Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

823222 nguyen huu thang tieu luan triet hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.47 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
……..***……..

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI

NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VIỆT NAM HIỆN NAY
Họ và tên

: NGUYỄN HỮU THẮNG

Mã sinh viên

: 823222

Lớp

: Quản trị Kinh doanh

Khoá

: 30A

Giảng viên hướng dẫn : TS THÂN THỊ HẠNH

Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2023


lOMoAR cPSD| 32721247



Mở Đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Nho giáo là một hệ thống tư tưởng về triết học xã hội, triết học giáo dục,
triết học chính trị và đạo đức, ảnh hưởng sâu sắc đến các nước Đông Á: Việt
Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, là tiêu chuẩn đạo đức cơ sở của các nước Đông Á.
Đến thế kỷ 20, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tơn,
thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ 21, đứng trước sự
suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục
con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các
nước Đơng Á. Đó là lý do tơi chọn đề tài này
Mục đích và nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích : Đánh giá ảnh hưởng của Nho giáo đối với giáo dục đạo đức
Việt Nam hiện nay,
Nhiệm vụ : nghiên cứu lịch sử Nho giáo
tư tưởng về đạo đức của Nho giáo,
ảnh hưởng Nho giáo ở Việt Nam.
Đối tượng : Nho giáo, và Nho giáo ở Việt Nam
Phạm vi

: Vấn đề đạo đức trong Nho giáo

Ý nghĩa và lý luận thực tiễn :
Từ sự đánh giá ảnh hưởng của Nho giáo đối với giáo dục đạo đức Việt
Nam hiện qnay, có thể đề ra các giải pháp để giáo dục đạo đức phù hợp với
tình hình hiện tại của Việt Nam.
Kết cấu đề tài :
Lịch sử Nho giáo Trung Hoa
Chuẩn mực đạo đức trong Nho giáo
Ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam

Ảnh hưởng của Nho giáo trong giáo dục đạo đức Việt Nam hiện nay


lOMoAR cPSD| 32721247

MỤC LỤC

CHƯƠNG I : NHO GIÁO
1.1 Khái quát về Nho giáo
1.1.1 Lời giảng của Khổng Tử
1.1.2 Triển khai từ Khổng Tử :
1.1.2.1 Mạnh Tử
1.1.2.2 Tuân Tử
1.1.2.3 Tân Nho giáo

CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VỚI VIỆT NAM.
2.1 Nho giáo đến Việt Nam
2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đối với Việt
Nam
2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với Việt
Nam
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


lOMoAR cPSD| 32721247

CHƯƠNG I : NHO GIÁO
1.1 Khái quát về Nho giáo

1.1.1 Lời giảng của Khổng Tử
Mọi học thuyết triết học đều được hình thành từ một sự biến cố nào đó
trong lịch sử đối với cá nhân hoặc xã hội đã tác động sâu sắc đến triết gia, ví
như Platon vì cái chết của người thầy Socrates và cuộc biến động xã hội ở
thành Athen mà sau đó đã đi khắp nơi và cho ra đời tác phẩm Cộng Hịa nổi
tiếng, hay Karl Mark sống trong thời kì bùng nổ của chủ nghĩa đế quốc giai cấp
vô sản bị áp bức đàn áp, từ đó ơng đã cho ra Triết học Mark và được Lê nin bổ
sung. Nho giáo cũng được hình thành như vậy, ở phương Đơng xa xôi, Khổng
Khâu trăn trở trước sự biến đổi của xã hội cuối nhà Chu, khi mà em giết anh,
con giết cha tranh giành ngôi báu, vua mất uy, các nước chư hầu đánh nhau liên
miên, dân chúng lầm than khổ sở, xã hội loạn lạc. Trước bối cảnh đó, ơng lại
nhớ về thời vua Nghiêu vua Thuấn, và dựa trên tư tưởng của Chu Công phát
triển lên và hệ thống hóa nó trở thành một học thuyết chính trị, tơn giáo, giáo
dục, đạo đức được gọi là Nho giáo.
Theo Will Durant trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa, đã nêu nhận
xét rằng “ Ấn Độ là xứ của siêu hình học và tơn giáo. Trung Hoa là xứ của triết
lý nhân bản, không quan tâm tới thần học.”. Quả thực, bởi vì sự biến động xã
hội đã nói ở trên, nỗ lực của Nho giáo là đưa ra một phương pháp, một cách
thức để con người sống “tốt” với nhau trong xã hội. Nho giáo không đặt nặng
vấn đề siêu hình và khơng địi hỏi phải có đức tin hay sự thờ phượng, tận hiến
cho một sức mạnh ngoại tại để mong được sự cứu rỗi như định nghĩa thông
thường về tôn giáo. Nho giáo, chữ giáo ở đây không mang nghĩa tôn giáo, mà
chữ giáo, xét theo nguyên ngữ, với ý nghĩa là giáo hóa, dạy bảo cách sống sao
cho phải đạo làm người.
Tư tưởng chính trong học thuyết của Khổng Tử, mà ông đêm hết sở học, lý
tưởng và năng lực để cổ vũ cho, đó là thuyết “Chính danh”. Bởi vì ơng cho
rằng ngun nhân loạn lạc xã hội là do sự khơng chính danh, vua khơng hành
xử đúng như những gì vua phải làm, con không làm đúng đạo làm con, anh em
không cư xử như nghĩa anh em…
Ơng dùng thuyết “Chính danh” làm cơ sở thiết lập trật tự tốt lành cho xã

