Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Chức năng công tố của viện kiểm sát nhân dân thành phố thái bình, tỉnh thái bình trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.44 KB, 60 trang )

Chuyên đề thực tập ngành Luật

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụnghình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

KDTM

: Kinh doanh thương mại.



TBTP

: Tin báo tội phạm

HN

: Hôn nhân

DS

: Dân sự



: Lao động

HC

: Hành chính

THA

: Thi hành án.

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa


Chuyên đề thực tập ngành Luật
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ CHỨC NĂNG
CƠNG TỐ CỦA VKSND TRONG TỐ DỤNG HÌNH SỰ.............................5
1.1. Tổng quan về chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự 5
1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố và thực hành quyền cơng tố trong tố tụng
hình sự.............................................................................................................5
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.....................9
1.2. Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra...................................13
1.2.1. Chủ thể, đối tượng và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra..............................................................................................................13
Viện kiểm sát là cơ quan được Nhà nước giao thực hành quyền cơng tố trong
tố tụng hình sự . Do đó, Viện kiểm sát cũng chính là chủ thể thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra........................................................................13
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.................13
1.3. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự..............................................................................................................15
1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự.........................................................................16
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI
BÌNH NĂM 2015...............................................................................................18
2.1. Tổng quan về VKSND thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình...................18
2.1.1. Vị trí pháp lý, thẩm quyền của VKSND thành phố Thái Bình...........18
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ:.....................................................................18
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND thành phố Thái Bình........19
2.1.4. Kết quả thực hiện các chức năng nhiệm vụ của VKSND thành phố
Thái Bình trong năm 2015............................................................................21
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.............25
2.2.1. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

trong lĩnh vực hình sự:..................................................................................25
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa


Chuyên đề thực tập ngành Luật

2.2.2. Công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật..................................................................................38
2.2.3. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính...........40
2.2.4. Cơng tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp..........................................................................................41
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN
THỰC HÀNH CƠNG TỐ CỦA VKSNDTHÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH
THÁI BÌNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ..................................................44
3.1. Đánh giá thực hành quyền cơng tố của VKSND thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình trong tố tụng hình sự.......................................................................44
3.1.1. Thành tựu............................................................................................44
3.1.2. Hạn chế...............................................................................................49
3.2. Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trong tố
tụng hình sự......................................................................................................52
3.2.1. Nâng cao chất lượng khởi tố vụ án hình sự, thực hiện có hiệu quả các
biện pháp thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự...................................................................................................................52
3.2.2. Nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa..............53
3.2.3. Đổi mới cơng tác quản lý, chỉ đạo điều hành trong việc tổ chức thực
hiện quyền công tố........................................................................................53
KẾT LUẬN........................................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................56


MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa


Chuyên đề thực tập ngành Luật
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Viện kiểm sát nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành của bộ
máy nhà nước, đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp
luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng vô cùng quan trong của hệ thống
cơ quan này, thời gian qua cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ
trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND). Với vai trò là một thiết chế đặc trưng trong bộ máy
nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp,
yêu cầu, nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành kiểm sát đặt
ra rất nặng nề. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu trên đã được
khẳng định ở Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ
luật tụng dân sự năm 2013. Vì vậy, cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt
động công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong Tố tụng hình sự của Viện kiểm
sát là một đòi hỏi cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một
số nhiệm vụ trong tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48/
NQ-TW “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020”, trong đó có nội dung: “Hồn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức
năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện
công tố” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020” Bộ luật tố tụng hình sự đã có những qui định thể hiện tinh thần
đó.
Đến nay, sau nhiều năm triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng,
công tác tư pháp đã đạt được những kết quả cụ thể, đáng khích lệ, đánh dấu những
biến chuyển tích cực trong cơng tác tư pháp, đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

