Trong khi mọi người
đều bị thuyết phục bởi tài năng của nhà quản trị, họ thường không nhận ra rằng tài năng đó
chỉ đóng vai trị bổ trợ cho những kinh nghiệm mà nhà quản trị có thể tiếp thu từ thực tiễn
công việc: khả năng lên kế hoạch và thiết lập mục tiêu cần đạt được. nhà quản trị là người
ln có những giải pháp để giải quyết mọi khó khăn trong những tình huống nan giải nhất bởi
vì, nhà quản trị đã nhìn rõ bản chất của sự việc ngay cả trước khi khi chúng ta chỉ mới bắt đầu
nghĩ về nó.
(2) Sự tự tin: Một nhà quản trị thật sự phải ln có lịng tin vào chính mình. Thơng
thường, sự tự tin này hình thành từ sự thật là bất cứ một người lãnh đạo nào cũng đã từng trải
qua thời gian dài rèn luyện những kỹ năng trong cơng việc, tích lũy vốn kiến thức rộng cùng
với sự thơng minh sẵn có của anh ta. Bên cạnh đó, cho dù khơng có những kỹ năng, kinh
nghiệm kia thì nhà quản trị cũng là người biết nhận thức, học hỏi điều đó từ những người
khác.
(3) Tính kiên định: Một nhà quản trị mạnh mẽ cần phải có lập trường vững vàng trong

các quyết định của mình. Tuy nhiên, điều này không bao gồm những tư tưởng bảo thủ, ngoan
cố không biết sửa chữa những sai lầm. Hơn nữa, anh ta phải biết nghiêng về lẽ phải trong việc
phân xử các xung đột trong nội bộ của mình.
(4) Khả năng thích nghi: Phương thức kinh doanh có thể hiệu quả trong hơm nay
nhưng ngày mai thì nó lại khác. Một nhà quản trị có tài cần phải nhận thức được điều đó và
phải biết thức thời trong việc thích nghi và chấp nhận thay đổi. Nhà quản trị phải luôn cập
nhật những kỹ năng, công nghệ và phương pháp mới để thúc đẩy sự phát triển trong công
việc. Để trở thành một nhà quản trị tài năng thật khơng dễ dàng chút nào. Nó địi hỏi phải thật
sự u thích cơng việc cùng với những cơng sức và sự nỗ lực khơng ngơi nghỉ để có thể hội tụ
được những phẩm chất cần có của nhà quản trị . Hãy tự hỏi vì sao những người khác cần phải
lắng nghe, tôn trọng và thực hiện theo sự điều động, hướng dẫn của mình. Chắc chắn, bạn sẽ
tìm thấy động lực để hồn thành tốt vai trị của một nhà quản trị.

10


(5) Biết chấp nhận mạo hiểm: Nhiều người không dám mạo hiểm bởi vì họ sợ phải
nhận lấy thất bại. Tuy nhiên, nếu là một nhà quản trị có tham vọng, cần phải tự hỏi rằng liệu
sự mạo hiểm đó có đáng giá hay khơng? Nếu cảm thấy sự liều lĩnh là đáng bỏ cơng, thì cần
biết vượt qua rào cản tâm lý lo sợ, e ngại và dũng cảm đương đầu với thử thách. Nếu thử
thách là quá khó, hãy dành thời gian cho việc lên kế hoạch tác nghiệp, càng có nhiều sự chuẩn
bị, mức độ rủi ro trong tình huống càng được giảm bớt.
(6) Sự kiên trì: Nhà quản trị khơng bao giờ đầu hàng khó khăn khi chưa thật sự đối
đầu với nó. Mọi thứ khơng phải luôn luôn dễ dàng đối với nhà quản trị và bởi vì là người
đứng đầu nên cần biết thử trải nghiệm thật nhiều cho đến khi nào thành công thì thơi.
(7) Sự quả quyết: Là người đứng đầu, nhà quản trị được trông chờ trong việc đưa ra
những quyết định quan trọng trong khi những người khác thường cố gắng tránh xa nó. Cho dù
những quyết định này đơi khi sẽ tạo ra những tác động lớn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
cá nhân và những người xung quanh thì bản thân cũng phải chấp nhận điều đó. Sự cả nể, nhân
nhượng trong cách đưa ra quyết định có thể dẫn bạn đến những sai lầm khi tạo tiền lệ xấu dẫn

