Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

TỔ CHỨC và HOẠT ĐỘNG của cơ QUAN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CÔNG tố ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.22 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ THƠM

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Thái Vĩnh Thắng

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ quan thực hiện chức năng công tố

4


1.1. Công tố và cơ quan thực hiện chức năng công tố

4

1.2. Mô hình cơ quan thực hiện chức năng công tố ở một số nước trên thế

13

giới
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng

23

công tố ở Việt Nam
2.1. Sự hình thành và phát triển của cơ quan thực hiện chức năng công tố

23

ở Việt Nam
2.2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công tố ở

35

Việt Nam theo pháp luật hiện hành
2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng

45

công tố ở Việt Nam
Chương 3: Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức


54

năng công tố ở Việt Nam
3.1. Nhu cầu đổi mới cơ quan thực hiện chức năng công tố ở Việt Nam

54

3.2. Quan điểm đổi mới

58

3.3. Phương hướng đổi mới

60

KẾT LUẬN

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ quan thực hiện chức năng công tố là một thiết chế trong hệ thống cơ

quan nhà nước, thực hiện một trong những chức năng của Nhà nước. Việc tổ
chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công tố phụ thuộc vào sự
nhận thức và yêu cầu thực tiễn của mỗi giai đoạn.
Hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công tố ở Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn trong những năm qua. Tuy vậy, thực tiễn cho
thấy vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này
cần giải quyết. Một trong những nguyên nhân là lý luận về cơ quan này còn
chưa được làm sáng tỏ. Cho đến nay, vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất về
khái niệm quyền công tố và cơ quan thực hiện chức năng công tố.
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của cơ quan thực hiện chức năng công tố được đặt chung trong việc đổi mới
hệ thống cơ quan nhà nước. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra yêu cầu phải
đổi mới một cách toàn diện cơ quan này, đảm bảo thực hiện tốt chức năng
công tố, đảm bảo dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong thực tiễn khoa học pháp lý hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác
nhau về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công tố. Mô
hình cơ quan công tố trên thế giới cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia.
Do vậy, cần có sự nghiên cứu một cách khoa học về vấn đề này để đưa ra một
luận giải mang tính khoa học, có khả năng áp dụng vào thực tiễn.
Với tất cả các luận giải trên, việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan công tố là cần thiết, đảm bảo cho cơ quan này đáp ứng được
yêu cầu của công tác quản lý. Do vậy, người nghiên cứu đã chọn đề tài: “Tổ


2

chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công tố ở Việt Nam”

làm luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mô hình về cơ quan thực hiện chức năng công tố đã được nghiên cứu
từ trước đến nay nhằm tìm ra được một giải pháp tối ưu cho việc phát huy
hiệu lực và hiệu quả của cơ quan này.
Có thể kể ra một vài công trình nghiên cứu ở nước ta từ trước đến nay
như sau:
- Đề tài khoa học: Một số vấn đề về đổi mới của Viện kiểm sát nhân
dân do Phó Tiến sỹ Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm -1995 - bàn về sự cần thiết
của công tác đổi mới nhận thức về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân.
- Đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1999.
- Một số luận văn, luận án thạc sỹ, tiến sỹ; các bài báo, công trình
nghiên cứu đăng trên các tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
- Xem xét tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công
tố ở Việt Nam trong sự so sánh, đối chiếu với một số nước trên thế giới.
- Nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan thực hiện chức năng công tố ở Việt Nam.
- Đưa ra được quan điểm, phương hướng và giải pháp đổi mới cụ thể
nhằm phát huy được hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan
này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tố và cơ quan thực
hiện chức năng công tố.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài



3

Việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng
công tố ở Việt Nam dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam về cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Luận văn sử dụng kết hợp
các phương pháp lịch sử, so sánh đối chiếu, phân tích – tổng hợp, thống kê, tư
duy lôgic và phương pháp hệ thống.
6. Đóng góp mới của luận văn: Qua quá trình nghiên cứu, phân tích,
luận văn đã đưa ra mô hình Viện công tố ở Việt Nam với tính cách là cơ quan
thực hiện chức năng công tố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về cơ quan thực hiện chức năng công tố
Chương 2. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng công
tố ở Việt Nam
Chương 3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức
năng công tố ở Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
CÔNG TỐ
1.1. Công tố và cơ quan thực hiện chức năng công tố
1.1.1. Công tố
1.1.1.1. Khái niệm công tố
Công tố là khái niệm xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trong khoa học

pháp lý. Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, khái niệm này được hiểu khác
nhau.
Trong Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết, khái niệm công tố được
hợp thành bởi hai từ: “sự buộc tội” với tính cách là danh từ và “công” với tính
cách là tính từ. Từ “sự buộc tội” được dùng theo hai nghĩa: thứ nhất, đó là
“nội dung của sự buộc tội nêu trong quyết định khởi tố bị can, kết luận điều
tra, cáo trạng và bản án”; thứ hai, đó là “một loại hoạt động buộc tội của Nhà
nước, của xã hội, thậm chí của người bị hại hay người đại diện của người này
trong việc chứng minh lỗi của bị cáo”. Khi ghép từ “sự buộc tội” với từ
“công” thành “công tố” thì được hiểu là “sự buộc tội của Nhà nước đối với
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Trong tiếng Anh, công tố (prosecution) có nghĩa là quá trình lập luận
minh chứng ở Toà án một người nào đó đã phạm tội.
ở Việt Nam, về mặt lập pháp, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp
luật nào của Nhà nước ta chính thức giải thích nội dung của khái niệm này.
Về mặt khoa học, tại cuốn “Từ điển Tiếng Việt” in lần thứ 6, đợt 2 của Viện
ngôn ngữ do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên (Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung
tâm Từ điển Hà Nội - Đà Nẵng, 1998, trang 204) thì công tố có nghĩa là “điều
tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Toà án”.


