Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Bảo vệ quyền trẻ em việt nam trong quan hệ nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài – so sánh pháp luật việt nam với pháp luật một số nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRỊNH THỊ KIM LOAN

BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VIỆT NAM
TRONG QUAN HỆ NHẬN CON NI CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI – SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM VIỆT NAM
TRONG QUAN HỆ NHẬN CON NI CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGỒI – SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số
: 60380108

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Họ và tên học viên
Lớp
Khóa



:PGS. TS TRẦN THỊ THÙY DƢƠNG
: TRỊNH THỊ KIM LOAN
: CAO HỌC LUẬT QUỐC TẾ
: 19

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của riêng tơi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Thị Thùy Dương.
Các khái niệm, quan điểm, ý kiến, bình luận khơng phải của tác giả trích dẫn trong luận văn đều được chú
dẫn nguồn theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Trịnh Thị Kim Loan


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Giải thích

1

BLDS


Bộ luật Dân sự

2

BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

3

LNCN năm 2010

Luật Nuôi con nuôi năm 2010

4

Công ước La Haye 1993

Công ước La Haye 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực con nuôi quốc tế


PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ĐƢỢC NHẬN LÀM CON NI
CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGỒI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................... 7
1.1. Việc bảo vệ quyền trẻ em thể hiện qua nguyên tắc giải quyết ni con ni
có yếu tố nƣớc ngồi .................................................................................................... 10
1.1.1. Ngun tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền
của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc .................................................. 11

1.1.2. Nguyên tắc thứ hai: Việc ni con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của người được nhận làm con nuôi và người nhận con ni, tự nguyện, bình đẳng,
khơng phân biệt nam, nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội .............................. 12
1.1.3. Nguyên tắc thứ ba: Chỉ cho làm con ni nước ngồi khi khơng thể tìm được
gia đình thay thế trong nước ......................................................................................... 14
1.2. Việc bảo vệ quyền trẻ em thể hiện qua các hiệp định song phƣơng giữa
Việt Nam và các nƣớc ................................................................................................. 15
1.3. Việc bảo vệ quyền trẻ em thông qua Công ƣớc La Haye 1993 về Bảo vệ trẻ
em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế ......................................................... 20
1.3.1. Sự cần thiết gia nhập Công ước La Haye 1993 .................................................. 20
1.3.2. Nội dung cơ bản của Công ước La Haye 1993 ................................................... 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 27
CHƢƠNG 2. BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ĐƢỢC NHẬN LÀM CON NI
CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGỒI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC – SO
SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM ...................................................................... 29
2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con ni nƣớc ngồi ......................... 29
2.1.1. Điều kiện để được nhận làm con ni nói chung................................................ 29
2.1.2. Các điều kiện để bổ sung được nhận làm con nuôi người nước ngoài ............... 35
2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận con ni có yếu tố nƣớc ngồi .......................... 36
2.2.1. Điều kiện đối với người nhận ni con ni nói chung ...................................... 36
2.2.2. Các điều kiện bổ sung trong trường hợp nhận ni con ni nước ngồi ......... 40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 42
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG CHO CON NUÔI VIỆT NAM CĨ YẾU TỐ
NƢỚC NGỒI VÀ ĐỊNH HƢỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM . 44


3.1. Thực trạng cho con ni Việt Nam có yếu tố nƣớc ngoài ................................ 44
3.1.1. Số lượng trẻ Việt Nam được nhận làm con ni ở nước ngồi .......................... 44
3.1.2. Đối tượng trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi ở nước ngoài ........................ 51
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ni con ni có yếu tố

nƣớc ngồi .................................................................................................................... 56
3.2.1. Giảm thiểu tình trạng làm sai lệch, làm giả hồ sơ nuôi con nuôi ....................... 56
3.2.2. Theo dõi tình hình của trẻ được nhận làm con nuôi ........................................... 60
3.2.3. Điều chỉnh điều kiện của người nhận con nuôi .................................................. 61
3.2.4. Điều chỉnh điều kiện của người nước ngồi nhận con ni đích danh .............. 62
3.2.5. Điều chỉnh lệ phí và chi phí đăng ký ni con nuôi ............................................ 62
3.2.6. Đảm bảo quyền được thông tin và tư vấn của trẻ em trước khi đưa ra ý kiến
đồng ý việc nuôi con nuôi .............................................................................................. 64
3.2.7. Giải quyết hệ quả của việc nuôi con nuôi ........................................................... 64
3.2.8. Nâng cao nhận thức của các cơ quan chức năng về nuôi con nuôi .................... 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 67


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai” là câu nói mà rất nhiều người biết đến.
Trẻ em là thế hệ tương lai của một dân tộc. Nói rộng hơn nữa, trẻ em là tương lai
của cả thế giới. Đất nước muốn phát triển thì trẻ em phải được chăm sóc và giáo dục
tốt. Gia đình chính là mơi trường chăm sóc và giáo dục trẻ em tốt nhất, là chỗ dựa
để trẻ em phát triển. Tuy nhiên, không phải tất cả các trẻ em sinh ra đều được hưởng
hạnh phúc được sống trong gia đình. Nhiều trẻ em khơng có gia đình, hoặc nhiều trẻ
em có gia đình nhưng gia đình các em vì lý do chủ quan hay khách quan khơng ni
được các em. Điều đó có thể dẫn đến quyền lợi của các em bị xâm hại, thậm chí các
nguy cơ trẻ bị mua bán, lạm dụng có thể xảy ra.
Nhìn từ góc độ đó, ni con ni mang tính nhân đạo sâu sắc. Mục đích cao cả
của việc nuôi con nuôi mà Việt Nam hướng đến là “nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ
và con lâu dài, bền vững vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo

đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia
1

đình”. Quyền và lợi ích của người con ni ln được quan tâm, đề cao ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, việc ban hành Luật Nuôi con
nuôi năm 2010 là một bước tiến vượt bậc. Ngoài ra, bên cạnh các điều ước song
phương, ngày 18/11/2011 Việt Nam đã phê chuẩn công ước La Haye 1993 về Bảo
vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Cơng ước có hiệu lực từ ngày
01/02/2012. Điều đó thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền trẻ
em trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc bảo đảm quyền cũng như lợi ích của trẻ em
được cho làm con ni nước ngồi ở Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế. Ví dụ: tình
trạng cịn nhiều sai sót, chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ cho trẻ được nhận làm
con nuôi, việc theo dõi trẻ sau khi được nhận làm con ni cịn chưa chặt chẽ…
Những bất cập này có thể dẫn đến các quyền của trẻ em trong quan hệ ni con ni
có yếu tố nước ngồi bị xâm phạm.
Với mục tiêu phân tích những điểm bất cập trên, việc tìm hiểu các quy định
của pháp luật Việt Nam và các Công ước liên quan là một điều cần thiết. Bên cạnh
đó, việc nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật nuôi con ni của
một số nước nhằm tìm ra những điểm tương đồng, khác biệt để định hướng hoàn
1

Điều 2 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.