đến việc làm mất đi cái “uy” trong vị thế là nhà quản trị của cá nhân. Đôi khi nhà quản trị
cũng cần nhẫn tâm một chút trong việc sa thải một nhân viên nào đó vì hành động của nhâ
viên này gây tổn hại lớn đến lợi ích của doanh nghiệp.
(8) Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân: Là nhà quản trị có sẵn sàng để làm điều đó để
cơng việc của cá nhân mình tiến triển tốt hay không? Là một người đứng đầu một tập thể, nhà
quản trị phải tốn rất nhiều thời gian và công sức để quản lý tốt những người dưới quyền và
cơng việc của mình. Thậm chí, sự bận rộn đó cịn chiếm cả những khoảng thời gian riêng tư
dành cho bản thân và gia đình mình.
1.1.8. Ý nghĩa quản trị
Khi con người kết hợp với nhau để làm việc trong một tổ chức, người ta có thể làm
những việc cần thiết theo cách suy nghĩ riêng của mỗi người tự phát. Lối làm việc như thế
cũng có thể đem lại kết quả hoặc cũng có thể khơng đem lại kết quả. Nhưng nếu người ta biết
tổ chức hoạt động thì triển vọng đạt kết quả sẽ chắc chắn hơn, đặc biệt quan trọng không phải
chỉ là kết quả mà sẽ cịn ít tốn kém thời gian, tiền bạc, nguyên vật liệu và những phí tổn khác.
Khi chúng ta so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí để thực hiện sẽ có khái niệm là
Hiệu quả = Kết quả - Chi phí. Hiệu quả sẽ tăng trong hai trường hợp: Tăng kết quả với chi

11


phí khơng đổi. Giảm chi phí mà vẫn giữ ngun kết quả. Muốn đạt được cả hai điều đó địi
hỏi phải biết cách quản trị, không biết cách quản trị lãnh đạo cũng đạt được kết quả nhưng
hiệu quả sẽ đạt thấp.
Một nhà quản trị giỏi không những mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp mà cịn
có ý nghĩa quan trọng góp phần đưa nền kinh tế đất nước nhanh chóng phát triển. Mục tiêu
của hoạt động quản trị như vậy là nhằm giúp chúng ta có những kiến thức, kỹ năng cần thiết
để gia tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận cũng như mục tiêu phi
lợi nhuận.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI CHÍNH
1.2.1. Lịch sử Tài chính

Sản xuất hàng hóa và tiền tệ là nhân tố mang tính khách quan có ý nghĩa quyết định sự
ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính và Nhà nước là nhân tố có ý nghĩa định hướng tạo
điều kiện, tạo ra hành lang pháp lý và điều tiết sự phát triển của tài chính, cụ thể:
(1) Sự ra đời do sản xuất hàng hóa và tiền tệ, khi xã hội có sự phân cơng về lao động,
có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, nền sản xuất hàng
hóa ra đời và tiền tệ xuất hiện. Các quỹ tiền tệ được tạo lập và được sử dụng bởi các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội. Các quan hệ kinh tế đó đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.
(2) Sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ, làm xuất hiện các nguồn tài chính, đó
là của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Sản xuất và trao đổi hàng hóa xuất
hiện, theo đó tiền tệ đã xuất hiện như một đòi hỏi khách quan với tư cách là vật ngang giá
chung trong quá trình trao đổi. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa - tiền tệ, hình thức tiền tệ đã
được các chủ thể trong xã hội sử dụng vào việc phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân để tạo lập nên các quỹ tiền tệ riêng phục vụ cho những mục đích riêng của mỗi chủ thể.
(3) Sự ra đời do sự xuất hiện nhà nước , cùng với quá trình phát triển của xã hội,
khi Nhà nước ra đời đã thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tài chính. Nhà nước, với chức
năng, quyền lực và để duy trì hoạt động của mình đã tạo lập quỹ ngân sách nhà nước thông
qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, hình thành lĩnh vực tài
chính nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy và mở rộng phạm vi
hoạt động của tài chính.