1


Chuyên đề thực tập ngành Luật
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân:
Đã khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ
bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh
chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết
được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh….
Tuy nhiên, thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cịn cho
thấy có nhiều hạn chế trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án. Vì vậy, để góp phần
bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu,
làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn quyền cơng tố trong tố tụng hình sự là vấn đề
cần thiết hiện nay nên em đã lựa chọn đề tài “Chức năng công tố của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trong tố tụng hình sự ” làm chun đề
khóa luận của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục đích của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu chức năng để làm rõ vai trò của Viện kiểm sát trong
thực hiện chức năng công tố cả về mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận về chức năng công tố, đồng thời xác định thực trạng thực hành
quyền công tố ở Thành phố Thái Bình , tỉnh Thái Bình cũng như tìm nguyên nhân

của những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
b. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền cơng tố trong tố tụng hình
sự.
- Nghiên cứu việc thực hiện chức năng công tố trong một số mô hình tố tụng
hình sự tiêu biểu trên thế giới.
- Nghiên cứu về chức năng công tố theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố ở đại bản thành phố Thái
Bình trong những năm gần đây, tìm ra những nguyên nhân của những kết quả đạt
được và những tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp kiến nghị nâng
cao hiệu quả thực hành quyền cơng tố trong q trình giải quyết vụ án hình sự.
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

2


Chuyên đề thực tập ngành Luật

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ thực tập tại Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thái Bình,
tỉnh Thái Bình chuyên đề tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về
quyền công tố và thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự, thực trạng thực
hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận của Chuyên đề là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng
như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý khác có liên quan.
- Chuyên đề sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về

mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch
sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết,
báo cáo tổng kết năm 2015 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình.
Ngồi ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các cơng trình đã cơng
bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn
đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Thái Bình.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của chuyên đề
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Chuyên đề đặt cho mình các nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật về thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, phân tích khái niệm, nội
dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền cơng tố của
Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội
dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành
quyền công tố của Viện Kiểm sát trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự tại Viện kiểm sát thành phố Thái Bình, đồng thời phân tích
những tồn tại xung quanh các quy định trong bộ luật tố tụng hình sự thể hiện
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

3


Chuyên đề thực tập ngành Luật
nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng nhằm kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
quyền thực hành công tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái
Bình trong tố tụng hình sự.
6. Bố cục của chun đề.

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận chuyên đề
gồm 3 chương, các đề mục với cơ cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về chức năng công tố của vksnd trong tố
dụng hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chức năng cơng tố của VKSND thành phố Thái
Bình, Tỉnh Thái Bình trong tố tụng hình sự.
Chương 3: Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quyền thực hành công tố của
VKSND thành phố Thái Bình, Tỉnh Thái Bình trong tố tụng hình sự.

MSV: 12145116 – Phạm Xn Hịa

4


Chuyên đề thực tập ngành Luật

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ CHỨC NĂNG CÔNG TỐ
CỦA VKSND TRONG TỐ DỤNG HÌNH SỰ.
1.1. Tổng quan về chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền cơng tố và thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự.
Để xác định đúng đắn bản chất quyền công tố và đưa ra khái niệm quyền công
tố phải xuất phát từ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, coi quyền công tố là
quyền lực cơng, quyền đó thuộc về Nhà nước, được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì
trật tự xã hội bằng pháp luật để bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị và lợi ích chung.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều ý kiến khác nhau về quyền cơng tố.
Có ý kiến cho rằng: Quyền cơng tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá
nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật. Với tư cách là một quyền năng của Nhà nước,
quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp
luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng

hành chính. Như vậy, theo ý kiến này, sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố
tụng nêu trên là do nhu cầu khách quan. Bởi vì, Nhà nước khơng thể khơng thể hiện
quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật, và sự hiện diện công
tố như một điều kiện bảo đảm tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật
của cơ quan tài phán.
Bên cạnh đó cũng có ý kiến: Quyền cơng tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội . Như vậy, theo ý
kiến này, quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Theo chuyên đề nghiên cứu, quyền cơng tố chỉ có thể được xem xét trong mối
liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền không thể
tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh cơng quyền) chống lại hình thức vi
phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Vì vậy, em
cũng đồng ý với ý kiến cho rằng: quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình

MSV: 12145116 – Phạm Xn Hịa

5


Chuyên đề thực tập ngành Luật
sự. Vậy quyền công tố trong tố tụng hình sự được hiểu như thế nào?
Ở nước ta hiện đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền
cơng tố trong tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Theo quan điểm này, công tố
không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một quyền năng, một
hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiểu khái niệm
quyền công tố trên là chưa chính xác, và dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền
công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công.
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát tiến hành trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm (tức là việc truy tố bị can ra trước Tòa án và buộc tội tại
phiên tịa). Chúng tơi cho rằng, quan điểm này đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung,
phạm vi quyền công tố và không phản ánh được bản chất của quyền này. Trên thực tế,
hoạt động truy tố và buộc tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa chỉ là một số trong các
quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố.
Theo em , để xác định đúng đắn khái niệm quyền công tố cần làm rõ một số vấn
đề sau:
a. Chủ thể quyền công tố.
Muốn hiểu đầy đủ về chủ thể quyền công tố, em đề cập đến một vấn đề ít nhiều
có liên quan, đó là quyền tư tố. Tư tố là một chế định pháp lý thuộc loại cổ xưa nhất
mà pháp luật cổ đại cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để
khởi kiện, khởi tố chống lại người đã thực hiện những hành vi xâm phạm đến các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Quyền này do người bị hại trực tiếp thực hiện, nhân danh cá nhân bảo vệ các lợi
ích của bản thân mình trước Tịa án (hoặc có thể nhờ người khác thay mặt mình thực
hiện quyền này). Dù pháp luật dành cho người bị hại quyền tư tố nhưng họ (hoặc
người thân thích của họ) rất ít khi sử dụng. Để tiến hành một vụ án hình sư, người ta
mất rất nhiều thời gian, tiền của và công sức. Vì thế, khơng phải ai cũng có điều kiện
và khả năng để làm. Mặt khác, việc pháp luật cho phép cá nhân bị hại có quyền hịa
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

6


Chuyên đề thực tập ngành Luật
giải, thỏa thuận với người phạm tội đã dẫn đến nhiều vụ án nghiêm trọng (xét ở góc độ
trật tự xã hội) khơng bị xét xử và trừng trị. Điều này làm cho pháp luật không được
tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, công bằng xã hội khơng được bảo đảm.
Vì vậy, Nhà nước thấy cần thiết phải can thiệp vào quá trình giải quyết các vụ
án mà người bị hại không muốn thực hiện quyền tư tố. Như vậy, từ chỗ vận hành chủ

yếu dựa vào quyền tư tố, tố tụng hình sự chuyển sang vận hành dựa vào quyền cơng tố.
Chính điều đó đã làm cho vai trị của chủ thể quyền cơng tố trở nên hết sức quan trọng
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Như vậy, Nhà nước là người nhân danh
xã hội thay mặt xã hội đứng ra trừng phạt kẻ phạm tội. Điều đó cũng có nghĩa Nhà
nước chính là chủ thể của quyền cơng tố.
b. Phạm vi của quyền công tố.
Ở nước ta hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về phạm vi quyền công
tố mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện.
Quan điểm thứ nhất: Phạm vi quyền công tố chỉ bao gồm hai giai đoạn của hoạt
động tư pháp hình sự là truy tố bị can ra trước Tòa án, buộc tội bị can tại phiên tòa, và
chấm dứt khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, quyền công tố chỉ tồn tại ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm. Với quan điểm trên, khó mà cắt nghĩa được các hoạt động tố
tụng khác, ví dụ: quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thuộc quyền gì? hoặc, việc
kháng nghị các quyết định hay bản án có sai lầm hoặc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng là thuộc nội dung của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật hay thuộc
nội dung quyền công tố? Theo em , truy tố người phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc
buộc tội tại phiên tòa chỉ là một trong số quyền năng cụ thể thuộc nội dung quyền công
tố, không thể coi là phạm vi quyền công tố.
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc
khi người phạm tội chấp hành xong bản án. Như vậy có nghĩa là quyền cơng tố được
thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án. Quan điểm này đã quá mở rộng phạm vi bắt đầu và kết thúc
của quyền công tố.
Tán thành với quan điểm được đa số thừa nhận, đó là: Phạm vi quyền công tố
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