2

thiện pháp luật Việt Nam cũng rất quan trọng. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài
“Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam trong quan hệ nhận con nuôi có yếu tố nước ngồi So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam cho đến nay chế định về ni con ni có yếu tố nước ngồi là
một đề tài thu hút sự quan tâm và tìm hiểu của nhiều tác giả. Có thể kể ra các hội
thảo, các đề tài nghiên cứu sau:
- Hội thảo về “Giới, chính sách, pháp luật và xã hội” tổ chức tại Thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vào tháng 11 năm 2009. Hội thảo có đề cập vấn đề bình
đẳng giới và việc bảo vệ quyền lợi trẻ trong dự án Luật Nuôi con nuôi.
- Hội thảo “Bảo đảm quyền trẻ em và thực hiện việc nuôi con nuôi quốc tế tại
Việt Nam” tổ chức tại Đà Nẵng vào tháng 1 năm 2010. Hội thảo xoay quanh vấn đề
chia sẻ các kinh nghiệm thực tiễn để đảm bảo nâng cao quyền trẻ em, thông qua
việc nuôi con nuôi quốc tế.
- Hội nghị “Triển khai Luật Nuôi con nuôi” tại Hà Nội vào tháng 1 năm 2016.
Hội nghị có thảo luận các vấn đề liên quan đến Luật Nuôi con nuôi năm 2010 như:
ni con ni trong nước; ni con ni có yếu tố nước ngồi; các trường hợp ni
con ni ở khu vực biên giới, nuôi con nuôi thực tế…; vấn đề lệ phí đăng ký và chi
phí giải quyết ni con ni nước ngồi, hỗ trợ nhân đạo theo quy định của Luật
Nuôi con nuôi năm 2010; thủ tục cấp phép và quản lý Văn phịng con ni nước
ngồi tại Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ “Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam”
của tác giả Trần Võ Tân Khoa, bảo vệ năm 2014 tại Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam như điều kiện về kinh tế, đạo đức, quan niệm của xã hội và pháp luật
điều chỉnh quan hệ này. Tuy nhiên, luận văn chưa đi vào nghiên cứu các hiệp định
song phương liên quan đến vấn đề ni con ni có yếu tố nước ngồi giữa Việt
Nam và các nước; Công ước La Haye 1993 về Bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực con ni quốc tế. Luận văn vẫn cịn nêu các quy định pháp luật Việt Nam
là chính, chưa đi vào so sánh với quy định pháp luật của một số nước trong quan hệ
ni con ni có yếu tố nước ngồi.
- Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về ni con ni có yếu tố nước ngồi của Việt
nam trong mối tương quan với Công ước La Haye” của tác giả Vũ Kim Dung, bảo



3

vệ năm 2013 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả nghiên cứu các quy trình thủ
tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế theo tiêu chuẩn của Công ước La Haye và quy
định của pháp luật Việt Nam, phân định rõ vai trò trách nhiệm của các cơ quan quản
lý nuôi con nuôi trung ương trong việc thực hiện các nghĩa vụ của Công ước. Trong
luận văn, tác giả chú trọng vào việc liệt kê các nguyên tắc, các điều kiện trong quan
hệ nuôi con nuôi, nhưng chưa đưa ra được các bình luận, nhận xét để làm nổi bật
các điểm tương đồng và khác biệt trong quy định của Công ước La Haye 1993 so
với quy định của pháp luật Việt Nam.
- Luận án Tiến sĩ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con
nuôi ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Lan, bảo vệ năm 2007 tại Trường Đại
học Luật Hà Nội. Luận án giải quyết các vấn đề như: cần phải thêm quy định phân
biệt sự khác nhau giữa việc ni con ni và các hình thức chăm sóc trẻ khác. Luận
án được thực hiện khi Luật Ni con nuôi năm 2010 chưa ban hành và Việt Nam
cũng chưa là thành viên của Công ước La Haye 1993. Chính vì điều đó, luận án
chưa phân tích được các quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng như các
quy định trong Cơng ước La Haye 1993.
Ngồi ra, cịn có một số bài báo được đăng trên tạp chí và các báo cáo như:
- Báo cáo đánh giá “Nhận con nuôi từ Việt Nam - Những phát hiện và kiến
nghị của đánh giá” do Tổ chức Dịch vụ Xã hội Quốc tế (ISS) thực hiện năm 2009.
- Sách “Tìm hiểu cơng ước La Haye về ni con ni” của Bộ Tư pháp, nhà
xuất bản Tư pháp, năm 2007.
Về bài báo, có các bài “Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2004;
bài “Công ước La Haye năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế - so sánh với pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi” của tác giả
Nguyễn Hồng Bắc đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2011; Bài “Vấn đề bình đẳng

giới và việc bảo vệ quyền lợi trẻ em trong dự án Luật Nuôi con nuôi” của tác giả
Bùi Sỹ Lợi đăng trong kỷ yếu hội thảo Giới và chính sách, pháp luật xã hội tháng
11/2009… Các bài báo này chỉ tiếp cận ở góc độ mơ tả các quy định của luật trước
yêu cầu hội nhập quốc tế, chưa đi sâu vào việc phân tích bảo vệ quyền trẻ em trong
quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Tham khảo các cơng trình nghiên cứu, bài viết, diễn đàn trên, tác giả tiếp tục
nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về quyền và lợi ích của trẻ làm con nuôi, cũng như
pháp luật nuôi con nuôi của Việt Nam trong tương quan với pháp luật một số nước


4

trên thế giới. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để Luật Nuôi con nuôi phát
huy hiệu quả tốt hơn trong thực tế.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn này nhằm mục đích giải quyết các vấn đề sau đây: (i) làm rõ những
vấn đề lý luận về bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam trong quan hệ nhận ni con ni
có yếu tố nước ngồi; (ii) tìm điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật các nước trong quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi; (iii)
làm sáng tỏ các hạn chế trong việc bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ ni con ni
có yếu tố nước ngoài và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Câu hỏi trung tâm mà tác giả đặt ra khi thực hiện luận văn là: luật Việt Nam – trong
so sánh tương quan với luật của một số quốc gia khác – bảo đảm quyền của trẻ em
được nhận làm con nuôi trong quan hệ nuôi con ni có yếu tố nước ngồi thơng
qua những cơ chế nổi bật nào, và làm thế nào để hoàn thiện hơn cơ chế đó?
4. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ lý luận, đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền trẻ em;
mục đích, ý nghĩa của việc ni con ni có yếu tố nước ngồi, các nguyên tắc cần
áp dụng khi giải quyết hồ sơ xin con ni có yếu tố nước ngồi. Cần ghi nhận rằng,
bên cạnh những quyền con người phổ quát mà tất cả mọi người điều được hưởng,