12


Như vậy, hoạt động phân phối tài chính là khách quan nhưng chịu sự chi phối trực tiếp
hoặc gián tiếp của nhà nước thơng qua các chính sách được ban hành và áp dụng trong nền
kinh tế (chính sách thuế, chính sách tiền tệ,...). Bằng quyền lực chính trị và thơng qua một hệ
thống chính sách, chế độ, nhà nước đã tạo nên môi trường pháp lý cho sự hoạt động của tài
chính; đồng thời nắm lấy việc đúc tiền, in tiền và lưu thơng tiền tệ.
1.2.2.Bản chất tài chính

Là các quan hệ tài chính trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức tổng giá
trị, thơng qua đó tạo lập các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các
chủ thể trong nền kinh tế
Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân
phối các nguồn tài chính thơng qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền
Giá cả của các hàng hóa trên thị trường sẽ phản ánh xu hướng phát triển của nền kinh
tế. Giá cả hàng hóa giảm thì hiệu quả nền kinh tế sẽ yếu, giá cả hàng hóa mà tăng thì nền kinh
tế rất hiệu quả (ngoại trừ lạm phát).
1.2.3.Chức năng của tài chính
(1) Chức năng huy động: Đây là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, thể hiện khả
năng tổ chức khai thác các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Việc huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả của vốn.
(2) Chức năng phân phối: Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách
quan của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó để tổ
chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó, tài chính được sử dụng với
tư cách một cơng cụ phân phối.
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ đó, các nguồn tài lực đại diện
cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau, để sử dụng cho
những mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, những lợi ích khác nhau của đời sống xã
hội.
Phân phối qua tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị.
Thơng qua chức năng này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử
dụng theo những mục đích nhất định.

13


Phân phối thơng qua tài chính gồm: phân phối lần đầu (là việc phân phối tại các khâu
cơ sở, đó là các khâu tham gia trực tiếp vào các hoạt hoạt động sản xuất) và phân phối lại (là
phân phối cho các khâu không tham gia trực tiếp trong quá trình sản xuất mà chỉ nhằm đảm

bảo hoạt động bình thường của xã hội).
Tuy nhiên, thực tế phân phối được chia thành 3 nhóm: Phân phối có hồn lại có thời
hạn. Ví dụ: Tín dụng; Phân phối khơng hồn lại. Ví dụ: Ngân sách nhà nước; Phân phối hồn
lại có điều kiện. Ví dụ: Bảo hiểm
Đối tượng phân phối: Đối tượng phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là
tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội.
Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính bao gồm các bộ phận: Bộ phận của cải xã hội
mới được tạo ra trong kỳ - Tổng sản phẩm trong nước GDP; Bộ phận của cải xã hội còn lại từ
kỳ trước - Phần tích lũy quá khứ của xã hội và dân cư; Bộ phận của cải được chuyển từ nước
ngoài vào và bộ phận của cải từ trong nước chuyển ra nước ngoài; Bộ phận tài sản, tài nguyên
quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn.
Xét về mặt hình thức tồn tại, nguồn tài chính tồn tại dưới dạng: Nguồn tài chính hữu
hình; Nguồn tài chính vơ hình.
Chủ thể phân phối: Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, hộ gia đình, cá nhân.
Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhất
định cho các mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Đặc điểm của phân phối: Là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó khơng
kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị; Là sự phân phối ln ln gắn liền với sự hình thành và
sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định; Là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên
tục bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại.
Quá trình phân phối: Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là quá trình phân phối chỉ
diễn ra ở lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất
hay thực hiện các dịch vụ.
Chủ thể phân phối: doanh nghiệp, người lao động, nhà nước, ngân hàng,...
Kết quả phân phối: Hình thành nên các phần thu nhập của các chủ thể phân phối.