5

Như vậy, có thể thấy, thuật ngữ công tố được hiểu rất khác nhau. Tuy
nhiên, giữa các khái niệm trên có một điểm chung, đó là: hiểu công tố là sự
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm pháp.
Có thể nói, công tố là một trong những hình thức cáo buộc người khác
thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Trong công tố, người thực
hiện sự cáo buộc ấy là Nhà nước, đối tượng bị cáo buộc không chỉ là một con
người cụ thể mà còn có thể là một pháp nhân và việc cáo buộc này không bị

hạn chế trong một lĩnh vực nào. Sự cáo buộc được thể hiện và tồn tại trong
nhiều lĩnh vực khác nhau tuỳ theo hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm
phạm tới quan hệ pháp luật nào. Vì vậy, công tố, theo người viết cần được
hiểu là sự cáo buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp
luật trước Toà án.
1.1.1.2. Đặc điểm của công tố
Thứ nhất, công tố là quyền. Khái niệm “tố” được hiểu là sự cáo buộc
công khai của một người hay một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về
hành vi vi phạm pháp luật, hành vi sai trái của người, tổ chức hoặc cơ quan
trước người hoặc cơ quan có thẩm quyền. Việc cáo buộc công khai là một
quyền của chủ thể và có thể thực hiện bằng các con đường khác nhau trong đó
có Nhà nước. Công tố là một hình thức biểu hiện của quyền lực Nhà nước.
Quyền công tố là quyền lực công đòi hỏi phải tố giác và xử lý các vụ việc
xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Toà án. Do vậy,
khi nói tới công tố cần được hiểu là quyền công tố. Khái niệm công tố và
quyền công tố đồng nhất với nhau.
Thứ hai, công tố là khái niệm pháp lý mang tính lịch sử. Công tố là
hình thức nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm
pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra trước Toà án để xét xử. Song, công tố
Nhà nước không đồng nghĩa với công tố xã hội. Công tố là sản phẩm của xã
hội có Nhà nước. Công tố xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp
luật.


6

“Quyền công tố là một bộ phận cấu thành của quyền lực Nhà nước.
Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người
phạm tội và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh
ra. Sự trừng phạt là quyền của Nhà nước, không thể chuyển giao cho

tư nhân. Mọi quyền của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời
cũng là nghĩa vụ của người đó đối với Nhà nước bởi vì bản chất phạm
tội của hành vi không phải là xâm phạm đến rừng cây với tính cách là
thứ vật chất mà xâm phạm đến hệ thần kinh của Nhà nước, đến quyền
sở hữu”.[9, tr218,219]
Quyền công tố gắn liền với bản chất của từng kiểu Nhà nước, gắn liền
với cách thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ở mỗi quốc gia với
những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Theo thời gian, sự phát triển,
hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng
Nhà nước giữa các cơ quan ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên
môn hoá; nhận thức xã hội về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá
nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước dần dần có sự can thiệp sâu hơn để
bảo vệ lợi ích cá nhân khi chúng bị vi phạm. Vai trò của công tố ngày càng
được đề cao. Và như vậy, có thể nói, khái niệm công tố, quyền công tố đồng
nghĩa với khái niệm công tố Nhà nước, quyền công tố Nhà nước.
Thứ ba, đối tượng bảo vệ của quyền công tố là lợi ích chung của Nhà
nước. Nhà nước, với tính cách là một quyền lực công cần phải duy trì trật tự
xã hội. Đây là nhu cầu tất yếu vì xã hội là môi trường tồn tại của Nhà nước.
Trật tự xã hội được duy trì mới là cơ sở bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ Nhà nước nào cũng phải quan
tâm. Trách nhiệm xã hội này thuộc về Nhà nước chứ không phải trách nhiệm
của cá nhân hay một nhóm người bởi vì Nhà nước nói chung dường như là
người nhân danh xã hội duy trì các xung đột trong vòng trật tự.
Thứ tư, công tố gắn liền song phải độc lập với quyền tài phán của Toà
án. Quyền công tố là quyền lực công, đòi hỏi phải tố giác và xử lý các vụ việc


7

xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Toà án nên

quyền công tố phải gắn liền với quyền tài phán của Toà án. Tuy nhiên, để
đảm bảo tính khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với
quyền tài phán của Toà án. Theo đó, về mặt nguyên tắc, công tố chỉ có thể do
một cơ quan thực hiện và được gọi là cơ quan công tố, đồng thời, quyền công
tố cũng phải được thể hiện ở những nội dung cụ thể.
1.1.1.3. Phạm vi của công tố
Phạm vi của quyền công tố xuất phát từ quan niệm về công tố, do vậy,
có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. ở các quốc gia khác nhau,
quan điểm chính thống được pháp luật ghi nhận về vấn đề này cũng khác
nhau. Có quốc gia cho rằng, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình
sự; có quốc gia lại cho rằng, quyền công tố có ở tất cả các lĩnh vực tố tụng
trong đó có tố tụng hình sự và các tố tụng khác ngoài tố tụng hình sự. Việc
xác định phạm vi của công tố có ý nghĩa quan trọng, tránh sự nhầm lẫn giữa
quyền công tố với tổ chức thực hiện quyền công tố, giữa quyền năng công tố
với thẩm quyền tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc quyền khởi
kiện của đương sự với quyền khởi tố của cơ quan công tố trong lĩnh vực tố
tụng khác ngoài tố tụng hình sự.
Về lý luận, cần xuất phát từ đặc điểm đối tượng bảo vệ của công tố là
những lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của xã hội để lý giải phạm vi của
quyền công tố. Những lợi ích chung đó biểu hiện trong những mối quan hệ xã
hội cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà
nước, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã hội. Những quan hệ
cơ bản và quan trọng đó không chỉ được xác lập và bảo vệ bằng pháp luật
hình sự, luật tố tụng hình sự mà còn có cả các lĩnh vực pháp luật khác như
dân sự, hành chính… Do đó, những hành vi phạm tội và những hành vi vi
phạm pháp luật khác liên quan đến lợi ích chung, lẽ tất nhiên, xâm phạm
trước hết đến một hoặc một số cá nhân trong cộng đồng. Nhưng cái chính là
nó xâm hại đến sự tồn tại của chế độ, đến hệ thần kinh của Nhà nước, của cả