7


Chuyên đề thực tập ngành Luật

bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật,
khơng bị kháng nghị. Theo em, khi hành vi phạm tội được thực hiện, bổn phận của cơ
quan cơng tố là phải (và có quyền) tiến hành ngay các hoạt động tố tụng theo quy định
của pháp luật nhằm phát hiện tội phạm và người phạm tội, xác định các căn cứ để kết
tội họ. Còn trên thực tế, cơ quan cơng tố có phát hiện, điều tra kịp thời tội phạm và
người phạm tội hay khơng thì đó lại là vấn đề khác.
c. Đối tượng của quyền công tố.
Đối tượng của quyền công tố được hiểu là cái mà quyền công tố tác động vào
nhằm đạt được mục đích buộc tội và trừng phạt kẻ phạm tội. Do xuất phát từ các quan
niệm khác nhau về quyền công tố nên nhận thức về đối tượng của quyền này cũng
khác nhau. Có quan điểm coi sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là đối tượng của quyền công tố. Với
quan niệm quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự buộc tội (thực hiện việc
truy cứu tố tụng hình sự) đối với người phạm tội, chúng tơi đồng ý với quan điểm cho
rằng: Đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội.
d. Nội dung của quyền công tố.
Nội dung quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội. Trong hoạt động tố tụng hình sự ln ln tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản:
chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội), chức năng xét xử. Buộc tội, với tư
cách là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể và thực chất đó
chính là hoạt động truy cứu tố tụng hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội (cơ
quan thực hiện chức năng buộc tội) có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối
với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cụ thể cho sự
cáo buộc đó. Và trong chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước
(nhân danh quyền lực công) giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng.
Từ những vấn đề về chủ thể, phạm vi, đối tượng và nội dung của quyền công tố,
theo chúng tôi: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội


MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

8


Chuyên đề thực tập ngành Luật
phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này,
cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu
thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó
quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tồ”.
1.1.2. Khái niệm thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự.
Khi nghiên cứu về thực hành quyền công tố, trong giới luật học hiện nay còn
tồn tại hai xu hướng khác nhau:
Một là, họ gắn việc thực hành quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ
khác của những Công tố viên trong tố tụng hình sự.
Hai là, họ chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: Lập cáo trạng và luận tội
trước phiên tịa sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền cơng tố, thậm chí có
người cịn cho rằng thực hành quyền cơng tố chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa sơ
thẩm. Gần đây có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về thực hành quyền công tố
hoặc nghiên cứu về các vấn đề pháp lý khác trong đó có một số vấn đề liên quan đến
thực hành quyền công tố mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra được một số biện pháp để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử
hình sự, kiểm sát giam, giữ và cải tạo, kiểm sát thi hành án. Các cơng trình này vận
dụng những nguyên lý của V.I Lênin về pháp chế xã hội chủ nghĩa và vai trò của Viện
kiểm sát, về vai trị và bộ phận của ủy viên cơng tố làm cơ sở lý luận và lấy các quy
định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến nay làm
cơ sở pháp lý. Bởi vậy trong nhận thức của khơng ít những người làm công tác nghiên
cứu và thực tiễn trong cũng như ngồi ngành kiểm sát đã nhầm lẫn quyền cơng tố với
thực hành quyền công tố trên nhiều phương diện như đối tượng, nội dung, phạm vi.
Đồng thời các cơng trình này luôn gắn quyền công tố chỉ với Viện kiểm sát, coi đó là

quyền của Viện kiểm sát. Do đó đã không lý giải được một số vấn đề là khi một số cơ
quan khác (Cơ quan điều tra, Tòa án...) sử dụng một số biện pháp như khởi tố vụ án,
khởi tố bị can... thì có phải các cơ quan này cũng thực hành quyền công tố hay không.
Để thực hiện quyền lực nhà nước trên một lĩnh vực cụ thể thì nhà nước tổ chức
ra một hệ thống cơ quan nhất định để thực hiện quyền lực đó. Hệ thống cơ quan này
đóng vai trị chính trong sự phối hợp cùng với cơ quan nhà nước khác để thực hiện