14


Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình

thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, thỏa
mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội.
Chức năng giám sát: Đây là chức năng kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính
trong q trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thông qua chức năng này để kiểm tra và
điều chỉnh các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của mỗi thời kỳ, kiểm tra các chế độ tài chính của Nhà
nước,v.v...
Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động trong lĩnh vực đó. Hệ thống tài chính
bao gồm, cụ thể:

- Tài chính cơng (gồm ngân sách nhà nước và các quỹ ngồi ngân sách);
- Tài chính doanh nghiệp;
- Thị trường tài chính (gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn);
- Tài chính quốc tế;
- Tài chính hộ gia đình, cá nhân;
- Tài chính các tổ chức xã hội;
- Tài chính trung gian (bao gồm tín dụng, bảo hiểm).
Các thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của
tài chính, cụ thể:
Căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể có các mối quan
hệ tài chính sau:
Mối quan hệ tài chính giữa DN với NSNN: Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ Nhà nước
cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ phần theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để
tiến hành sản xuất kinh doanh và phân chia lợi nhuận. Đồng thời, mối quan hệ tài chính này
cũng phản ánh những quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa NSNN với các DN
được thể hiện thông qua các khoản thuế mà DN phải nộp vào NSNN theo luật định.


15


Mối quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính: Các quan hệ này
được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Với thị trường tiền tệ
thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được các khoản tiền vay để tài trợ cho
các nhu cầu vốn ngắn hạn và ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi
trong thời hạn nhất định. Với thị trường vốn, thông qua hệ thống các tổ chức tài chính trung
gian khác, doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ khác để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn
bằng cách phát hành các chứng khoán.
Ngược lại, các doanh nghiệp phải hoàn trả mọi khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu
tư vào doanh nghiệp bằng một khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của
doanh nghiệp. (Thị trường chứng khốn) Thơng qua thị trường tài chính, các doanh nghiệp
cũng có thể đầu tư vốn nhàn rỗi của mình bằng cách ký gửi vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu
tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
Mối quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác : Các thị trường khác
như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường lao động,...Là chủ thể hoạt động SXKD, các
doanh nghiệp phải sử dụng vốn để mua sắm các yếu tố sản xuất như vật tư, máy móc thiết bị,
trả cơng lao động, chi trả các dịch vụ...Đồng thời, thông qua các thị trường, doanh nghiệp xác
định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng, để làm cơ sở hoạch định ngân
sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị...nhằm làm cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
luôn thỏa mãn nhu cầu của thị trường.
Mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp : Đây là mối quan hệ tài chính khá
phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính giữa các bộ phận SXKD, giữa các bộ phận quản lý, giữa
các thành viên trong doanh nghiệp, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1.3.1.Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là doanh thương là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản và có trụ
sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.

1.3.2. Các loại hình doanh nghiệp

16


Căn cứ vào hình thức sở hữu, mỗi quốc gia thường có những loại hình DN khác nhau,
tuy nhiên về cơ bản các loại hình doanh nghiệp bao gồm DNTN, CTHD, CTCP, CTTNHH và
DNNN, cụ thể:
(1) DNTN là doanh nghiệp chỉ có một sở hữu chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tồn bộ
tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
(2) CTHD là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngồi hai
thành viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là các cá
nhân có trình độ chun mơn có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của cơng ty trong phạm vi số vốn góp của mình vào công ty.
(3) CTTNHH bao gồm CTTNHH nhiều thành viên và một thành viên, cụ thể:
- CTTNHH nhiều thành viên là DN trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân và số
lượng thành viên không quá 50, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào DN.
- CTTNHH một thành viên là DN do một tổ chức làm chủ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn điều lệ của DN.
(4) CTCP là DN trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần, số cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm
vi số vốn vào DN, cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ cổ đông nắm quyền ưu đã và cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu. Công ty cổ phần phân
thành 2 loại: Công ty cổ phần nội bộ (Internal Corporation) và công ty cổ phần đại chúng
(Public Corporation).
(5) DNNN là phần vốn do NSNN cấp, hiện nay đang có xu thế cổ phần hóa hoặc
chuyển đổi thành CTCP hay CTTNHH một thành viên cho phù hợp với nền kinh tế thị
trường. Từ ngày 01/07/2011 các DNNN được đổi tên thành các cơng ty TNHH một thành