8

xã hội. Điều này được thể hiện rõ nét nhất ở những hành vi phạm tội nên
quyền công tố được thể hiện rõ nét nhất, đậm nhất trong các giai đoạn của tố
tụng hình sự, còn trong các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính, lao
động thì quyền công tố dường như nhường chỗ cho quyền tự định đoạt của
các đương sự. Chỉ trong những trường hợp trật tự công cộng và lợi ích của
Nhà nước có nguy cơ bị xâm hại thì Nhà nước mới đứng ra để can thiệp.
Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho thấy, cơ quan công tố ở nhiều nước trên
thế giới đều được trao quyền nhân danh công quyền để can thiệp vào những
vụ án dân sự, hành chính, kinh tế quan trọng liên quan đến lợi ích công. ở
Việt Nam, theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thực hiện chức
năng công tố cũng thực hiện quyền công tố ở một số lĩnh vực hành chính, dân
sự, lao động… Do vậy, có thể khẳng định, phạm vi của công tố được thực
hiện trên tất các lĩnh vực. Tuy nhiên, giới hạn của quyền công tố đến đâu, sự
“nhường sân” cho tư tố để đảm bảo dân chủ, tự quyết của cá nhân là vấn đề
cần tranh luận, xin được phân tích cụ thể hơn ở chương ba.
1.1.1.4. Công tố và tư tố
Một trong những khái niệm có mối liên hệ chặt chẽ với công tố là tư
tố. Có thể nói, đây là những hiện tượng cùng tồn tại và phát triển không tách
rời nhau trong xã hội có Nhà nước. Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới đã
chỉ ra rằng: tư tố là một chế định pháp lý cổ xưa nhất mà pháp luật cổ đại cho
người bị hại hoặc người thân của người bị hại sử dụng để khởi kiện chống lại
người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền và lợi ích cá nhân.
Quyền đó của người bị hại hay người thân của họ được gọi là quyền tư tố và
các vụ án loại này có tên gọi là các vụ án tư tố.
Cơ chế vận hành của quyền công tố và tư tố có sự thay đổi về cơ bản
cùng với sự phát triển của xã hội. ở giai đoạn đầu của sự xuất hiện Nhà nước,
quyền công tố chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích công bao
gồm lợi ích Nhà nước và lợi ích chung liên quan đến cả cộng đồng. Việc bảo

vệ lợi ích cá nhân, Nhà nước không cần thiết và không can thiệp do quan


9

niệm đó là vấn đề riêng tư của cá nhân. Hơn nữa, bộ máy nhà nước còn hết
sức đơn giản, chưa có cơ quan chuyên trách để đảm nhận công việc này. Về
sau, cùng với sự phát triển và hoàn thiện bộ máy nhà nước, hệ thống pháp
luật, sự nhận thức của xã hội về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của
Nhà nước đối với xã hội, quan niệm này cũng thay đổi. Họ cho rằng, trong rất
nhiều trường hợp, khi lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công cũng bị
xâm hại hoặc bị đe doạ xâm hại. Chính vì vậy, vai trò của công tố ngày càng
được đề cao, còn tư tố ngày càng mờ nhạt, nhường chỗ cho công tố. Ngày
nay, tư tố vẫn còn tồn tại song song cùng với công tố ở hầu hết các nước
nhưng phạm vi của quyền này bị thu hẹp lại và thông thường chỉ bao gồm
quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại và thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Toà án trong các vụ án tư tố. Tuy
nhiên, ở một số ít quốc gia theo truyền thống luật lục địa, tư tố vẫn còn giữ
vai trò quan trọng trong việc giải quyết một số vụ án. Trên thực tế, quyền tư
tố ít được sử dụng bởi thứ nhất, việc một cá nhân theo đuổi một vụ án hình sự
thường gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém về thời gian, công sức, tiền của cho
quá trình chứng minh, thực hiện việc buộc tội; thứ hai, nếu pháp luật cho phép
cá nhân hoàn toàn có quyền hoà giải, thoả thuận với người phạm tội sẽ dẫn
đến tình trạng nhiều vụ án hình sự không được đưa ra xét xử, được coi là bỏ
lọt tội phạm.
1.1.1.5. Công tố và thực hành quyền công tố
Công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm cần được phân
định rõ ràng. Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng
cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng để truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Toà án và bảo vệ sự buộc

tội đó. Nếu như công tố là khái niệm bao hàm, khái niệm pháp lý chung thì
thực hành quyền công tố là khái niệm được sử dụng trong khoa học pháp lý tố
tụng. Trong quá trình tố tụng hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố bao
gồm những hoạt động cụ thể như khởi tố bị can, truy tố bị can ra trước toà,


10

buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội đó trước toà. Như vậy, có thể thấy công
tố là quyền của Nhà nước còn thực hành quyền công tố là các hoạt động cụ
thể để thực hiện quyền đó. Các hoạt động này được thực hiện bởi một hệ
thống các cơ quan cụ thể, được gọi là cơ quan thực hiện chức năng công tố.
Mối quan hệ giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố là mối quan hệ
biện chứng giữa quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền
lực ấy.

1.1.2. Cơ quan thực hiện chức năng công tố
1.1.2.1. Khái niệm
Quyền công tố là một loại quyền Nhà nước. Để thực hiện quyền này,
Nhà nước uỷ quyền cho một hệ thống cơ quan thực hiện gọi là cơ quan thực
hiện chức năng công tố.
Trước hết, cơ quan thực hiện chức năng công tố phải là cơ quan thuộc
bộ máy nhà nước. Các quốc gia xây dựng hệ thống các cơ quan này dựa trên
nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy nhà nước trong đó có nguyên tắc tổ chức
thực hiện quyền lực Nhà nước. ở các nước khác nhau, chức năng công tố có
thể được thực hiện bởi một cơ quan có chức năng chuyên biệt gọi là Viện
công tố; có thể thực hiện bởi cơ quan ngoài chức năng công tố còn có những
chức năng khác gọi là Viện kiểm sát. Tuy vậy, các cơ quan này đều phải thực
hành quyền công tố, có nghĩa là tiến hành các hoạt động, đặc biệt là quyền
công tố trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