trẻ em – đặc biệt là trẻ khơng có gia đình - với tư cách là nhóm người dễ bị tổn
thương sẽ có những quyền đặc thù. Luận văn sẽ không nghiên cứu các quyền con
người nói chung, vốn đã là đề tài của rất nhiều cơng trình khoa học trong nước và
quốc tế. Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quyền của trẻ em, đặc biệt là trẻ khơng
gia đình có thể là đối tượng được nhận làm con nuôi trong quan hệ ni con ni có
yếu tố nước ngồi; trong đó có các quyền như: được sống trong môi trường tốt để có
thể phát triển cả về thể chất và tinh thần, không bị lạm dụng, mua bán… Mặt khác,
vấn đề thủ tục nhận ni con ni đã được phân tích nhiều trong các cơng trình
nghiên cứu, các hội thảo (như hội thảo về Triển khai Luật Nuôi con nuôi tháng
1/2016, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Kim Dung bảo vệ năm 2013 tại Đại học
Luật Hà Nội… đã được đề cập trên đây). Vì vậy, tác giả sẽ chỉ điểm qua thủ tục này
và tập trung chủ yếu vào việc phân tích các nguyên tắc áp dụng cho việc giải quyết
các hồ sơ xin ni con ni có yếu tố nước ngồi gắn với mục đích bảo vệ quyền
của trẻ được nhận làm con ni.
Dưới góc độ quy định của pháp luật, đề tài nghiên cứu quy định của pháp luật
Việt Nam về ni con ni có yếu tố nước ngồi. Bên cạnh đó, tác giả so sánh quy


5

định pháp luật Việt Nam với pháp luật các nước về vấn đề ni con ni có yếu tố
nước ngồi, điển hình là: pháp luật của Trung Quốc, pháp luật của Ấn Độ, pháp luật
của Nê Pan và pháp luật của Thái Lan. Đây là những quốc gia châu Á có nhiều điểm
tương đồng với Việt Nam trong lĩnh vực này. Cụ thể, các quốc gia trên đều có nhiều
trẻ em được nhận làm con ni ở nước ngồi; trong khi đó họ ít nhận trẻ nước ngồi
về làm con ni trong nước. Có thể thấy, quyền của trẻ được nhận làm con ni
trong quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi phải được bảo đảm khơng chỉ bởi
luật của quốc gia gốc của trẻ, mà cả luật của quốc gia nơi trẻ nhận làm con nuôi.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài luận văn, tác giả sẽ chỉ phân tích các quy định
trong văn bản luật Việt Nam - với tư cách là quốc gia gốc của trẻ - và các điều ước

quốc tế mà Việt Nam tham gia liên quan đến ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Tác giả cũng sẽ khơng nghiên cứu tất cả các quy định trong các văn bản trên, mà chỉ
tập trung vào các quy định trực tiếp gắn với mục đích bảo vệ quyền của trẻ được
nhận làm con ni.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ tính chất của đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng trong chương 1 và
chương 2 của đề tài với mục đích làm sáng tỏ những quy định của pháp luật Việt
Nam, Công ước La Haye 1993 và các hiệp định song phương giữa Việt Nam và các
nước về vấn đề ni con ni có yếu tố nước ngồi.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở
chương 2. Tác giả nghiên cứu, so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp
luật của các nước; từ đó, tìm ra những điểm tương đồng, khác biệt nhằm đưa ra giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con ni có yếu tố
nước ngồi.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng ở chương 3 của đề tài.
Tác giả thống kê số lượng trẻ em được cho làm con ni nước ngồi với mục đích
có tầm nhìn khái quát hơn về thực trạng trẻ em được cho làm con ni nước ngồi.
Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong toàn bộ đề tài
nhằm liên kết, xâu chuỗi các vấn đề đã được phân tích.
6. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu trên, kết quả của luận văn góp phần làm sáng tỏ quyền
trẻ em trong quan hệ nuôi con ni có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam.


6

Từ đó, luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các sinh
viên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến quyền trẻ em trong quan hệ ni con ni có
yếu tố nước ngồi.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Bảo vệ quyền trẻ em được nhận làm con ni có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam
Chương 2: Bảo vệ quyền trẻ em được nhận làm con ni có yếu tố nước ngoài
theo pháp luật một số nước – So sánh với pháp luật Việt Nam
Chương 3: Thực trạng cho con nuôi Việt Nam có yếu tố nước ngồi và định
hướng hồn thiện pháp luật Việt Nam


7

CHƢƠNG 1
BẢO VỆ QUYỀN TRẺ EM ĐƢỢC NHẬN LÀM CON NI CĨ YẾU
TỐ NƢỚC NGỒI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Cơng ước về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
20/11/1989. Ngày 26/1/1990, Việt Nam đã ký và phê chuẩn công ước này vào ngày
20/2/1990 (không bảo lưu điều khoản nào). Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á
và là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em. Để bổ
sung cho Công ước, ngày 20/12/2001 Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư về việc
Sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang và Nghị định thư về Buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa khiêu dâm trẻ em. Hai nghị định thư này là những văn bản
pháp luật quốc tế quan trọng, cụ thể hóa các Điều 11, 34, 35 và 38 của Công ước
quốc tế về Quyền trẻ em. Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo luật để đảm
bảo quyền trẻ em phù hợp với Công ước về Quyền trẻ em như: Luật Phổ cập giáo
dục tiểu học năm 1991; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Bộ
2

luật Lao động năm 2012 ; Bộ luật Hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015. Quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người bị hại, người bị bắt, bị tạm
giam, bị can, bị cáo… là người chưa thành niên; Bộ luật Dân sự năm 2015.

3

Theo Điều 1 của Công ước về Quyền trẻ em “Trẻ em là bất kỳ người nào dưới
18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Tại một số văn bản, văn kiện khác của tổ chức thuộc Liên hợp quốc
quy định độ tuổi tối thiểu được phép sử dụng lao động trẻ em là không được dưới
15 tuổi “Độ tuổi tối thiểu nêu trong khoản 1 Điều này phải không được thấp hơn độ
tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng
4

không được dưới 15 tuổi”. Theo khảo sát của Quỹ dân số Liên hợp quốc (VNF
PA) tại Châu Á thì chỉ có Việt Nam, Myanmar, Singapore còn quy định tuổi của trẻ
em thấp hơn 18 tuổi. Myanmar đang sửa đổi Luật Trẻ em theo hướng nâng độ tuổi
lên 18 tuổi.