viên. .
Bảng 1.1. Tóm tắt ưu nhược điểm của các loại hình doanh nghiệp

17


Loại hình DN

Ưu điểm

• Đơn giản thủ tục thành lập.
• Khơng địi hỏi nhiều vốn khi thành
lập.
1. DNTN
• Chủ DN nhận toàn bộ lợi nhuận
Được sở hữu và
kiếm được.
điều hành bởi một
• Chủ DN có tồn quyền quyết định
cá nhân
kinh doanh.
• Khơng có những hạn chế pháp lý
đặc biệt.
• Dễ dàng thành lập.
• Được chia tồn bộ lợi nhuận.
• Có thể huy động vốn từ các thành
2. CTHD
viên.
Có hai hay nhiều
• Có thể thu hút kỹ năng quản lý từ

người đồng sở hữu các thành viên.
chủ, tiến hành hoạt • Có thể thu hút thêm thành viên
động nhằm mục tiêu tham gia.
lợi nhuận.
• Ít bị chi phối bởi các quy định pháp
lý.
• Năng động.
• Khơng bị đánh thuế hai lần.
• Cổ đơng chịu trách nhiệm hữu hạn.
• Dễ thu hút vốn.
3.CTCP
• Có thể hoạt động mãi mãi, khơng
Tổ chức kinh doanh bị giới hạn bởi tuổi thọ của chủ sở
thành lập theo luật, hữu.
hoạt động tách rời • Có thể chuyển nhượng quyền sở
với quyền sở hữu và hữu.
nhằm mục tiêu lợi • Có khả năng huy động được kỹ
nhuận.
năng, chun mơn, tri thức của nhiều
người.
• Có lợi thế về quy mơ.

Nhược điểm
• Chịu trách nhiệm cá nhân
vơ hạn.
• Hạn chế về kỹ năng và
chun mơn quản lý.
• Hạn chế khả năng huy động
vốn.
• Khơng liên tục hoạt động

khi chủ doanh nghiệp qua
đời.
• Chịu trách nhiệm vơ hạn
• Khó tích lũy vốn
• Khó giải quyết khi có mâu
thuẫn lợi ích giữa các thành
viên.
• Chứa đựng nhiều tiềm năng
mâu thuẫn cá nhân và quyền
lực giữa các thành viên.
• Các thành viên bị chi phối
bởi luật đại diện.
• Tốn nhiều chi phí và thời
gian trong q trình thành
lập.
• Bị đánh thuế hai lần.
• Tiềm ẩn khả năng thiếu sự
nhiệt tình từ Ban quản lý.
• Bị chi phối bởi những quy
định pháp lý và hành chính
nghiêm nhặt.
• Tiềm ẩn nguy cơ mất khả
năng kiểm sốt của những
người sáng lập cơng ty.

Mặc dù có nhiều loại hình khác nhau như đã trình bày trên đây, nhưng trong phạm vi
chương trình học ta chỉ tập trung xem xét tài chính và quản trị tài chính của loại hình CTCP.
Loại hình cơng ty này đã và đang đóng vai trị chủ yếu ở các nước phát triển và sẽ đóng vai
trị chủ yếu ở Việt Nam trong tương lai cùng với tiến trình cổ phần hóa DNNN.
1.3.


TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.3.1.Khái niệm
Mọi hoạt động kinh tế, bằng cách này hay cách khác đều là sự phối hợp giữa lao động
và tư bản. Tuy nhiên trong một nền kinh tế trao đổi tiền tệ, các doanh nghiệp đóng một vai trò

18


trung tâm trong sự phối hợp này. Chính là chúng phối hợp lao động và vốn cần thiết cho việc
sản xuất các của cải và dịch vụ bán trên thị trường. (Theo J.M.Albertini – Giám đốc trung tâm
nghiên cứu khoa học (C.NR.S)).
Doanh nghiệp là các đơn vị sản xuất cơ bản trong một nền kinh tế tư bản hoặc hỗn
hợp. Nó thuê lao động và mua những thứ khác ở đầu vào nhằm sản xuất và bán hàng hóa.
(Theo Paul A.Samuelson – Giáo sư đại học Massachusetts institution of Technology &
William D. Nordhus – Giáo sư kinh tế học Yale University Cowles Foundation).
Hai khái niệm nêu trên tuy có những điểm khác biệt, nhưng đều có chung những đặc
điểm sau đây khi đề cập về doanh nghiệp và Tài chính Doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện chức năng kinh doanh và như thế mục
tiêu của DN là lợi nhuận.
Hoạt động của Doanh nghiệp là một sự kết hợp giữa các yếu tố đầu vào như vốn và
lao động để tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường và như vậy bản chất
của tài chính DN chính là sự phối hợp một cách tối ưu các yếu tố đầu vào nhằm đạt được mục
tiêu của DN chính là lợi nhuận.
Trong quá trình hoạt động của DN, ba câu hỏi cần phải trả lời từ các nhà quản trị tài
chính Doanh nghiệp trong các quyết định có liên quan đến vấn đề tài chính của DN đó là:
- Từ rất nhiều các cơ hội đầu tư có được thì DN sẽ phải đưa ra quyết định lựa chọn cơ
hội đầu tư nào cho hiệu quả cao nhất vì nguồn lực của DN là có giới hạn hay nói khác hơn là
khan hiếm?