Cơ quan công tố có thể có chức năng khác ngoài chức năng công tố.
Vậy, khi thực hiện chức năng công tố, cơ quan này hoạt động trong phạm vi
nào? Quyền công tố là quyền trên tất cả các lĩnh vực tố tụng. Do vậy, thẩm
quyền công tố của cơ quan thực hiện chức năng công tố không chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn ở các lĩnh vực tố tụng khác. Có thể nói,
nơi nào mà pháp luật cho phép cơ quan thực hiện chức năng công tố nhân
danh lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra Toà án để xét xử thì nơi đó


11

có việc thực hành quyền công tố. Vì thế, cơ quan thực hiện chức năng công tố
thực hành quyền công tố bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và
chấm dứt khi có phán quyết có hiệu lực của pháp luật của cơ quan xét xử hoặc
khi có căn cứ triệt tiêu quyền công tố ở giai đoạn sớm hơn.
1.1.2.2. Lịch sử phát triển cơ quan thực hiện chức năng công tố và vai
trò của cơ quan này trong mỗi giai đoạn.
Một vấn đề đặt ra là: Công tố xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà
nước. Vậy, cơ quan thực hiện chức năng công tố có hình thành cùng với
quyền công tố hay không?
Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới đã chứng minh rằng, thời kỳ
đầu Nhà nước sơ khai, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn giản đơn và hệ
thống pháp luật mới hình thành, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một
phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và chưa có cơ quan riêng
biệt để thực hiện chức năng công tố. Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, việc
phân chia quyền lực chưa rõ ràng, chưa có sự phân định giữa quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Việc điều tra, truy tố và thi hành án xét xử thông
thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Đến cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ,
Nhà nước La mã cổ đại mới thành lập cơ quan xét xử tách ra khỏi cơ quan
hành pháp. Trong Nhà nước phong kiến, việc phân định chức năng Nhà nước

giữa các cơ quan trong bộ máy ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng
chuyên môn hoá. Viện công tố lần lượt ra đời, đầu tiên xuất hiện ở Pháp
(1285 -1344). Sau đó, vào thế kỷ XVI – XVII, Viện công tố được thành lập ở
nhiều nước Châu Âu như Italia, Hà Lan, Đức, Nga… Ngoài việc bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị, cơ quan công tố thời kỳ này còn có nhiệm vụ bảo vệ
lợi ích chung của toàn xã hội. Nhờ cuộc cách mạng chính trị, giai cấp tư sản
trở thành giai cấp thống trị đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến và Nhà
nước phong kiến. Nhà nước tư sản ra đời. Trong Nhà nước tư sản đã có sự
tách bạch rõ ràng hơn trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước, quyền tư
pháp cũng từng bước được hoàn thiện, vai trò của Toà án được đề cao, Viện


12

công tố trở thành người đại diện cho quyền lợi công để đưa vụ án ra Toà án
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo đảm sự tuân thủ trật tự công cộng.
Trong lĩnh vực hình sự, vai trò của công tố luôn luôn là một bên trong vụ án
nhân danh Nhà nước để cáo buộc người phạm tội.
Đến cuối năm 1922, khi Nhà nước công nông đầu tiên ra đời, theo sáng
kiến của V.I. Lê nin, Viện công tố được chuyển thành Viện kiểm sát. Viện
kiểm sát, ngoài chức năng công tố còn có nhiệm vụ quan trọng, đó là, kiểm
sát việc tuân theo pháp luật. Mô hình Viện kiểm sát, cơ quan thực hiện quyền
công tố xuất hiện đầu tiên ở Nga, sau đó là ở các nước xã hội chủ nghĩa trong
đó có Việt Nam. ở các nước này, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân được đề
cao trong bộ máy nhà nước, là cơ quan trực thuộc Quốc hội với tư cách là cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất, độc lập với các cơ quan khác và được tổ
chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương.
Có thể thấy, ở các nước tuy khác nhau về chế độ chính trị – xã hội
nhưng vai trò của cơ quan thực hiện chức năng công tố luôn được đề cao.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, vai trò của hệ thống cơ quan này càng

được mở rộng.
1.1.2.3. Vị trí của cơ quan thực hiện chức năng công tố
Nghiên cứu vị trí của cơ quan thực hiện chức năng công tố có nghĩa là
tìm hiểu cơ quan này được đặt ở đâu trong bộ máy nhà nước, thuộc về hệ
thống cơ quan hành pháp, tư pháp hay độc lập? Người viết nhận thấy, việc đặt
cơ quan công tố trong hệ thống cơ quan nào tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi
quốc gia về quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tại các quốc gia theo truyền
thống pháp luật án lệ (Anh - Mỹ), hoạt động tố tụng chỉ bao gồm giai đoạn xét
xử công khai tại phiên toà (nguyên tắc tranh tụng). ở những quốc gia này, các
cơ quan công tố được đặt trong hệ thống hành pháp (trực thuộc Chính phủ).
Còn ở các nước theo truyền thống pháp luật lục địa, tố tụng hình sự không chỉ
là giai đoạn xét xử công khai tại phiên toà mà bao gồm cả giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố (nguyên tắc xét xử thẩm vấn). Và ở đây, cơ quan công tố


13

được tổ chức nằm trong hệ thống Toà án (hệ thống các cơ quan tư pháp).
Riêng ở các nước xã hội chủ nghĩa, cơ quan thực hiện chức năng công tố
không được đặt trong hệ thống cơ quan hành pháp cũng không được đặt trong
hệ thống cơ quan tư pháp mà nằm hoàn toàn độc lập (hệ thống Viện kiểm sát),
do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất thành lập ra, chịu trách nhiệm và
báo cáo trước cơ quan này. Việc tổ chức này xuất phát từ quan điểm quyền
công tố không thuộc lĩnh vực hành pháp cũng không thuộc lĩnh vực tư pháp
theo quan niệm truyền thống mà hoàn toàn thuộc về một lĩnh vực khác của
quyền lực Nhà nước: quyền kiểm sát. Đây là một khái niệm hoàn toàn mới
trong khoa học pháp lý, xuất hiện sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười
Nga 1917.
Trên đây là sự phân tích về mặt lý luận về công tố và cơ quan thực hiện
chức năng công tố. Việc nghiên cứu mô hình cơ quan này ở một số quốc gia

trên thế giới theo các chế độ chính trị khác nhau, theo truyền thống pháp luật
khác nhau với những điều kiện lịch sử – xã hội khác nhau sẽ làm rõ nét hơn
những vấn đề trên.