5

2

Theo khoản 3 Điều 164 “không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi vào làm việc…”, Điều 163
“không được sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ…”
3
4

Bộ luật này cụ thể là những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ và trẻ em …


Khoản 3 Điều 2 của Công ước về Tuổi lao động tối thiếu, 1973 - Công ước số 138 của ILO, Việt Nam gia
nhập ngày 24/6/2003.
5
/>(truy cập ngày 5/6/2015)


8

Ở Việt Nam, Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “trẻ em là người dưới
16 tuổi”. Trong khi đó tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 20 và 21 quy định “người
từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên”; cịn Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 2015 phân chia độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự làm hai mức “người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội được quy định …” và
“người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm…”. Bộ
luật Lao động năm 2012 tại Điều 161 quy định “người lao động chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi”, Điều 3 “còn người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên”.
Những quy định được đưa ra từ các văn bản pháp luật khác nhau cho thấy rằng
khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt Nam bao gồm người chưa thành niên và là
những người dưới 18 tuổi. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau: “Trẻ
em là người dưới 18 tuổi”. Cách hiểu này cũng phù hợp với khái niệm trẻ em của
Công ước quốc tế.
Tại tun ngơn Tồn thế giới về Quyền con người và tuyên bố về Quyền trẻ
em do Đại Hội đồng Liên Hợp quốc năm 1959 thì Quyền trẻ em được hiểu là quyền
của con người được cụ thể hóa cho phù hợp với nhu cầu, đặc trưng phát triển và
6

tính chất cuộc sống trẻ em. Tiếp theo đó, năm 1989, Cơng ước Quyền trẻ em chính
thức được thơng qua. Có thể thấy đây là văn kiện cơ bản và toàn diện nhất về các
quyền con người của trẻ em. Công ước được xác lập với các nguyên tắc cơ bản

7

xuyên suốt các điều khoản về quyền trẻ em.
Ở Việt Nam, các nguyên tắc bảo vệ Quyền trẻ em được ghi nhận trong nhiều
văn bản pháp lý khác nhau như: Hiến pháp năm 1992 quy định Quyền trẻ em bao
gồm: quyền được học tập, chăm sóc và bảo vệ về mặt sức khỏe, thể chất. Nhà nước
cần có chính sách học phí, học bổng đối với trẻ em năng khiếu, trẻ tàn tật hoặc có
hịan cảnh khó khăn. Nghĩa vụ bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em là nhiệm vụ của gia
8

đình, nhà trường và xã hội. Đến Hiến pháp năm 2013, việc quy định này có phần
6

Lời nói đầu trong Tuyên bố của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1959

7

Quyền sống còn (Điều 6); Quyền được có họ tên và có quốc tịch (Điều 7); Quyền giữ gìn bản sắc (Điều 8);
Quyền khơng bị cách ly khỏi cha mẹ (Điều 9); Quyền tự do phát biểu, tự bày tỏ ý kiến (Điều 12, 13); Quyền
tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tơn giáo (Điều 14); Quyền được tự do kết giao và tự do hội họp hòa bình (Điều
15); Quyền được tiếp cận thơng tin (Điều 17); Quyền được bảo vệ và chăm sóc (Điều 18); Quyền được chăm
sóc sức khỏe (Điều 24); Quyền được học hành (Điều 28); Quyền được bảo vệ, chống lại sự lạm dụng tình
dục (Điều 34)….
8

Điều 40, Điều 59 và Điều 65 của Hiến pháp Việt Nam năm 1992.


9


ngắn gọn nhưng rõ ràng, đi vào chi tiết cụ thể hơn: “Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ
em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
9

động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.

Nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em còn được quy định tại các Điều 11, 12, 13,
14, 15, 16, 17, 18, 19 và Điều 20

10

của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, có hiệu
lực ngày 01 tháng 01 năm 2005 (sau đây gọi tắt là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004) đã thể chế hóa nguyên tắc của Hiến pháp về quyền trẻ em.
Như vậy, trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và trong pháp
luật quốc gia đều công nhận rằng trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc,
quan tâm.
Tuy nhiên, khơng phải mọi trẻ em sinh ra đều may mắn có cha mẹ và được
sống trong gia đình. Trong xã hội vẫn cịn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ cơi, sống trong
các gia đình nghèo khơng có điều kiện ni dưỡng. Các em cần một mái ấm gia
đình thay thế. Một trong những biện pháp đáp ứng yêu cầu trên là cho những trẻ em
này là làm con ni.
Ni con ni nói chung được hiểu là việc đứa trẻ được một gia đình trong
nước hay ở nước ngồi nhận làm con để ni dưỡng và chăm sóc. Mục đích của
việc ni con ni là “nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì
lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được
11


nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình”.

Như vậy việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích của người con nuôi, đồng
thời cũng đảm bảo quyền lợi của người nhận nuôi. Quy định trên cũng nhằm gắn bó
tình cảm giữa người ni và con ni trong quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho
người chưa thành niên được trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt, phù
hợp với đạo đức xã hội.
9

Điều 37 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

10

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004: Quyền được khai sinh và có quốc tịch (Điều 11);
Quyền được chăm sóc, ni dưỡng (Điều 12); Quyền được sống chung với cha mẹ (Điều 13); Quyền được
tơn trọng và bảo vệ tính mạng,thân thể, nhân phẩm và danh dự (Điều 14) Quyền được chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe (Điều 15); Quyền được học tập (Điều 16); Quyền được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ
thuật,thể dục thể thao,du lịch (Điều 17); Quyền được phát triển năng khiếu (Điều 18); Quyền được có tài sản
(Điều 19); Quyền được tiếp cận thơng tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội (Điều 20).
11

Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.


10

Trong thời đại tồn cầu hóa, việc ni con ni khơng cịn bó hẹp trong một
quốc gia. Việc cơng dân của nước này nhận con nuôi ở nước kia đã trở thành phổ
biến. Ni con ni có yếu tố nước ngồi là việc ni con ni giữa cơng dân Việt

Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam,
giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.

12

Để bảo vệ trẻ em, phòng tránh lạm dụng việc cho con ni để thu lợi bất
chính, lạm dụng tình dục trẻ em… cộng đồng quốc tế thông qua các tuyên bố, Điều
ước quốc tế đa phương, song phương với nhiều nguyên tắc, quy tắc về việc cho và
nhận con nuôi. Những quy tắc này dần trở thành chuẩn mực chung mà hầu hết các
nước trên thế giới đều tuân thủ, áp dụng và từng bước nội luật hóa. Trong các Điều
ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em thì Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về Các
nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt
là việc bảo trợ, nuôi con ni trong và ngồi nước năm 1986 là văn kiện quốc tế đầu
tiên đề cập một cách tương đối hồn thiện việc ni con ni trong thời điểm này.
Sau đó Cơng ước của của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 quy định các
quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho trẻ em trong quá
trình xem xét cho và nhận con nuôi. Công ước về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước năm 1993 liên quan trực tiếp nhất đến vấn đề
nuôi con ni nước ngồi, đến việc bảo vệ quyền lợi cho trẻ em được người nước
ngồi nhận làm con ni.
Có thể thấy, bên cạnh các quyền trẻ em như được quy định tại Tuyên ngôn về
Quyền trẻ em của Liên hợp quốc và các văn bản luật quốc nội (cũng như các quyền
con người phổ quát được quy định tại các điều ước quốc tế và văn bản luật quốc
nội), đối với nhóm trẻ em có thể là đối tượng được nhận con ni trong quan hệ
ni con ni có yếu tố nước ngoài, một số quyền đặc thù được chú ý: quyền được
sống trong gia đình mới phù hợp nhất cho sự phát triển thể chất, tinh thần của trẻ;
quyền không bị mua bán, lạm dụng. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 (sau đây gọi tắt
là LNCN năm 2010) và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia chủ yếu nhắm
đến việc bảo vệ các quyền này.
1.1. Việc bảo vệ quyền trẻ em thể hiện qua nguyên tắc giải quyết ni con

ni có yếu tố nƣớc ngồi

12

Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.