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

9


Chuyên đề thực tập ngành Luật
quyền lực nhà nước đã được xác định. Ở các nước, đa phần họ thành lập cơ quan công
tố để thực hành quyền công tố với các quyền hạn, trách nhiệm tố tụng trong suốt quá
trình điều tra, truy tố, xét xử của tố tụng hình sự.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định Tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm
2013 có quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp” và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy
định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, thực hành quyền
công tố là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân.
Về bản chất, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (Khoản 1, Điều 3
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền cơng tố trong
tố tụng hình sự như sau:
Thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự là việc cơ quan công tố/ Viện

kiểm sát sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội và
tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2.1. Chủ thể thực hành quyền công tố.
Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện việc truy cứu tố tụng hình sự
đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một
cơ quan thực hiện. Ở nước ta, theo các quy định của pháp luật thực định, Viện kiểm sát
là cơ quan được Nhà nước giao chức năng thực hành quyền công tố. Trong Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 có đề cập đến việc nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố. Do vậy,
nếu Viện kiểm sát chuyển thành viện cơng tố thì chủ thể thực hành quyền công tố khi

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

10


Chun đề thực tập ngành Luật
đó sẽ là viện cơng tố.

1.1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố.
Tại Khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 xác định: "Thực
hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ
khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự". Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố của mình trong những lĩnh vực sau:
- Thực hành quyền cơng tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
- Thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn truy tố tội phạm.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Điều tra một số loại tội phạm
- Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
1.1.2.3. Đối tượng thực hành quyền công tố.
Quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện việc truy cứu tố tụng hình sự
đối với người phạm tội. Do đó, đối tượng của thực hành quyền cơng tố chính là việc
truy cứu tố tụng hình sự đối với người phạm tội.
1.1.2.4. Nội dung thực hành quyền công tố.
Nội dung thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố
tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người khơng có tội. Theo đó,
nội dung thực hành quyền công tố bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố: khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

11


Chuyên đề thực tập ngành Luật
Thứ hai, hoạt động thực hành quyền công tố tiếp tục được thực hiện bởi Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra, được quy định tại Điều 165 Bộ luật tố tụng hình sự
2015 như yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan
điều tra thay đổi điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn; quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều

tra...
Thứ ba, những hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự như: đọc cáo trạng, quyết định của viện kiểm sát liên quan
đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm;
tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm (Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2013 ).
Từ những nội dung trình bày trên, chúng tôi cho rằng: Thực hành quyền công tố
là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để
thực hiện việc truy cứu tránh nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn
điều tra, truy tố và xét xử. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Viện kiểm sát là
chủ thể thực hành quyền công tố.
Như vậy, quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm khác
nhau. Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh quyền lực công thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nói đến quyền cơng tố là nói đến
một phạm trù lý luận. Ngược lại, thực hành quyền công tố lại là một phạm trù thực
tiễn, là việc tổ chức thực hiện quyền cơng tố.

MSV: 12145116 – Phạm Xn Hịa

12


Chuyên đề thực tập ngành Luật
1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
1.2.1. Chủ thể, đối tượng và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra.
Viện kiểm sát là cơ quan được Nhà nước giao thực hành quyền cơng tố trong tố
tụng hình sự . Do đó, Viện kiểm sát cũng chính là chủ thể thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra.
Đối tượng của thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Do đó, đối tượng của thực hành quyền
cơng tố trong giai đoạn điều tra chính là việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong giai đoạn này.
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
được quy định tại Điều 165 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015, gồm những nhóm hoạt
động sau: hoạt động khởi động cơng tố, hoạt động duy trì cơng tố và hoạt động kết
thúc công tố.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra.
Q trình tố tụng hình sự được chia thành các giai đoạn khác nhau với những
hoạt động khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ở nước ta hiện nay có nhiều
quan điểm về việc phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự. Có quan điểm cho rằng,
q trình tố tụng hình sự gồm 5 giai đoạn: Khởi tố vị án hình sự, điều tra vụ án hình
sự, truy tố người phạm tội, xét xử và thi hành án. Bên cạnh đó cũng tồn tại quan điểm
q trình tố tụng hình sự gồm 7 giai đoạn: Khởi tố vụ án hình sự điều tra vụ án hình
sự, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc thẩm Vụ án hình sự, thi hành án
và giai đoạn đặc biệt (giám đốc thẩm và tái thẩm). Như vậy, dù có nhiều quan điểm
khác nhau về việc phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra vụ án hình sự vẫn
là giai đoạn khơng thể thiếu, có vị trí và vai trị riêng trong q trình tố tụng hình sự.
Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ:
- Thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho
việc truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
- Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