- DN nên dùng những nguồn tài trợ nào để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư đã hoạch định?
- DN nên thực hiện chính sách cổ tức (đối với CTCP) như thế nào nhằm thỏa mãn
được nguyện vọng của cổ đơng đồng thời nâng cao giá trị của mình trên thị trường?
Câu hỏi thứ nhất liên quan đến việc chi tiêu tiền; câu hỏi thứ hai liên quan đến vấn đề
huy động vốn và câu hỏi thứ ba liên quan đến sự kết hợp giữa hai quyết định (1) và (2) trên.
Như vậy tài chính DN chính là cách giải quyết ba vấn đề trên sao cho hợp lý nhất.
1.3.2. Các quyết định tài chính
Ba vấn đề nêu trên được giải quyết trực tiếp bởi nhà quản trị tài chính. Tùy theo quy mơ
của DN, nhà quản trị tài chính CFO (Chief Finance Officer) có thể có nhiều tên gọi khác

19


nhau. Với những cơng ty vừa và nhỏ thì CFO có thể là kế tốn trưởng, nhưng nếu cơng ty lớn
thì hai chức danh kia là hồn tồn khác nhau. Nhìn chung, các quyết định tài chính của nhà
quản trị bao gồm: Quyết định đầu tư hay hoạch định ngân sách vốn (Capital budgeting), quyết
định tài trợ (Capital Structure), quyết định quản trị vốn lưu động (Working Capital
Management) và quyết định phân chia cổ tức.
1.3.2.1.Quyết định đầu tư
Tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản (TSCĐ và TSLĐ) cần có.
Mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong DN (tức là tỷ lệ phân chia TSLĐ
và TSCĐ như thế nào là hợp lý). Quyết định đầu tư thể hiện ở phía bên trái (hay phía trên)
của bảng cân đối kế tốn. Cụ thể, nó bao gồm các quyết định sau:
- Doanh nghiệp cần những loại tài sản nào để phục vụ cho quá trình SXKD của mình?
- Mối quan hệ giữa TSCĐ và TSLĐ như thế nào?
- Doanh nghiệp cần đầu tư bao nhiêu vào TSLĐ? Bao nhiêu vào TSCĐ?
Chi tiết hơn, DN cần đầu tư bao nhiêu vào hàng tồn kho, lưu lượng tiền mặt cần có
trong ngày là bao nhiêu? Nên mua sắm những loại TSCĐ nào?v.v...
1.3.2.2. Quyết định tài trợ
Nếu quyết định đầu tư liên quan đến bên trái (phía trên) thì quyết định tài trợ liên quan

đến bên phải (bên dưới) của bảng cân đối kế toán, gắn liền việc lựa chọn nguồn vốn nào cung
cấp để mua sắm tài sản, nên sử dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay, nên dùng vốn ngắn hạn hay
vốn dài hạn.
Ngoài ra, quyết định tài trợ cần xem xét:
- Mối quan hệ giữa lợi nhuận giữ lại tái đầu tư và lợi nhuận phân chia cho cổ đơng
dưới hình thức cổ tức?
- Khi xem xét chọn lựa nguồn vốn nào tài trợ thì tiếp theo là huy động nguồn vốn đó
như thế nào?
- Nên sử dụng lợi nhuận giữ lại hay phát hành thêm cổ phiếu?
- Nên vay ngân hàng hay nên huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ?

20



×