11

Mục đích của việc ni con ni là nhằm thiết lập một quan hệ pháp lý lâu
dài, bền vững giữa cha mẹ nuôi và con nuôi như quan hệ giữa cha, mẹ và con ruột.
Từ mục đích này mà LNCN năm 2010 đã được xây dựng dựa trên những nguyên
tắc mang tính xun suốt về cơng tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em
được nhận làm con ni và quyền lợi chính đáng của người xin nhận con nuôi.

13

Khi LNCN năm 2010 ban hành đã có những cải tiến mới nổi bật so với Nghị
định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP, bởi luật áp dụng cho cả
ni con ni trong nước và con ni có yếu tố nước ngoài chi tiết và rõ ràng.
Nhằm mục đích bảo vệ quyền của trẻ được nhận làm con ni trong quan hệ ni
con ni có yếu tố nước ngồi, bên cạnh những quy trình, thủ tục khá chặt chẽ (xem
Phụ lục 3: SƠ ĐỒ QUY TRÌNH THỦ TỤC CHO CON NI TRONG QUAN
HỆ NI CON NI CĨ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM), Điều 4
năm LNCN năm 2010 quy định một số nguyên tắc quan trọng:
+ Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống
trong mơi trường gia đình gốc.
+ Việc ni con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được
nhận làm con nuôi và người nhận con ni, tự nguyện, bình đẳng, khơng phân biệt
nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

+ Chỉ cho làm con ni người ở nước ngồi khi khơng thể tìm được gia đình
thay thế ở trong nước.
1.1.1. Nguyên tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng
quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc
13

Trước đây ngun tắc giải quyết nuôi con nuôi được thực hiện dựa trên quy định tại Điều 35 của Nghị định

68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP. Việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên
tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em.
Nghiêm cấm lợi dụng việc ni con ni để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì
các mục đích khác khơng phải mục đích ni con ni; nghiêm cấm lợi dụng việc giới thiệu, giải quyết, đăng
ký cho trẻ em làm con ni nhằm mục đích trục lợi, thu lợi vật chất bất hợp pháp; Người nước ngoài thường
trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi
người xin nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế
nhiều bên về hợp tác ni con ni; Người nước ngồi thường trú ở nước ngồi xin nhận trẻ em Việt Nam
làm con ni, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và Việt Nam chưa cùng là thành viên của
điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác ni con ni thì cũng được xem xét
giải quyết, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp được pháp luật quy định.


12

Gia đình nơi trẻ em được sinh ra, trên nguyên tắc vẫn được coi là môi trường
lý tưởng nhất cho sự phát triển của trẻ. Các em còn non nớt cả về thể chất lẫn trí tuệ
nên việc lớn lên và được chăm sóc, đùm bọc bởi những thành viên trong gia đình là
điều vơ cùng quan trọng. Khơng ai, khơng một tổ chức nào có quyền tách rời các
em rời ra khỏi gia đình gốc của mình. Những hành vi mua chuộc, mua bán hay bắt
cóc trẻ em, kể cả là hành vi do chính cha, mẹ ruột của các em thực hiện cũng bị xem
là vi phạm pháp luật và bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc.

Tuy nhiên, trong trường hợp các em khơng cịn cha mẹ ruột hoặc cha, mẹ ruột
khơng cịn khả năng ni dưỡng, việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục của trẻ sẽ
được ưu tiên chuyển giao cho những người họ hàng ruột thịt, thân thích của trẻ
nhằm duy trì mơi trường an tồn, quen thuộc và an toàn nhất cho trẻ. Theo nguyên
tắc thứ tự ưu tiên, trước hết người được nuôi trẻ là những người trong họ hàng như
cơ, dì, chú, bác ruột hoặc cha dượng, mẹ kế, sau đó mới đến công dân Việt Nam ở
trong nước, rồi mới đến công dân nước ngoài.

14

Quy định trên là một quy định cần thiết để đảm bảo cho trẻ một môi trường
sống phù hợp nhất với trẻ. Quy định này cũng phù hợp với Điều 3 của Tuyên bố của
Liên hợp quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và bảo vệ
trẻ em theo đó “ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha, mẹ đẻ chăm sóc”.
1.1.2. Nguyên tắc thứ hai: Việc ni con ni phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con ni, tự nguyện, bình
đẳng, khơng phân biệt nam, nữ, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội
Lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mục đích chính, ưu tiên hàng đầu nhưng
không phải là duy nhất trong quan hệ ni con ni; lợi ích hợp pháp của chủ thể
cịn lại cũng cần được quan tâm, đó là người nhận con ni. Quan hệ ni con ni
chỉ có thể phát triển tốt đẹp, bền chặt, lâu dài nếu cả hai chủ thể đều có những quyền
và lợi ích hợp pháp trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện. Trẻ em được nhận về làm
con nuôi cần được yêu thương, chăm sóc, ni dưỡng giáo dục. Tuy nhiên, ngược
lại, bố mẹ ni cũng mong muốn đứa con ni của mình khi các em có đủ nhận
thức cũng sẽ đối xử thương u, kính trọng, gắn bó với mình. Mối quan hệ tình cảm
này được bền chặt một phần nhờ vào sự bảo vệ của pháp luật bình đẳng và tự
nguyện.

14


Khoản 1 Điều 5 LNCN năm 2010.