13


Chuyên đề thực tập ngành Luật

quyết vụ án;
- Tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu
quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa;
- Góp phần phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân.
Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trị như vậy, nên việc xác định đúng phạm vi
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn này là cần thiết. Theo Điều
165 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, khi tiến hành thực hiện các hoạt động thực hành
quyền công tố, bên cạnh việc thực hiện những hoạt động của giai đoạn điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân còn thực hiện những hoạt động của giai đoạn khởi tố (quyết định
khởi tố vụ án), giai đoạn truy tố (quyết định truy tố bị can, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ
án). Theo đó, phạm vi thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra bao
trùm lên hoạt động khởi tố, điều tra và quyết định việc truy tố. Từ đó cho thấy, phạm
vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là phạm vi thực hành quyền công
tố của giai đoạn trước xét xử sơ thẩm.
Trong giai đoạn điều tra, với các quyền năng cụ thể của mình khi thực hành
quyền cơng tố, Viện kiểm sát đã hình thành mối quan hệ vừa phối hợp vừa chế ước với
cơ quan điều tra. Hoạt động của cơ quan điều tra và Viện kiểm tra được quy định trong
luật tố tụng hình sự đều có mục đích là nhằm phát hiện và điều tra xử lý tội phạm một
cách nhanh chóng, có hiệu quả và đúng pháp luật.
Sự phối hợp giữa Viện kiểm sát với cơ quan điều tra không phải là Viện kiểm
sát làm thay cơ quan điều tra mà sự phối hợp đó được biểu hiện qua những hoạt động
sau: Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều tra làm cho việc điều tra được thực hiện một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát có thể
trực tiếp áp dụng những biện pháp tố tụng hình sự như: Khởi tố vụ án; khởi tố bị can;
áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi trực tiếp phát hiện tội phạm
hoặc cơ quan điều tra bỏ lọt tội phạm hoặc những trường hợp khẩn cấp không cần thiết
phải chuyển cho cơ quan điều tra thực hiện.
Mối quan hệ chế ước của Viện kiểm sát và cơ quan điều trả thể hiện qua việc:
Yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan
điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật, nếu hành vi của điều tra

viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; yêu cầu truy nã bị can; phê chuẩn
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

14


Chuyên đề thực tập ngành Luật
hoặc không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; hủy bỏ các quyết định trái
pháp luật của cơ quan điều tra.
Như vậy, khi thực hành nội dung quyền công tố trong giai đoạn điều tra, mối
quan hệ giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra vừa phối hợp vừa chế ước tạo ra sự
liên hệ ràng buộc nhất định, nhưng không phải là mâu thuẫn, loại trừ nhau. Viện kiểm
sát không làm thay, cũng không hạn chế hoặc cản trở việc điều tra của cơ quan điều
tra, cơ quan này tạo điều kiện để cơ quan kia thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm
vụ của mình.
Từ khái niệm về thực hành quyền cơng tố nói chung, cũng như qua việc nghiên
cứu về chủ thể, phạm vi, đối tượng và nội dung của hoạt động thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra, chúng tôi đưa ra khái niệm: Thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong giai đoạn tố tụng trước xét xử sơ thẩm.
1.3. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự.
Các quyền năng của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử bao gồm:
- Duy trì quyền cơng tố tại phiên tịa sơ thẩm bằng các hoạt động như cơng bố
bản cáo trạng hoặc quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án
tại phiên tòa; luận tội đề nghị kết tội bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ cáo trạng và đề
nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội; tham gia thẩm vấn bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác như người bị hại, người liên quan, nhân chứng...,

tranh luận với luật sư và những người tham gia tố tụng tại phiên tịa... để làm rõ thêm
các tình tiết có liên quan đến vụ án và các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều
tra cũng như tại phiên tòa, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Thực chất
đây chính là các hoạt động bảo vệ quyết định truy tố nhằm buộc tội bị cáo, làm cơ sở
để cho bản luận tội vừa có căn cứ pháp luật vừa phù hợp với các tình tiết thu thập được
qua quá trình điều tra và diễn biến của việc điều tra cơng khai tại phiên tịa, vừa có tính
thuyết phục, giáo dục, phịng ngừa tội phạm, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội.
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