hội, đồng thời quan tâm tới “Nhân” trong những gì liên hệ tới việc làm người
đích thực. Kết quả của những suy tưởng của ơng về “Nhân” là sự hình thành
một chuỗi các nghi thức gọi là “Lễ”, “Lễ” được coi là cái khung cho thuyết
“Chính danh”, để đảm bảo sự chính danh thì phải tn theo “Lễ”, khơng theo
“Lễ” thì khơng cịn chính danh, mà danh khơng chính thì ngơn bất thuận,
không đáng tồn tại trong xã hội.


lOMoAR cPSD| 32721247

Ở đây ta thấy đặc điểm chủ chốt trong nỗ lực cảu Khổng Tử là tìm cách đề
ra các qui tắc chi phối hành động chân chính của con người; những quy tắc
không đặt cơ sở trên việc đánh giá tình huống theo quan điểm thiết thực duy lợi
chủ nghĩa. Nếu bạn muốn làm người quân tử, bạn phải nhất quyết thể hiện
được điều bạn xem là chính đáng, bất chấp mọi hệ quả gây ra cho bản thân bạn.
Nhân :
Theo Luận ngữ, là sách thu thập các lời giảng đạo đức để tu nhân xử thế,
Nhân là một phẩm tính đạo dức vừa để tu dưỡng bản thân, vừa để thương yêu
tha nhân, nói theo thuật ngữ Nho giáo, Nhân là để xử kỷ và tiếp vật. Theo
Khổng Tử, Nhân là tâm điểm của đạo đức từ đó phát sinh cũng như hội tụ các
đức khác Nhân là khởi đầu và tột điểm của đạo; chí thiện là Nhân. Như thế đức
nhân có tính tồn bộ và là một minh triết lý tưởng
Lễ
Vào trước thời Xuân Thu đã có nội hàm nghi thức lễ tế, đồng thời mang ý
nghĩa những luật tắc có tính phong tục, tập quán được xã hội thừa nhận. Sang
tới Khổng Tử, nó còn bao hàm quyền hành của người trị nước và cách tiết chế
hành vi của người dân.
Đối với Khổng Tử, tác dụng cảu Lễ nhắm tới bốn chủ đích :
1. Hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng hậu làm gốc cho đạo
nhân;

2. Giữ tình cảm sao cho trung dung;
3. Xác định phân mình lẽ phải trái, tình thân sơ, trật tự trên dưới;
4. Tiết chế những thường tình dung tục của con người
Khổng Tử cho rằng chỉ có cách tuân giữ Lễ như những luật tắc giao tế xã
hội mới có khả năng thành tựu Nhân. Như thế, ông đi theo truyền thống văn
học đã có từ thời sơ Chu, thấm nhuần trong các bộ kinh mà ông làm cơ sở cho
lời giảng của mình. Một cách căn bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc
sống quân bình.
Lễ ràng buộc mọi người. Việc thực thi Lễ sẽ đặt mọi người hành xử đúng
theo vị trí và chức năng của mình.
Lễ làm bền vũng nền văn hiến của một nước.
Chính danh
Nhưng bạn chỉ có thể theo Lễ nếu bạn biết đúng vị trí của mình trong bản
lược đồ phổ quát các sự vật. Điều này liên quan tới chủ trương chính danh của,
một học thuyết quan trọng của Khổng Tử, song hành với Nhân. Chính danh
vừa là một lập luận có tính triets học về chỗ đứng của mỗi người trong xã hội,