13

Nguyên tắc này còn nhấn mạnh sự “tự nguyện”. Sự tự nguyện trong quan hệ
nuôi con nuôi là kết quả của một quá trình nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của cả cha, mẹ nuôi và con nuôi (trong trường hợp con nuôi từ 9 tuổi
trở lên). Tự nguyện có nghĩa là sự chấp nhận vơ điều kiện, thông suốt về tư tưởng
và thoải mái, vui vẻ về tinh thần, không chịu sự ép buộc và yêu cầu nào của những
người tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi. Thiếu sự tự nguyện của cả cha, mẹ và
con ni, quan hệ ni con ni khó có thể được xem là nhân đạo. Đứa trẻ vơ hình
trung được xem như là món hàng hóa và người nhận con ni sẽ khơng có trách
nhiệm. Đây là hiện tượng cần ngăn cấm.
LNCN năm 2010 không quy định hẳn một điều về bình đẳng giới nam nữ,
nhưng trong nguyên tắc thứ hai này có quy định ngun tắc khơng phân biệt giới
tính. Việc pháp luật quy định ngun tắc khơng phân biệt giới tính là bởi lẻ ở một số
nước cịn phong tục “trọng nam khinh nữ”. Vì thế, nhiều gia đình đã chọn bé trai
làm con ni gây ảnh hưởng đến cơ hội được nhận làm con nuôi của bé gái. Điều
này cũng khơng đúng với mục đích hay bản chất của việc ni con ni đó là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em làm con nuôi.
Theo quy định của LNCN năm 2010, khi trẻ em có đủ điều kiện và thuộc diện
được cho làm con ni, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết
cho trẻ làm con ni theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà không đặt
vấn đề ưu tiên cho trẻ em là trai hay gái.

15

Tuy nhiên, trong việc giới thiệu trẻ làm con nuôi, cũng phải đảm bảo quyền
thể hiện chính kiến, quyền được lựa chọn của trẻ cũng như nguyện vọng và lợi ích

chính đáng của người xin nhận con ni. Do đó người xin nhận con ni có thể thể
hiện nguyện vọng chính đáng là muốn nhận trẻ em thuộc giới tính nào đó (nam hay
nữ). Ví dụ: người xin nhận con ni đã có con trai (hoặc gái) rồi, nguyện vọng của
họ là muốn xin đứa trẻ làm con nuôi là con gái (hoặc trai) thì nguyện vọng trên cũng
cần được tơn trọng mà khơng nên coi đó là sự phân biệt đối xử.
Thực tiễn khi giải quyết việc nuôi con ni có yếu tố nước ngồi trong những
năm qua cho thấy, đại đa số các gia đình cha mẹ ni người nước ngồi khơng nêu
ra u cầu cụ thể về giới tính của trẻ em cần xin nhận làm con nuôi, mà họ chỉ nêu

15

Pháp luật các nước cũng không có quy định phân biệt về điều kiện ni con nuôi với người nhận con nuôi
là nam hay nữ, như tại Điều 21 của Luật Nuôi con nuôi Trung Quốc “Một người nước ngồi có thể nhận trẻ
em (trai hoặc gái) ở nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa làm con nuôi phù hợp với quy định của Luật này”.


14

16

nguyện vọng chung chung là “muốn nhận một trẻ em nam hoặc nữ làm con nuôi”.
Tuy nhiên, khi vào thực tế hầu như họ đều có nguyện vọng riêng cho riêng họ. Việc
dựa vào nguyện vọng muốn nhận trẻ em thuộc giới tính nào đó mà kết luận “có sự
phân biệt về giới” để rồi từ chối giải quyết việc ni con ni là khơng có cơ sở
thuyết phục.
1.1.3. Ngun tắc thứ ba: Chỉ cho làm con ni nước ngồi khi khơng thể tìm
được gia đình thay thế trong nước
Lời nói đầu của Cơng ước La Haye năm 1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (gọi tắt là Công ước La Haye 1993) ghi nhận “nhắc
lại rằng, mỗi nước cần ưu tiên thực hiện các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể

được chăm sóc trong gia đình gốc của mình”. Cơng ước về Quyền trẻ em năm 1989
cịn quy định “việc cho trẻ làm con ni nước ngồi có thể được coi như là biện
pháp thay thế của việc chăm sóc trẻ em, nếu như trẻ em đó khơng thể gửi được cho
một gia đình bảo trợ hay nhận ni, hoặc khơng thể nào được chăm sóc một cách
17

thích hợp bất kỳ nào ở ngay tại quốc gia gốc của trẻ em đó”.

Cơng ước khẳng

định việc cho trẻ em làm con nuôi quốc tế là giải pháp cuối cùng khi mà đứa trẻ đó
khơng tìm được gia đình trong quốc gia nguyên quán của trẻ. Điều 36 LNCN năm
2010 quy định “… trước khi Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con ni
nước ngồi, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con ni thì người đó liên hệ
với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em thường trú để xem xét, giải quyết; nếu việc
nhận con ni đã hồn thành thì Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo Sở Tư pháp để
chấm dứt việc giới thiệu trẻ em làm con ni nước ngồi”.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này tại Việt Nam chưa thật sự nghiêm túc.
Thực tế cho thấy hầu hết các em được nhận làm con ni nước ngồi đều là trẻ em
dưới 1 tuổi, nhiều em còn mới 3, 4 tháng tuổi.

18

Điều này chứng tỏ việc xem xét

khả năng cho làm con ni trong nước chỉ mang tính chất hình thức. Theo quy định
của luật, việc tìm gia đình thay thế cho trẻ phải được cơ quan có thẩm quyền công
bố trên báo viết 03 lần liên tiếp hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác của
tỉnh.
16


19

Tuy nhiên, nhiều cơng bố chỉ mang tính chất chiếu lệ, hình thức.

20

Hội thảo về “Giới và chính sách, pháp luật về xã hội” ngày 31/10 và 1/11/2009 tại Hạ Long, Quảng Ninh.

17

Khoản 2 Điều 21 Công ước về Quyền trẻ năm 1989.
18
/>19

Điểm c khoản 2 Điều 15 LNCN năm 2010.

20

Báo cáo Tổng kết 5 năm thi hành pháp luật về nuôi con nuôi từ 2003-2008 của Bộ Tư Pháp.


15

Việc thể hiện nguyên tắc thứ ba này vẫn là điểm mới trong LNCN năm 2010.
Nhiều người cho rằng làm con ni nước ngồi các em sẽ có cuộc sống đầy đủ về
vật chất hơn, tuy nhiên theo tác giả, các yếu tố như xã hội, ngơn ngữ, văn hóa dân
tộc cũng là vấn đề đáng quan tâm. Chính vì vậy việc cho làm con ni nước ngồi
vẫn nên là thứ tự ưu tiên cuối cùng.
1.2. Việc bảo vệ Quyền trẻ em thể hiện qua các hiệp định song phƣơng