15


Chuyên đề thực tập ngành Luật
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm; kháng nghị các bản án, quyết định của Tịa án.
Tóm lại, tất cả các vấn đề mà Viện kiểm sát có quyền quyết định trong các giai
đoạn khác nhau của tố tụng hình sự như nêu trên chính là nội dung của thực hành
quyền công tố. Vậy, nội dung của thực hành quyền công tố là tất cả các quyền năng
pháp lý mà pháp luật quy định cho cơ quan được giao thẩm quyền (ở nước ta, cơ quan
đó là VKSND) để sử dụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành
vi phạm tội.
1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015, trong tố tụng hình sự Viện kiểm sát có hai chức năng là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự. Đây là hai chức năng độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau.
Việc thực hiện hai chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội

đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội. Bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan
tư pháp tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mối quan
hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tn theo pháp luật trong tố tụng
hình sự có một số điểm nổi bật:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự đều bắt đầu từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra hoặc sự việc có dấu hiệu tội
phạm. Song thời điểm kết thúc của từng hoạt động có khác nhau. Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự kéo dài đến khi bản án hình sự được thi hành
xong. Thực hành quyền cơng tố chấm dứt khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị
kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự thống nhất với nhau ở mục đích hoạt động, nên thường xuyên tác động lẫn
nhau, nhằm đáp ứng các yêu cầu của tố tụng hình sự là chống lọt người, lọt tội, chống
MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

16


Chuyên đề thực tập ngành Luật
oan, sai và vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự đều do một chủ thể tiến hành là Viện kiểm sát, người trực tiếp thực hiện hoạt
động này là Kiểm sát viên ở các cấp kiểm sát dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Như vậy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự có quan hệ chặt chẽ, tác động, ảnh hưởng đến nhau. Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật có hiệu quả là điều kiện đảm bảo thực hành quyền cơng tố đúng đắn,
chính xác, khách quan và ngược lại. Đảm bảo mục đích mọi hành vi phạm tội đều phải

được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội.
Tại Hội nghị triển khai công tác năm 2014, đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã quán triệt cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp: Cần có cách nhìn
tồn diện, đầy đủ về quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra; tăng
cường hơn nữa vai trò chủ động của chúng ta trong quá trình điều tra và tăng cường
trách nhiệm công tố, gắn công tố với điều tra nghĩa là chúng ta phải song hành với cơ
quan điều tra trong điều tra, làm rõ tội phạm; phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều
tra để tìm giải pháp phát hiện, xử lý tội phạm khẩn trương nhất. Khi phát hiện một
thiếu sót, hạn chế trong q trình điều tra, cần coi đó là thiếu sót, hạn chế của chính
chúng ta để cùng cơ quan điều tra tìm biện pháp khắc phục. Khi kiểm sát

điều tra,

chúng ta giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, đảm bảo việc điều tra
có căn cứ, đúng pháp luật. Chúng ta kiên quyết không phê chuẩn đối với những quyết
định tố tụng vi phạm pháp luật hoặc khơng có căn cứ. Mục tiêu của hoạt động kiểm sát
điều tra là nhằm hỗ trợ thực hành quyền công tố được tốt, bảo đảm việc truy tố có căn
cứ, đúng pháp luật. Do vậy, yêu cầu của việc tăng cường trách nhiệm cơng tố địi hỏi
chúng ta cùng với cơ quan điều tra khắc phục những vi phạm, tồn tại trong q trình
điều tra, bảo đảm khơng để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

MSV: 12145116 – Phạm Xuân Hòa

17




×