lOMoAR cPSD| 32721247

trong chính trị , vừa là lời cảnh báo về việc con người có khả năng hiểu sai lạc
các khái niệm. Người quân tử muốn “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”,
phải nghiêm chỉnh theo thuyết Chính danh.
Khơng những giúp cho việc suy nghĩ chính xác và hành xử đúng dắn theo
“định phận” của mỗi cá nhân, thuyết Chính danh cịn có cơng dụng cực kì hữu
hiệu trong việc trị quốc an dân.

1.1.2 Triển khai từ Khổng Tử :

Sau Khổng Tử, có hai nhà tư tưởng đóng vai trị quan trọng đặc biệt trong

q trình phát triển tư tưởng Nho giáo. Mạnh Tử là người trau chuốt thêm ý
tưởng về Nhân, khai thông những bế tắc trong tư tưởng của Khổng Tử về vũ
trụ luận, siêu hình học và đặc biệt, chính trị học. Tn Tử trình bày tỉ mỉ và cặn
kẽ thêm ý tưởng về Lễ của Khổng Tử.

1.1.2.1 Mạnh Tử
a) Người vốn tính thiện
Mạnh Tử xem xét tới điều không được Khổng Tử thảo luận cặn kẽ, đó
là bản tính và định mệnh của con người. Học thuyết Nhân chính của
ơng đặt cơ sở triết học trên khái niệm rằng con người “vốn tính thiện”.
Ơng tin rằng mọi người sinh ra với thiện tính, chỉ sau đó mới học làm
điều ác. Trời sinh trong mọi người có sẵn mối thiện; nội dung chủ yếu
cảu mối thiện ấy gồm :
̶

Lòng trắc ẩn một cách tự nhiên;
̶

Cảm giác dị ứng với cái ác;
̶

Tính khiêm nhượng;
̶

Biết phân biệt phải trái;

Đối với Mạnh Tử, tâm điểm của tu dưỡng và hành xử là phát huy tính
thiện bẩm sinh ấy: “Giữ gìn tâm trí và ni dưỡng thiện là các ta phục vụ
trời”
Tuy thiện là cốt tính của con người, nhưng theo Mạnh Tử, nó cũng cần

được ni dưỡng. Bởi cá tính con người bị chi phối bởi tánh và tâm, nhưng
mệnh quyết định chính xác những gì sẽ xảy tới. Con người không thể thay
đội vận mệnh của nó vì đó là cái nằm trong bàn tay của trời. Tuy thế, trời
sinh tâm con người có đủ các thuộc tính đạo đức : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí;


lOMoAR cPSD| 32721247

chúng khơng phải do bên ngồi rèn đúc nên ta, ta đã có sẵn vậy; ta cỉ cần tu
dưỡng để phát huy.
Mạnh Tử cho rằng, đạo đức con người sinh cao thấp là do sự chi phối
bới hoàn cảnh xã hội, nếu được giáo hóa, phát huy tính thiện thì người nào
cũng có thể trở thành bậc thánh nhân.
Nhận xét: Ở đây ta thấy, Mạnh Tử đã đưa ra ý tưởng “Nhân chi sơ,
tính bản thiện” làm cốt lõi, đạo đức con người do môi trường chi phối, do
vậy chỉ cần tạo môi trường xã hội tốt, và ren luyện tu dưỡng thì con người
có thể hướng thiện trở lại. Từ khái niệm Nhân và Lễ của Khổng Tử, Mạnh
Tử đề ra thêm khái niệm Nghĩa và Trí.
Mạnh Tử cũng nhắc đến vấn đề mệnh trời hay thiên mệnh, nhưng lại
khơng cứng nhắc, ví dụ như đối với Trụ Vương, ông cho rằng loại vua bạo
chúa như vua Trụ, có thể giết, lúc đó thiên mệnh thiên tử khơng cịn nằm
trên vủa Trụ nữa rồi, giết Trụ Vương cũng như giết một tên ác ơn bình
thường mà thơi.