giữa Việt Nam và các nƣớc
Về cơ bản các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước đều có
nội dung gần như giống nhau, điều chỉnh một cách tổng thể hai mảng quan hệ: thứ
nhất là tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp với các nước ký kết; thứ hai là
các quy tắc chọn luật áp dụng khi giải quyết xung đột luật cũng như quy tắc xác
định thẩm quyền của cơ quan tư pháp trong vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân gia
đình.
Quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi là một chế định nằm trong khuôn
khổ điều chỉnh mang tính dân sự và thường được đề cập trong phạm vi hơn nhân gia
đình. Vì vậy, ni con ni có yếu tố nước ngoài chỉ là một mảng nhỏ nằm trong sự
điều chỉnh của các hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam và các
nước.
Năm 1981 Việt Nam đã ký bản hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, gia đình
đầu tiên với Liên bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Xơ Viết. Từ đó đến nay Việt
Nam đã ký tổng cộng 18 hiệp định tương trợ tư pháp và 1 nghị định thư liên quan
đến các vấn đề dân sự và gia đình (tham khảo Phụ lục 1).
Có thể chia q trình hợp tác quốc tế và ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp
liên quan đến ni con ni có yếu tố nước ngoài thành 03 giai đoạn. Trong giai
đoạn trước năm 1990, ta đang từ một nước có nền kinh tế bao cấp đang dần dịch
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã ký 6 hiệp định tương trợ tư pháp
với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong giai đoạn này quan
hệ nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước chưa phát sinh nhiều, vì vậy các hiệp
định cũng chưa phát sinh hiệu quả đối với quan hệ nuôi con nuôi. Giai đoạn từ năm
1990 đến năm 2000, Việt Nam đã ký thêm 8 hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn
đề dân sự và hình sự với các nước. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam, Hiến pháp
năm 1992 được ban hành, tiếp theo đó hàng loạt văn bản pháp luật ra đời như Bộ
luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Lao động năm 1994… Trong đó quan trọng nhất là
Pháp lệnh Ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế năm 1998. Đây cũng là cơ sở



16

quan trọng để các hiệp định tương trợ tư pháp được bảo đảm thực hiện. Giai đoạn
này quan hệ nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước trên thế giới nói chung và
các nước ký hiệp định tương trợ tư pháp đã có bước tiến mới. Quyền trẻ em được
nhiều quốc gia quan tâm. Số lượng trẻ em Việt Nam được người nước ngồi nhận
ni ngày càng nhiều, như năm 1990 chỉ có khoảng 60 trẻ em Việt Nam được người
nước ngồi nhận ni thì các năm tiếp theo số lượng này tăng nhanh, trong năm
1995 đã vọt lên trên 1.500 trẻ em và đỉnh điểm của giai đoạn này vào năm 1998 gần
1.900 trẻ em Việt Nam đã được người nước ngồi nhận ni.

21

Tuy nhiên các hiệp

định này cịn mang tính tổng thể, quy định một cách chung nhất về tương trợ tư
pháp đối với các quan hệ dân sự, thương mại, lao động, hơn nhân gia đình. Vì vậy
với quan hệ ni con ni cũng mới giải quyết được một phần thủ tục pháp lý trong
cả quá trình thực hiện việc cho con ni người nước ngồi.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, Việt Nam ký thêm 4 hiệp định tương trợ tư
pháp với các nước và 1 nghị định thư với Nga. Đây là giai đoạn Việt Nam đẩy
mạnh các quan hệ quốc tế. Các chế định về quan hệ ni con ni có yếu tố nước
ngồi nói riêng đã có những bước phát triển vững chắc, Việt Nam đã hoàn thiện hơn
hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi như thành lập cơ quan trung ương về nuôi con
nuôi - Cục Con nuôi (giai đoạn đầu là Cục Con nuôi quốc tế) thuộc Bộ Tư pháp,
phê chuẩn Công ước La Haye 1993 vào năm 2012.
Giai đoạn này, các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực nuôi con nuôi
tạo thêm hành lang pháp lý cũng như làm cơ sở cho việc thực hiện thủ tục pháp lý
về nuôi con nuôi giữa các nước ký kết hiệp định với Việt Nam, làm nền tảng cho
việc ký kết các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh

của các hiệp định này còn hẹp. Các hiệp định thường chỉ quy định điều kiện của con
nuôi, mà điều kiện của con nuôi hầu hết là do cơ quan có thẩm quyền của nước gốc
quy định.
Về các hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi, kể từ năm 2000 đến nay, Việt Nam
đã ký 16 hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với 16 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(tham khảo Phụ lục 2)

22

21

Báo cáo thống kê số trẻ em được nhận làm con ni nước ngồi năm 1990-2000 của Cục Con nuôi, Bộ Tư
pháp
22

Việc tham gia ký kết các hiệp định trên nhằm mục đích cao đẹp của việc ni con ni là xây dựng mối
quan hệ gia đình, thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi với đứa trẻ được nhận làm con nuôi,


17

Về cơ bản, các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước có
những vấn đề chủ yếu sau:

 Thứ nhất: Những quy định chung
Mỗi hiệp định về hình thức có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng về nội
dung ở phần quy định chung đều đề cập các vấn đề cơ bản chung như: phạm vi áp
dụng, các nguyên tắc nuôi con nuôi, luật áp dụng và thẩm quyền giải quyết, một số
nội dung như về miễn hợp pháp hóa giấy tờ, ngơn ngữ sử dụng, việc bảo vệ trẻ em
hay các biện pháp phòng ngừa các hành vi bất hợp pháp từ việc nhận nuôi con nuôi.


 Thứ hai, thẩm quyền giải quyết của các cơ quan và các tổ chức cấp phép
hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước thì thẩm
quyền giải quyết thường thuộc về cơ quan trung ương của các bên chịu trách nhiệm
thực thi hiệp định. Ở Việt Nam có Cục Con ni thuộc Bộ Tư pháp là cơ quan đầu
mối tiếp nhận đầu tiên giải quyết vấn đề ni con ni có yếu tố nước ngồi.

23

 Thứ ba, luật áp dụng khi giải quyết nuôi con nuôi
Theo quy định, luật của nước gốc - nước cho con nuôi, cụ thể là ở Việt Nam
được áp dụng đối với các vấn đề như: điều kiện với trẻ em được làm con nuôi, thẩm
quyền của tổ chức hoặc cá nhân cho con nuôi, công nhận nuôi con nuôi và hệ quả

bảo đảm cho đứa trẻ có các quyền cơ bản của một cơng dân, có cuộc sống tốt hơn như trong Lời nói đầu của
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Hoa kỳ năm 2005.
23

Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Pháp chỉ định cơ quan trung ương để thi hành hiệp định. Về

phía Pháp, đây là cơ quan con ni quốc tế trực thuộc Bộ ngoại giao Pháp. Ở Việt Nam, đây là cơ quan con
nuôi quốc tế thuộc Bộ Tư pháp. Cịn với Hiệp định ni con ni giữa Việt Nam và Liên bang Thụy Sỹ thì cơ
quan trung ương của Thụy Sỹ là Cơ quan bảo vệ trẻ em quốc tế thuộc Bộ Tư pháp và Cảnh sát liên bang. Cơ
quan trung ương của hai bên ngoài nhiệm vụ trực tiếp nhận hồ sơ xin nhận con ni cịn có trách nhiệm cùng
hợp tác giải quyết những vướng mắc trong q trình cho, nhận con ni giữa hai bên và là cơ chế để theo dõi
sự phát triển của trẻ ngay cả sau khi trẻ em được đưa sang nước nhận.
Một số nước nhận con nuôi đã tham gia vào Công ước La Haye năm 1993 như: Italia, Thụy Sỹ, Canada thì cơ
quan có thẩm quyền cao nhất là cơ quan con nuôi trung ương. Cơ quan con nuôi trung ương cấp phép cho
người xin nhận con nuôi, xác nhận về hoàn cảnh kinh tế, về đạo đức, tâm lý, lý lịch tư pháp, sức khỏe... của

người xin nhận con nuôi và cơ quan này gửi kèm theo "Công hàm" xác nhận về người xin nhận con nuôi đủ
điều kiện để xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo quy định của pháp luật nước họ. Sau khi trẻ em đã
được nhập cảnh vào nước tiếp nhận thì Tịa án của nước tiếp nhận sẽ cơng nhận một lần nữa về việc nuôi con
nuôi được quy định tại Điều 16 Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hòa Italia; Điều 16 Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Thụy
Sỹ; Điều 6 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Canada.