1.2. Mô hình cơ quan thực hiện chức năng công tố ở một số nước
trên thế giới
1.2.1. Một số nước thuộc hệ thống Common Law
Quốc gia đại diện tiêu biểu cho hệ thống án lệ là Hoa Kỳ. ở nước này,
hoạt động xét xử của Toà án gắn rất chặt với hoạt động công tố. Hệ thống
Công tố của Mỹ cũng như Toà án được tổ chức thành hai hệ thống: Công tố
liên bang và Công tố bang. Hệ thống Công tố liên bang được đặt dưới sự lãnh
đạo của Tổng công tố. Tổng công tố do Tổng thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ
bốn năm và phải được Thượng viện phê chuẩn. Tổng công tố có quyền điều
tra và khởi tố các vụ án hình sự. Tổng công tố liên bang và Công tố quận trực
thuộc có quyền chấm dứt hoạt động điều tra ở bất cứ giai đoạn nào. Như vậy,
việc khởi tố vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, việc buộc tội bị cáo trong các phiên


14

toà liên bang theo pháp luật của Hoa Kỳ do hệ thống Công tố liên bang đảm
nhiệm. ở các Viện công tố bang, tuỳ thuộc vào pháp luật của từng bang quy
định mà Tổng công tố bang có thể do Thống đốc bang bổ nhiệm hoặc do cử
tri của bang bầu ra theo nhiệm kỳ vài năm một. Trong hoạt động tố tụng hình
sự, Công tố viên Hoa Kỳ có vị trí, vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công
lý. Công tố viên phải chịu trách nhiệm về toàn bộ quá trình điều tra và quyết
định truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra trước toà. Quyết định của
Công tố viên không thể bị xem xét lại bởi Thẩm phán hoặc các viên chức tư
pháp hình sự nào khác. Trong khi xét xử, Công tố viên có trách nhiệm đại
diện cho Nhà nước tranh luận về vụ việc và chứng minh tội trạng của bị cáo

“ngoài mọi sự nghi ngờ xác đáng”. Như vậy, hoạt động công tố ở Hoa Kỳ chỉ
diễn ra trong lĩnh vực hình sự. Nhiệm vụ chủ yếu của Công tố Hoa Kỳ là đưa
vụ án ra Toà án, quyền quyết định truy tố hoặc không truy tố tội phạm, khởi
tố hoặc không khởi tố vụ án được gọi là “quyền tự quyết của Công tố viên” là
nét đặc trưng thể hiện rõ vai trò to lớn của cơ quan công tố ở Hoa Kỳ.
ở Anh, Viện công tố Hoàng gia Anh được thành lập vào năm 1995, do
Viện trưởng Viện công tố đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Nghị viện và hoạt
động dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Theo quy định của pháp
luật, Chính phủ không kiểm tra Công tố Hoàng gia Anh. Hệ thống Công tố
Hoàng gia Anh là cơ quan truy tố được phân chia theo các khu vực địa lý.
Mỗi khu vực do một Công tố viên trưởng Hoàng gia Anh đứng đầu. Công tố
viên trưởng Hoàng gia này có quyền bổ nhiệm các Công tố viên qua thi cử.
Các Công tố viên thực thi nhiệm vụ công tố dưới sự chỉ đạo của Công tố viên
trưởng. Việc khởi tố và điều tra tội phạm ở Anh thuộc thẩm quyền của cảnh
sát. Công tố Hoàng gia không thực thi chức năng giám sát việc điều tra hoặc
chỉ đạo việc điều tra của cảnh sát hoặc chỉ thị cho cảnh sát trong việc thu thập
chứng cứ. Tuy nhiên, Công tố Hoàng gia có nhiệm vụ theo luật định là chỉ
dẫn cho cảnh sát về mối liên quan, khối lượng cần và đủ cũng như khả năng
có thể chấp nhận được của các bằng chứng đã thu thập được. Nhưng đây


15

không phải là mệnh lệnh bắt buộc cảnh sát phải tuân theo. Nhiệm vụ chủ yếu
của công tố Hoàng gia Anh là truy tố tội phạm, ngoài ra, cơ quan này còn có
quyền khởi tố đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Trong
quá trình điều tra, Công tố viên chỉ đóng vai trò như luật sư tư vấn cho cảnh
sát nhưng lại có quyền quyết định một số vấn đề như: có cần thiết phải khởi tố
bị can hay không hoặc nếu vụ việc đã được khởi tố thì tiếp tục tiến hành hay
đình chỉ. Tất cả các Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân và phải cân

nhắc đầy đủ các vấn đề chứng cứ trên tinh thần Bộ luật truy tố tội phạm.
Trong giai đoạn xét xử, Công tố viên Hoàng gia không có quyền đề nghị mức
án mà trình bày nội dung vụ án, còn quyết định tội danh và mức án là do Hội
đồng xét xử. Trong trường hợp cần thiết Công tố viên có quyền kháng nghị
bản án, quyết định của Toà án, tuy nhiên, trên thực tế, số lượng kháng nghị
không đáng kể. Như vậy, tổ chức và hoạt động của Công tố Hoàng gia Anh
chỉ thực hiện trong lĩnh vực tư pháp hình sự với nhiệm vụ chủ yếu là đưa vụ
án ra toà và thực hiện sự buộc tội đối với bị cáo.