1.1.2.2 Tuân Tử
a) Người vốn tính ác
Trong khi Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ, tính bản thiện” thì Tn Tử
lại chắc chắn rằng “ Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã”, tức là người
vốn tính ác, những điều thiện là do con người đặt ra. Nếu đễ tính ác ấy phát
triển tự nhiên, sẽ dẫn tới hỗn loạn và tranh giành, thế nên phải vừa tăng

cường lễ nghĩa giáo hóa, vừa dùng quy định đạo đức xã hội để sửa đổi nó,
để con người hướng tới cái tốt đẹp, cái thiện.
b) Con người là tác nhân của xã hội
Tuân Tử tìm thấy trong quá trình tự nhiên những đường lối chỉ đạo cho
con người, vì giới tự nhiên vận động và biến hóa của nó hồn tồn khách
quan : “Trời vận hành theo quy luật thường chứ không vì một người nào
cả”. Đạo trời chẳng liên quan gì tới đạo người; xã hội trị hay loạn đều do
bởi con người. Điều này khác với Mạnh Tử cho rằng mệnh nằm trong tay
trời.
Cho rằng bản tính con người là ác, Tuân Tử đề ra phải thuần hóa bằng
lễ giáo. Như vậy, những nghi thức tới sơ Chu, đối với Khổng Tử là thước
đo hạnh kiểm, nhưng đối với Tuân Tử, ơng nhìn Lễ như phương cách kiểm
sốt cuộc sống của những kẻ chưa được thuần hóa đầy đủ để trở nên thiện
hảo. Vẫn theo đuổi phương thức Nhân trị của Khổng Tử, nhưng Tuân Tử
sử dụng Lễ là công cụ trợ huấn, kiểm soát xã hội


lOMoAR cPSD| 32721247

1.1.2.3 Tân Nho giáo
Ba triết gia thời Tiên Tần là Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Từ hình thành
căn bản tư tưởng thời kì đầu của Nho giáo, sau này được phát triển biến thể, và
nâng cấp thành quốc giáo của trung Hoa.
Trong ba thế khỉ cuối trước công nguyên, Nho giáo chấp nhận các nghi lễ.
Trong ý nghĩa ấy, nó bắt đầu mang chiều hướng ngày càng giống với một tôn
giáo hơn là một triết học đạo đức và xã hội như ý định nguyên thủy của những
người kiến lập nó. Đồng thời tư tưởng Nho giáo cũng bị ảnh hưởng bới lối mô
tả về sự quân bình trong tự nhiên, mang dạng thức Âm Dương của văn hóa
Trung Hoa đã hình thành từ rất sớm.
Nhận thức được giá trị trong việc cai trị và bình ổn thiên hạ của Nho giáo,

Đổng Trọng Thư, đã bổ sung và chỉnh sửa lại Nho giáo, được gọi là Hán Nho
và kiến nghị với Hán Vũ đế lấy Nho giáo làm quốc giáo, được xoay quanh Hán
Nho.
Những cải biên của Đổng Trọng Thư gồm có, ơng lấy ra ba giềng mối quân
thần, phu phụ, phụ tử trong Ngũ luân, đặt tên làm Tam Cương. Thêm Tín vào
trong Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, để trở thành Ngũ thường, năm phẩm chất chuẩn
mực và thường trực của Nho gia. Ngũ thường là thước đo đạo đức cá nhân,
Tam cương là luân lý xã hội phải tuân theo.
Như vậy Nho giáo đã được bậc quân vương sử dụng như mong muốn của
Khổng Tử, tuy nhiên, nó lại bị cải biên sửa đổi để mang tính bảo vệ giai cấp trị
vì nhiều hơn là mang đến một xã hội tốt đẹp, và cũng gạt bỏ đi tính đấu tranh
của Mạnh Tử, hơn qn có thể giết.
Các triều đại sau cũng phát triển Nho giáo đều có : Tống Nho, Nguyên Nho,
Minh Nho, nhưng cũng đều dựa vào Nho giáo của Hán Nho là chính mà không
tiến tới điều mà Khổng Tử mong muốn, nên xã hội bị kiềm hãm bởi Lễ, trở nên
chậm phát triển.
1.2 Tư tưởng Đạo Đức trong Nho giáo
Bàn về tư tưởng Đạo Đức trong Nho giáo, ta lấy năm đức hạnh chủ yếu
được gọi là Ngũ thường, và năm mối liên hệ là Ngũ Luân để phân tích.
Ngũ thường
Nhân :
Đạo Nho là đạo Nhân. Nhân là muốn làm cho kẻ khác điều ta muoonslamf
cho chính ta; từ đó, tiến tới việc tán thưởng ngủ cầu cảu kẻ khác. Mạnh Tử cho
rằng lịng vị tha phải hồn tồn vơ vị lợi : bạn nên làm điều phải vị tự thân nó
chứ khơng phải vì tiếng tốt và được khen ngợi.
Nghĩa:


lOMoAR cPSD| 32721247


Nghĩa nghĩa đenlà thích hợp, hành động thích hợp với Nhân, hợp với đạo
lý Nho giáo, đối lập với lợi. Nghĩa tức là thể hiện Nhân bằng hành động. Nho
giáo nguyên thủy xem Nghĩa là tiêu chuản của mọi hành động. Nho giáo
chuyên chú theo điều nghĩa không lợi lộc, chỉ vì muốn sáng đạo mà khơng tiếc
sức.
Lễ
Giữ đúng mọi lễ nghi làm nên lối sống thiện hảo của con người.
Trí
Ĩc khơn ngoan, sáng suốt. Đánh giá đúng và sai, biết tiên liệu, tính tốn đề
hành động hợp đạo lý.
Tín
Giữ dúng hẹn, thực hiện đúng những gì mình đã hứa, xứng đáng với lòng
tin tưởng của người khác.
Trong chương Cáo tử thượng, Mạnh Tử tóm kết :
“Lịng trắc ẩn, đó là Nhân; lịng hổ thẹn và biết ghét điều xấu, đó là
Nghĩa; lịng cung kính, đó là Lễ; biết phân biệt phải trái đúng sai, đó là Trí.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, khơng phải từ bên ngồi đúc nên, ta vốn có vậy.”

Ngũ luân
Ngũ luân tức là năm mối quan hệ trong xã hội và được khái quát cách hành
xử giữa những mối quan hệ đó như thế nào mới được gọi là hợp Lễ.
Ngũ luân của Mạnh Tử đề ra gồm có
- Phụ tử hữu thân : ý nghĩa cha con phải u thương, có tình thân, con
phải tôn trọng cha
- Quân thần hữu nghĩa : Vua tôi phải có nghĩa vua tơi, vua hành xử đúng
bổn phận của vua, bầy tôi phải làm đúng bổn phận của mình.
- Phu thê hữu biệt : Trong đạo vợ chồng có sự phân biệt nam/nữ phân
chia cơng việc
-


Trưởng ấu hữu tự : Anh em phải có thứ tự trước sau.

-

Bằng hữu hữu tín : Bạn bè phải có lịng tín nhiệm.

Các mối liên hệ và quy định trên đều có tính hai chiều, ví như vua mà
khơng làm trịn bổn phận là vua mà ăn chơi vô độ, bỏ bê việc nước, thì vua đó
khơng cịn là vua nữa, vị vua đó đã mất đi chính danh, mất đi mối liên hệ qnthần, nên thần khơng có bổn phận trung nữa, lúc này giết vua đối với thần


lOMoAR cPSD| 32721247

cũng như một kẻ bình thường. Như Mạnh Tử nói, ta chỉ biết vua Chu giết một
người tên Trụ chứ khơng biết có Trụ vương nào cả.
Tuy nhiên đây chính là điểm khiến cho các vua và chư hầu các nước thời
Xuân Thu - Chiến Quốc không chấp nhận Nho giáo. Cho đến khi Đổng Trọng
Thư, rút Ngũ luân lại thành Tam Cương (quân - thần, cha-con, vợ - chồng) và
giới hạn lại tính một chiều để bảo vệ giai cấp thống trị :
Quan hệ vua - tôi : là quan hệ phục tùng
Quan hệ cha - con : lấy Từ và Hiếu để duy trì mối quan hệ
Quan hệ vợ - chồng : chồng có bổn phận - vợ vâng lời làm thước đo
đạo đức trong quan hệ vợ chồng.
Như vậy để sử dụng Nho giáo làm công cụ cai trị và quản lý đất nước,
Đổng Trọng Thư đã bóp méo đi mối liên hệ trong xã hội theo hướng có lợi và
tập trung bảo vệ quyền lợi của vua, tập trung quyền lợi vào vua để từ thời Hán
Vũ đế, Trung Hoa từ nước Phong Kiến trở thành nước Quân Chủ chuyên chế.

CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VỚI VIỆT NAM.
2.1 Nho giáo đến Việt Nam

Năm 179 TCN, Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, và một số khu vực phía Nam,
trở thành vua của nước Nam Việt, tuy nhiên, Triệu Đà lại sống với phong tục
người dân Bách Việt, xem mình như người Bách Việt. Cho đến khi Hán Vũ đế
tiến hành cuộc mở mang bờ cõi quy mơ lớn, đánh đổ nhà Triệu thì nước ta
chính thức bị thuộc vào Trung Hoa. Tuy nhiên thời điểm ban đầu, Nho giáo
chưa được truyền vào, chưa có sự chèn ép về văn hóa, vẫn cịn những Lạc
Tướng - Lạc Hầu và người dân sống với phong tục Nam.
Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, và cuộc cải tổ của Mã Viện
thì Trung Hoa mới chính thức thúc đẩy sử đồng hóa về mặt văn hóa đối với
nước ta. Trong q trình đồng hóa đó, Nho giáo cũng được du nhập vào, người
đầu tiên giảng về Nho giáo cho người Việt là Sĩ Nhiếp, tuy nhiên chỉ dành cho
một số bộ phận nhỏ, bởi do nguồn tư liệu ít, số lượng người để học thì khơng
nhiều.
Cũng vào thời điểm đó, Phật giáo cũng đã du nhập vào nước ta, và có vẻ
phù hợp hơn với văn hóa người Việt, nên đã dễ dàng phát triển mạnh và chiếm
vị thế quan trọng đối với người Việt. Bên cạnh đó, lối sống thờ cúng ơng bà,
với tín ngưỡng phồn thực vốn có của người Việt, lại dễ hòa hợp với Đạo giáo


lOMoAR cPSD| 32721247

đến từ Trung Hoa hơn. Cho nên Nho giáo hồn tồn khơng thể cạnh tranh lại
trong thời điểm này.
Cho đến khi giành được độc lập sau chiến thắng của Ngô Quyền, năm 938,
cho đến thời Lý- Trần nước ta vẫn đề cao Phật giáo là quốc giáo, tuy nhiên Nho
giáo trong thời kỳ này cũng có sự phát triển vượt bậc. Từ thời Lý, bắt đầu thời
kỳ tạm ổn của xã hội, chính quyền nhận thấy sự ưu việt của Nho giáo trong
việc cai trị và quản lý đất nước nên đã thúc đẩy Nho giáo phát triển , văn miếu
các nơi được dựng lên, người học Nho càng nhiều, tổ chức thi cử, tuyển chọn
người tài đều thơng qua Nho giáo.

Đến thời Lê sơ, là thời kì cực thịnh của Nho giáo, phát triển cực kì, Nguyễn
Trãi là nhà Nho tiêu biểu. Thời ấy, người người học Nho, nhà nhà học Nho,
hình thành nên một tầng lớp gọi là Sĩ Phu, có sức ảnh hưởng nhất định đến
chính trị xã hội. Từ đó tư tưởng Nho giáo trở thành nịng cốt xun suốt trong
q trình lịch sử phong kiến tập quyền ở nước ta.