18

pháp lý của việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, các điều kiện về người nhận ni con
ni thì tn theo pháp luật của cả nước tiếp nhận và nước gốc.
Ví dụ: Điều 10 và Điều 15 Hiệp định Tương trợ tư pháp giữa Việt Nam ký kết
với Vương quốc Đan Mạch vào tháng 8-2004 quy định người nhận con nuôi phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận (nước Đan
Mạch) và nước gốc (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Như vậy, công dân
nước Đan Mạch phải tuân thủ các quy định về điều kiện người nhận con nuôi theo
pháp luật Đan Mạch, đồng thời phải tuân theo Điều 14 và 29 của LNCN năm 2010
của Việt Nam.

24

 Thứ tư, quốc tịch của trẻ được nhận làm con nuôi
Các hiệp định quy định trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm
ni sẽ có quốc tịch nước nhận, nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, khi đến tuổi
thành niên theo quy định của pháp luật trẻ em đó có quyền lựa chọn quốc tịch cho
mình.

25


 Thứ năm, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi
Phần lớn các hiệp định đều quy định về các nội dung như: hồ sơ xin nhận nuôi
con nuôi, trách nhiệm của cơ quan trung ương nước tiếp nhận, thủ tục gửi hồ sơ của
người nhận con nuôi, trách nhiệm của cơ quan trung ương ở nước gốc, thủ tục giới
thiệu trẻ làm con nuôi, thủ tục giao nhận con nuôi và cuối cùng là việc hồn tất thủ
tục ni con ni tại nước tiếp nhận.
24

Đối với các nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam như Brasil, theo quy định tại khoản 1
Điều 37 của Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định điều kiện đối với người xin nhận con ni “người nước
ngồi xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện để ni con ni theo quy định tại Điều
69 của Luật Hơn nhân và gia đình của Việt Nam và pháp luật của nước nơi người đó thường trú”. Điều 5 của
Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài, quy định rõ “trong trường hợp Nghị
định này, văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngồi thì pháp luật nước ngồi được áp dụng đối với việc
kết hơn, nhận cha, mẹ, con, ni con ni có yếu tố nước ngồi, nếu hậu quả của việc áp dụng đó khơng trái
với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam; trong trường hợp pháp luật nước ngồi
dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hơn nhân và gia đình Việt Nam”. Ví dụ: Cơng
dân Brasil muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con ni thì phải đáp ứng các điều kiện về người nhận con nuôi
theo Luật Nuôi con nuôi và theo pháp luật của Brasil. Tuy nhiên, do giữa Việt Nam và Brasil chưa ký hiệp
định tương trợ tư pháp về nuôi con nuôi nên công dân Brasil này không phải chịu thêm điều kiện nào nữa.
25

Xem quy định tại khoản 2 Điều 13 của Hiệp định nuôi con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và Cộng hòa Italia. Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký với Trung Quốc thì chỉ điều chỉnh các vấn
đề tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp giữa hai nước với nhau và thống nhất các quy tắc xác định
thẩm quyền xét xử mà không quy định về vấn đề chọn luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật.


19


Hồ sơ xin nhận nuôi con nuôi phải lập theo đúng quy định pháp luật của nước
tiếp nhận và nước gốc, được các cơ quan trung ương của nước tiếp nhận xác nhận.
Hồ sơ của người nhận con nuôi phải được dịch ra ngôn ngữ của nước gốc, bản dịch
do cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của nước gốc chứng thực. Chi
phí dịch và chứng thực bản dịch hồ sơ do người nhận con nuôi chịu.

26

Cơ quan

trung ương nước tiếp nhận đảm bảo rằng người nhận ni con ni có đủ điều kiện
cần thiết cho việc ni con ni; người nhận con ni đã có đủ các thông tin cần
thiết và đã được chuẩn bị cho việc nuôi con nuôi, đặc biệt là các thông tin về mơi
trường gia đình và xã hội ở nước gốc và trẻ em; trẻ em được phép nhập cảnh và
thường trú tại nước nhận.

27

Về thủ tục gửi hồ sơ của người nhận con nuôi, cơ quan trung ương của nước
tiếp nhận gửi hồ sơ của người nhận con nuôi cho cơ quan trung ương của nước gốc
kèm theo “công hàm” trong đó nêu rõ các thơng tin về người nhận con nuôi.

28

Về trách nhiệm của cơ quan trung ương nước gốc, nếu xét thấy trẻ em có đủ
điều kiện cho làm con nuôi, cơ quan trung ương của nước gốc chuyển hồ sơ của
người nhận con nuôi đến cơ quan có thẩm quyền của nước mình để giải quyết và
thông báo cho cơ quan trung ương của nước tiếp nhận.


29

Sau đó, cơ quan trung

ương của nước gốc gửi văn bản thông báo cho cơ quan Trung ương của nước tiếp
nhận về trẻ em được giới thiệu làm con nuôi với đầy đủ các thông tin cá nhân của
trẻ. Cơ quan trung ương của nước tiếp nhận, trong thời hạn sớm nhất phải thông báo
bằng văn bản cho cơ quan trung ương của nước gốc về ý kiến của người nhận con
nuôi về trẻ em được giới thiệu hoặc người xin nhận con nuôi gửi văn bản cho cơ

26

Khoản 2 Điều 14 Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Italia.;
khoản 3 Điều 10 Hiệp định hợp tác về nuôi con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hịa
Pháp.
27

Khoản b Điều 15 của Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
Italia; khoản b Điều 15 Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang
Thụy Sỹ.
28

Điều 16 Hiệp định nuôi con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hịa Italia; Điều 16
Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Thụy Sỹ; Điều 6 Hiệp định
hợp tác về ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Canada.
29

Khoản 2 Điều 17 Hiệp định ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Italia;
khoản 2 Điều 11 Hiệp định hợp tác về ni con ni giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
Pháp.



×