1.2.2. Một số nước thuộc hệ thống Civil Law
Ngày 25.3.1302, Vua Philip V của nước Pháp thông qua đạo dụ thành
lập Viện công tố như một cơ quan đại diện cho quyền lực của Nhà vua. Cho
đến nay, về mặt hình thức, Viện công tố Pháp được đặt trong hệ thống Toà án
nhưng không lệ thuộc vào Toà án. Hệ thống cơ quan công tố Pháp bao gồm:
Viện công tố nằm trong các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng; Viện công tố
tại Toà phúc thẩm; Viện công tố bên cạnh Toà phá án. Về mặt nhân sự và
quản lý hành chính, Viện công tố trực thuộc Bộ Tư pháp nhưng mối quan hệ
giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Viện công tố không phải là mối quan hệ chỉ
đạo trực tiếp mà là thông qua giám sát hoạt động của Viện công tố. Các Công
tố viên là công chức Nhà nước nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành
pháp. Điều đó có nghĩa là quan chức Chính phủ không có quyền chỉ thị họ đối
với các yêu cầu pháp lý. Các Công tố viên hoạt động dưới sự kiểm tra của Bộ


16

trưởng Bộ tư pháp và có thể nhận các hướng dẫn chung hoặc các chỉ thị
chung về chính sách tư pháp từ Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Về phạm vi hoạt động, ban đầu, vai trò của Công tố viên chỉ giới hạn
cho các bên trong tố tụng dân sự. Đối với các vụ án hình sự giữa các cá nhân

không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Nhà vua, Công tố viên không
được phép tham gia. Đối với những vụ án hình sự Nhà vua quan tâm và thấy
cần thiết thì Công tố viên có quyền thụ lý, điều tra hình sự ngay từ ban đầu.
Tuy nhiên, ngay từ buổi đầu thành lập, chức năng của Viện công tố Pháp
không chỉ hoạt động mang tính pháp lý thuần tuý mà còn thực hiện quyền lực
của Nhà vua trong việc giám sát sự vận hành của bộ máy công quyền. Dần
dần, phạm vi hoạt động của Viện công tố được mở rộng theo thời gian, các
Công tố viên đảm nhiệm thêm chức năng giám sát hoạt động của Toà án,
đồng thời có vị trí quan trọng hơn trong hoạt động điều tra. Năm 1586, Vua
Pháp phê chuẩn đạo luật về tổ chức và hoạt động của Viện công tố, trong đó
quy định quyền hạn của Viện công tố trong việc giám sát “có hạn chế” hoạt
động điều tra và công tác xét xử của Toà án. Năm 1670, thủ tục điều tra các
vụ án hình sự và dân sự ở Toà án được tách riêng, các Công tố viên chính
thức được trao quyền buộc tội nhân danh lợi ích Nhà nước đối với một số loại
trọng tội. Những thời gian sau đó, hệ thống cơ quan công tố Pháp thường
xuyên cải cách mạnh mẽ. Quyền hạn của Công tố viên Pháp tương đối rộng
rãi: khởi tố các vụ án hình sự và một số vụ án dân sự, chỉ đạo hoạt động của
cảnh sát tư pháp, thực hiện việc buộc tội trước toà (thẩm quyền chỉ riêng của
Viện công tố) và đảm bảo thi hành bản án, quyết định của Toà án. Ngoài ra,
khác với Thẩm phán và Hội thẩm, Công tố viên không bắt buộc phải “hồi tỵ”
khi tham gia phiên toà.
Nhìn chung, về bản chất, Viện công tố Pháp được nhìn nhận như một
cơ quan quyền lực Nhà nước, được tổ chức một cách độc lập, có chức năng
giám sát việc tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo
đảm sự bền vững của chế độ và trật tự, an toàn xã hội. Có lẽ vì thế, cơ quan


17

công tố của Pháp được coi là hình mẫu để nhiều quốc gia trên thế giới thành

lập những chế định pháp luật tương tự.
Theo quan niệm của Đức, cùng với Toà án, Viện công tố thuộc nhóm
những cơ quan bảo vệ pháp luật. Xét dưới góc độ tổ chức cơ quan nhà nước
nói chung thì ngành công tố thuộc nhóm quyền lực thứ tư. Xét theo góc độ tổ
chức và nguyên tắc lãnh đạo thì Viện công tố mang tính chất của một cơ quan
hành pháp nhưng không hẳn là một cơ quan hành pháp. Xét theo thẩm quyền
của Viện công tố trong lĩnh vực tố tụng hình sự, ví dụ như Viện công tố có
quyền tự quyết định xử lý vụ án ngay ở giai đoạn truy tố mà không cần phải
đưa vụ án ra truy tố trước toà - quyền đình chỉ vụ án thì dường như Viện công
tố có quyền tư pháp xét xử nhưng không hẳn thuộc hệ thống cơ quan xét xử.
Viện công tố là cầu nối giữa hệ thống cơ quan xét xử và cơ quan hành pháp.
Về tổ chức, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền đề nghị Tổng thống hoặc
Thống đốc bang bổ nhiệm Tổng công tố trưởng của Viện công tố tối cao liên
bang, Tổng công tố trưởng của Viện công tố cấp cao bang. Bộ trưởng Bộ Tư
pháp có quyền quyết định số lượng, phân định thẩm quyền lãnh thổ của Viện
công tố trong bang. Tuy nhiên, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ trưởng cũng chỉ
mang tính chất chung chung, mang tính quản lý hành chính tư pháp, không
can thiệp vào công việc chuyên môn của ngành công tố. Bộ trưởng không có
quyền chỉ đạo trực tiếp đối với Công tố viên cấp dưới. Tổng công tố trưởng
bang có toàn quyền lãnh đạo, chỉ đạo các cán bộ, Công tố viên vùng và khu
vực. Các cán bộ, Công tố viên chịu sự chỉ đạo của Công tố viên cấp trên trực
tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng công tố trưởng bang.
Về hoạt động, Viện công tố là cơ quan bảo vệ quyền lợi của Nhà nước
và là người đại diện cho lợi ích công. Do đó, Viện công tố chỉ hoạt động khi
có hành vi xâm phạm lợi ích công. Đây là một điểm căn bản để phân biệt giữa
công tố và tư tố trong luật tố tụng Đức. Trong quá trình điều tra, truy tố và
thực hành quyền công tố trước toà, Viện công tố không chỉ tiến hành điều tra
một chiều, không chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà còn có trách nhiệm thu



18

thập cả chứng cứ vô tội của người bị tình nghi phạm tội. Và trong quá trình
điều tra, truy tố, nếu Viện công tố thấy hành vi phạm tội không còn ý nghĩa
với lợi ích công nữa thì có thể kết thúc tố tụng bằng một quyết định đình chỉ
vụ án.