2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam

Để xét ảnh hưởng của Nho giáo, trước tiên ta cần phải hiểu rõ, Nho giáo du
nhập vào Việt Nam không phải là Nho giáo nguyên thủy của Khổng Mạnh, mà
tư tưởng Hán Nho do Đổng Trọng Thư cải biên và đề xướng. Vì vậy nó có
những hạn chế và khiếm khuyết so với đạo Nho của Khổng Mạnh.
Nho giáo ở Việt Nam sử dụng gần như nguyên mẫu của Hán Nho, sau này
là Tống Nho, (có lẽ khơng có đủ tài liệu để nghiên cứu về đạo Khổng Mạnh
nguyên thủy hoặc cũng có thể do chiến tranh, như lần nhà Minh sang xâm lược,
đốt thu sách, tàn phá văn hóa nặng nề, nên thất lạc, ta không thể biết), lấy Tam
cương Ngũ thường làm luân lý cho xã hội, là thước đo đánh giá đạo đức con
người. Tuy nhiên, do đặc tính ở người Việt và kết hợp các yếu tố Phật, Đạo nên
Nho giáo ở đây không khắt khe, rườm rà, như Tống Nho và Hán Nho

2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực của đạo đức Nho giáo đối với Việt Nam

Thứ nhất, Nho giáo lấy Nhân làm trọng, chú trọng đến con người, giúp đỡ
con người hướng đến điều tốt đẹp. Coi việc giúp đỡ người khác, là việc nên
làm và phải làm, điều này hồn tồn hịa hợp với truyền thống u nước, yêu
đồng bào của ta, và được chấp nhận như một lẽ tự nhiên. Hơn nữa, tư tưởng
của Nho giáo là nhập thế giúp người, giúp đời, không như tư tưởng tránh đời
của Đạo giáo, Phật giáo(thời đầu, Phật giáo Việt Nam vẫn mang tính nhập thế)



lOMoAR cPSD| 32721247

Thứ hai, các mối quan hệ trong Nho xây dựng nên phương châm đạo đức
để duy trì các mối quan hệ khơng phải gị ép, mà dựa trên những chuẩn mực
đạo đức như Hiếu, Nghĩa … làm con người hướng tới điều tốt đẹp, và đặc biệt
không sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề, giúp con người ơn hịa.
Thứ ba, Nho giáo đề cao Trung Nghĩa, Trung với nước, hòa hợp với tinh
thần yêu nước của người Việt tạo nên một tinh thần bất khuất, sẵn sàng hi sinh
vì đất nước, đấu tranh cho đất nước như cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là
các nhà Nho tiêu biểu

2.2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với Việt Nam

Thứ nhất, điểm yêu xuyên suốt của Nho giáo, từ Khổng Mạnh cho đến Tân
Nho giáo về sau, đó là trọng nam khinh nữ, vai trò của người phụ nữ chưa được
xem xét xứng đáng trong Nho giáo, chỉ là phận ngang hàng với tiểu nhân, nên
bị áp bức, chèn ép rất nhiều. Và đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm lý người
Việt cho đến hiện nay. Tuy nhiên điều này không thể hoàn toàn trách tội Nho
giáo, bởi xét một cách toàn diện và trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì đó là hậu
quả của q trình bước qua từ mơ hình Mẫu hệ sang Phụ hệ. Cả thế giới đều
gặp phải vấn đề đó, bởi vì đó là ý thức xã hội phát triển trong quá trình lịch sử
tự nhiên, là điều không thể tránh khỏi.
Thứ hai, Lễ giáo chính là bộ khung sắt đóng lại khơng cho con người vùng
vẫy, tư tưởng trở nên hạn hẹp, cứng nhắc, làm chậm sự phát triển của xã hội.
Ví như trường hợp vua Quang Trung ra Bắc đánh dẹp quân Thanh và vua Lê
Chiêu Thống, là hoàn toàn hợp đạo, tuy nhiên một số tầng lớp Sĩ Phu Bắc Hà,
lại không ra hợp tác với vua Quang Trung khi ngài ra chiếu cầu hiền. Đó là bởi
vì cái gơng cùm Lễ giáo đã trùm lên họ, họ chỉ biết trung với vua Lê. Tuy
nhiên đây là điểm yếu của Hán Nho để phục vụ cho giai cấp trị vì, khơng phải
của Nho giáo nguyên thủy.