1.2.3. Một số nước xã hội chủ nghĩa
ở Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết trước đây (trong đó có
Liên Bang Nga trước năm 1991) việc thực hiện chức năng công tố được giao
cho Viện kiểm sát cùng với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo
Lê nin, cần có một thiết chế đặc biệt, đó là Viện kiểm sát nhân dân. Lê nin
xác định:
“Viện kiểm sát cần phải tự mình thiết lập một nền pháp chế thống nhất
trên toàn nước cộng hoà.” “Uỷ viên công tố có quyền và có bổn phận
chỉ làm một công việc là làm thế nào để cho toàn nước cộng hoà có một
sự nhận thức thực sự về pháp chế, dù là ở địa phương có đặc điểm và
có ảnh hưởng như thế nào đi chăng nữa, quyền duy nhất và bổn phận
của Uỷ viên công tố là đưa vụ án ra toà”.[10, tr234,235]
Để thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
Viện kiểm sát được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, chỉ chịu sự
lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên mà không chịu sự
“song trùng trực thuộc”. Hơn thế nữa, Viện kiểm sát còn giám sát hoạt động
của các Bộ, các cơ quan lập pháp và hành pháp ở địa phương.Viện kiểm sát
chỉ phục tùng sự lãnh đạo của một người duy nhất là Tổng kiểm sát trưởng
Liên bang Xô Viết. Dưới quyền của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Xô Viết
có các Kiểm sát viên các nước cộng hoà, các vùng, các khu vực, thành phố
trực thuộc liên bang, các vùng tự trị, các khu vực tự trị, các thành phố, quận,
huyện và cấp tương đương do Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Xô viết bổ
nhiệm và bãi nhiệm. Mỗi Kiểm sát viên trên đều có bộ máy những người dưới

quyền. Trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát Xô viết có những dạng Viện


19

kiểm sát đặc biệt hoặc chuyên trách như Viện kiểm sát quân sự, Viện kiểm sát
trong lĩnh vực giao thông, Viện kiểm sát bảo vệ môi trường.
Về hoạt động, cơ quan này đặc biệt khác với các nước trên ở vai trò
kép, thực hiện chức năng công tố và chức năng kiểm sát chung. Trong lĩnh
vực công tố, Viện kiểm sát thực hiện những quyền nói chung giống với chức
năng của Viện công tố Pháp. Viện kiểm sát có nhiệm vụ truy tố kẻ phạm tội
trong các vụ án hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật tại nơi giam giữ,
đứng đơn khởi kiện hoặc kết luận trong một số vụ việc dân sự và kháng kiện
đối với bản án, quyết định dân sự của Toà án về những vụ việc mà Kiểm sát
viên tham gia.
Cơ quan thực hiện chức năng công tố ở Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
cũng là Viện kiểm sát. Viện kiểm sát Trung Quốc được tổ chức theo nguyên
tắc “song trùng trực thuộc”, vừa chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên, vừa chịu trách nhiệm trước Đại hội đại biểu nhân
dân (Hội đồng nhân dân). Viện trưởng và Phó viện trưởng đều do Đại hội đại
biểu nhân dân cùng cấp bầu ra. Viện trưởng có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ đại
hội là năm năm. Viện kiểm sát Trung Quốc được tổ chức theo các cấp: Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp, Viện
kiểm sát quân sự và Viện kiểm sát nhân dân chuyên ngành khác. Chức năng
công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trung Quốc được thể hiện trên các mặt
sau đây: khởi tố vụ án hình sự, quyết định hoặc phê chuẩn việc bắt giữ, truy
tố, miễn tố các bị can trong các vụ án hình sự. Khi thực hành quyền công tố
tại phiên toà, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, trực tiếp thẩm vấn bị cáo, viện
dẫn các chứng cứ và đưa ra ý kiến của mình về vụ án. Điều đặc biệt là hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát do các Kiểm sát viên tiến hành chứ không bổ

nhiệm Điều tra viên như ở Việt Nam. Khi Viện kiểm sát tiến hành điều tra vụ
án thì không cần có hoạt động kiểm sát điều tra như đối với hoạt động điều tra
của cơ quan công an.


20

1.2.4. Một số nước ở châu á
Khác với Trung Quốc, cơ quan công tố ở Nhật Bản là một bộ phận trực
thuộc Chính phủ về mặt tổ chức nhưng lại độc lập trong việc thực hành quyền
công tố. Điều 14 Luật về cơ quan công tố Nhật Bản quy định: “Bộ trưởng Bộ
Tư pháp có thể kiểm tra, giám sát Công tố viên trong việc thực hiện chức
năng thông qua giám sát Viện trưởng Viện công tố chứ không kiểm tra và xử
lý các vụ việc cụ thể”. Tại Nhật Bản, pháp luật quy định cảnh sát và Công tố
viên đều có quyền tiến hành điều tra đối với tất cả các tội phạm. Nhưng trên
thực tế, cảnh sát khởi tố và điều tra hầu hết các vụ án và chỉ khi kết thúc điều
tra mới chuyển hồ sơ cho Công tố viên. Sau đó, Công tố viên có thể chỉ thị
cho cảnh sát điều tra tiếp hoặc tự mình tiến hành điều tra độc lập những vụ án
tham nhũng, vụ án tài chính quy mô, số lượng lớn hoặc vụ án có nhân viên
nhà nước phạm tội. Cơ quan công tố Nhật Bản có toàn quyền trong việc truy
tố bị can ra Toà án hoặc đình chỉ việc truy tố. Tại phiên toà, Công tố viên là
người chịu trách nhiệm về chứng cứ và đọc bản cáo trạng trình bày các căn
cứ buộc tội bị cáo; tranh luận với luật sư, đọc bản luận tội và đề nghị mức
hình phạt đối với bị cáo. Cơ quan công tố Nhật Bản có quyền kháng nghị bản
án tuyên bị cáo vô tội và bản án sơ thẩm này phải đưa lên xem xét theo trình
tự phúc thẩm.
Cơ quan công tố ở Malaysia được tổ chức từ trung ương đến địa
phương, đứng đầu là Trưởng công tố liên bang. Hệ thống công tố ở Malaysia
hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Trưởng
công tố liên bang. Theo quy định của Hiến pháp Malaysia, Trưởng công tố

liên bang có quyền khởi tố, thực hiện việc truy tố cũng như đình chỉ đối với
các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của bất kỳ Toà án nào ở các bang cũng
như liên bang. Thẩm quyền này cũng thuộc về các Công tố viên của Malaysia,
các Công tố viên cũng có quyền khởi tố trực tiếp đối với các vụ án hình sự
theo thẩm quyền, lập bản cáo trạng và thực hiện quyền công tố Nhà nước tại
Toà án. Trong hoạt động của mình, cơ quan công tố nhấn mạnh đến việc bảo


21

vệ lợi ích công. Cũng tương tự như thẩm quyền của Viện kiểm sát ở nước ta,
sau khi nhận được kết quả điều tra từ các cơ quan điều tra, Công tố viên có
quyền quyết định việc truy tố hay không truy tố. Khác với pháp luật Việt
Nam, pháp luật Malaysia quy định cơ quan công tố ở Malaysia không trực
tiếp tiến hành hoạt động điều tra. Tuy nhiên, cơ quan công tố ở Malaysia có
thể thực hiện việc đưa ra các khuyến nghị đối với các cơ quan cảnh sát và các
cơ quan thi hành pháp luật khác trong công tác điều tra.
Điều đáng lưu ý là hoạt động của Công tố viên Malaysia bên cạnh việc
được điều chỉnh bởi các quy định của Hiến pháp liên bang, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật về hoạt động chứng cứ năm 1950, còn được điều chỉnh bởi Quy
chế Công tố viên và Quy chế về đạo đức hành nghề của Công tố viên. Đây
cũng là vấn đề mà chúng ta có thể nghiên cứu tham khảo.
Tóm lại, công tố là quyền của Nhà nước. Quyền công tố được Nhà
nước giao cho hệ thống cơ quan thực hiện gọi là cơ quan thực hiện chức năng
công tố. ở các quốc gia khác nhau, tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố
khác nhau song các quốc gia đều ghi nhận vai trò quan trọng của cơ quan này
trong tố tụng tư pháp. Đó là cơ quan nhân danh Nhà nước đưa vụ án ra toà và
thực hiện sự buộc tội đối với người phạm tội. Về mặt thẩm quyền, cơ quan
công tố ở mỗi nước khác nhau lại được giao nhiệm vụ và quyền hạn khác
nhau, có nước, vai trò của Viện công tố được thể hiện ngay từ khi khởi tố vụ

án, có nước vai trò của Viện công tố hạn chế hơn thể hiện chủ yếu ở giai đoạn
xét xử tại phiên toà với tính cách là người buộc tội. Phạm vi thực hành quyền
công tố chủ yếu được tiến hành trong lĩnh vực tố tụng hình sự nhưng ở một số
nước do quan niệm quyền công tố có cả trong lĩnh vực tố tụng dân sự nên
Viện công tố ở các nước này có nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong tất
cả các lĩnh vực của tố tụng tư pháp nhằm bảo đảm trật tự chung. Ngoài nhiệm
vụ công tố, nhiều nước còn giao cho cơ quan thực hiện chức năng công tố
nhiệm vụ kiểm sát việc áp dụng pháp luật. Cơ quan công tố các nước đều
được tổ chức thành một hệ thống độc lập với cơ quan xét xử, phần lớn cơ


22

quan này thuộc hệ thống cơ quan hành pháp về mặt tổ chức, trừ một số nước
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như Liên bang Nga trước năm 1991 và
Trung Quốc, Việt Nam hiện nay.


23

CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM
2.1. Sự hình thành và phát triển của cơ quan thực hiện chức năng
công tố ở Việt Nam
2.1.1. Sự hình thành
Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới đã chứng minh cơ quan thực
hiện chức năng công tố ra đời sớm nhất ở Pháp vào thế kỷ 12. ở Việt Nam, hệ
thống cơ quan này xuất hiện tuy có muộn hơn so với lịch sử thế giới nhưng lại
phù hợp với quy luật phát triển của Nhà nước Việt Nam. Với cuộc tổng khởi

nghĩa năm 1945, đất nước ta giành độc lập. Cùng với chính quyền cách mạng
được thành lập, hệ thống cơ quan tư pháp cách mạng cũng được hình thành.
Các quy định về quyền công tố, cơ quan thực hiện chức năng công tố cũng đã
xuất hiện từ thời điểm này. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban
hành Sắc lệnh số 33c/SL thành lập các Toà án quân sự ở ba miền Bắc, Trung,
Nam. Đối với chức năng công tố, Sắc lệnh 33c/SL quy định: “Đứng buộc tội
là một Uỷ viên quân sự hay một Uỷ viên Ban trinh sát”. Sự kiện này đánh dấu
lần đầu tiên chức năng công tố được xác định bằng một văn bản pháp luật của
Nhà nước, xác định quyền công tố của Nhà nước nhằm đưa người phạm tội ra
xét xử trước Toà án. Với quy định này, có thể thấy cơ quan thực hiện chức
năng công tố cũng được ghi nhận lần đầu tiên tuy không đầy đủ theo nghĩa là
một cơ quan như trên đã phân tích.
Có thể thấy, ở Việt Nam, quyền công tố và cơ quan công tố là vấn đề
được quan tâm ngay từ khi xây dựng Nhà nước mới. Sự hình thành cơ quan
này có thể lý giải từ những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, do tình hình chính trị- quân sự - xã hội lúc bấy giờ: Cách
mạng thành công, song, lúc này, sự chống phá cách mạng từ bên trong lẫn bên
ngoài đã gây nên sự mất ổn định. Thêm vào đó, xã hội có sự thay đổi căn bản,
các quan hệ xã hội cũ bị phá vỡ, quan hệ xã hội mới được thiết lập. Sự chuyển


×