Thứ ba, điểm mạnh của Nho giáo là tạo nên con người ơn hịa, khơng vũ
lực, thì đó cũng là điểm yếu. Khi đất nước cần đấu tranh cách mạng để giải
phóng, thì các nhà Nho lại chủ trương đấu tranh ơn hịa, như việc cụ Phan Bội
Châu với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hay cụ Phan Bội Châu với tư
tưởng “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Điều này hồn tồn khơng
phù hợp, giống như đứng cãi nhau với kẻ côn đồ không quan tâm lí lẽ, cái kết
chỉ có thất bại.
Thứ tư, một điểm yếu nữa là coi thường vai trò của lao động chân tay, Nho
gia ln tự cho mình cao quý hơn những người lao động chân tay.


lOMoAR cPSD| 32721247

CHƯƠNG III ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nho giáo đã có một thời gian tồn tại lâu đời ở nước ta, trong khoảng thời
gian đó nó đã khắc sâu những giá trị Nho giáo, dù tốt dù không tốt, vào trong
tâm lý người Việt và được truyền qua nhiều thế hệ trở thành mang tính truyền
thống. Đối với việc giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay, cần phát huy những
giá trị tốt có sẵn trong Nho giáo về những mặt tốt đẹp của Nhân Lễ Nghĩa Trí
Tín và triệt bỏ những tư tưởng khơng cịn phù hợp, như trọng nam khinh nữ,
coi thường lao động chân tay.
Ảnh hưởng của Nho giáo vừa có lợi và vừa có hại cho giáo dục đạo đức.
Lợi : Bởi sự hướng tới mối quan hệ, cũng cố mối quan hệ tốt đẹp của con
người, lấy Nhân làm trọng, Nho giáo có những điểm phù hợp với đạo đức hiện
nay như là : tơn sư trọng đạo, hiếu lễ … những điểm đó với việc giáo dục đạo
đức là có lợi vì nó nằm ăn sâu trong tâm lý người Việt từ xưa, lại vừa mang
tính kế thừa, truyền thống cho nên việc giáo dục là dễ dàng
Hại : Như những ảnh hưởng tiêu cực đã nhắc ở phần trước thì Nho giáo
mang tính trọng nam khinh nữ sâu sắc, điều này vẫn còn tồn tài cho đến ngày

nay, như sinh con phải có con trai, khơng được thì bên nhà chồng gây áp lực …
Cũng như các ảnh hưởng tốt, nó cũng đã ăn sâu vào trong tiềm thức người Việt
rất khó thay đổi, cần phải qua nhiều thế hệ, giáo dục dần dần mới thay đổi
được.


lOMoAR cPSD| 32721247

KẾT LUẬN
Nho giáo hình thành vốn đề cứu người dân khỏi sự loạn lạc, với những tư
tưởng đầy tính nhân văn, lây Nhân làm trọng của Khổng Tử được phát triển bởi
Mạnh Tử và Tuân Tử. Tuy nhiên, do quá trình phát triển của lịch sử, Nho giáo
lại trở thành cơng cụ của giai cấp trị vì để duy trì sự ổn định xã hội. Tuy nhiên
sự ổn định đó đã làm cho lịch sử Trung Hoa nói riêng và các nước ảnh hưởng
Nho giáo nói chung đi chậm hơn so với các nước phương Tây.
Về mặt đạo đức, Nho giáo đề ra những mối quan hệ giữa con người và con
người trên những nguyên tắc Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín, giúp hồn thiện con
người hướng con người đến điều tốt đẹp đó là việc tốt. Tuy nhiên việc đánh giá
con người dựa vào Lễ là quá cứng nhắc và khơng phải lúc nào cũng phù hợp,
ngồi ra Lễ giáo giúp ổn định nhưng cũng là gông cùm cho sự phát triển của xã
hội. Ngoài ra con sai lầm ở việc đánh giá sai vai trò của người phụ nữ và lao
động chân tay.
Ở Việt Nam Nho giáo được du nhập từ rất lâu và đã ảnh hưởng sâu sắc đến
tâm lý,tinh thần người Việt, những điểm tốt về đạo đức như Nhân : giúp đỡ
người khác, thương yêu con người, Lễ : tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa với cha
mẹ… dễ dàng phát huy, và duy trì nét đẹp trong văn hóa đạo đức ngày nay.
Tuy nhiên những tàn dư về việc trọng nam khinh nữ, cần được xóa bỏ, và đó là
một q trình lâu dài không thể vội vàng trong một hai thế hệ.



lOMoAR cPSD| 32721247

TÀI LIỆU THAM KHẢO

NGUYỄN ƯỚC (2009) ,ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG,
NXB TRI THỨC



×