Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá giá của wto lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THÁI SƠN

QUY CHẾ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƢỜNG TRONG PHÁP
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO - LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT QUỐC TẾ

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THÁI SƠN

QUY CHẾ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƢỜNG TRONG PHÁP
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO - LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Chuyên ngành: LUẬT QUỐC TẾ
Mã số 60380108

Ngƣời hƣớng dẫn

: TS. LÊ THỊ ÁNH NGUYỆT

Họ và tên học viên


: NGUYỄN THÁI SƠN

Lớp

: LUẬT QUỐC TẾ K19-20

Khố

:19

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thái Sơn, học viên lớp Cao học Luật khoá 19, chuyên
ngành Luật Quốc tế, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tơi xin cam
đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Thị Ánh Nguyệt. Những thông tin, số liệu tơi đưa ra trong
luận văn là trung thực, có trích dẫn nguồn tham khảo đầy đủ. Những phân tích, kiến
nghị được đề xuất dựa trên quá trình tìm hiểu, nghiên cứu của cá nhân, có sự tham
khảo ý kiến của người hướng dẫn khoa học và các cơng trình nghiên cứu đã trích
dẫn nguồn ở danh mục tài liệu tham khảo.
Học viên thực hiện

Nguyễn Thái Sơn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ADA


: Hiệp định chống bán phá giá.

(Anti dumping Agreement)
AOA
(Agreement on Agriculture)
IT

: Hiệp định Nông nghiệp.
.
: Bài kiểm tra mức thuế suất riêng lẻ.

(Individual Test)
GATT
(General Agreement on Tariffs and
Trade)
MET
(Market Economy Test)
NME

: Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại.
: Bài kiểm tra điều kiện nền kinh tế
thị trường.
: Nền kinh tế phi thị trường.

(Non-Market Economy)
SCM
(Agreement on Subsidies and
Countervailing Measures)

TRIPS
(Trade-Related Intellectual Property
Rights Agreement)

: Hiệp định về Chống trợ cấp và Các
biện pháp đối kháng.

: Thoả thuận về Quyền Sở hữu Trí
tuệ Liên quan tới Thương mại.

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa.

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới.

(World Trade Organization)


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. QUY CHẾ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƢỜNG
TRONG PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO VÀ
MỘT SỐ QUỐC GIA ............................................................................................... 7
1.1. Khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trƣờng trong thƣơng
mại quốc tế ................................................................................................................. 7
1.1.1. Nền kinh tế phi thị trường trong thương mại quốc tế ..................................... 7
1.1.2. Tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường ................................................... 12

1.2. Quy chế nền kinh tế phi thị trƣờng trong pháp luật chống bán
phá giá của WTO .................................................................................................... 18
1.2.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường về vấn đề chống bán phá giá
trong hiệp định GATT và Hiệp định ADA ................................................................. 18
1.2.2. Quy chế nền kinh tế phi thị trường về vấn đề chống bán phá giá
trong văn kiện gia nhập của các quốc gia ................................................................. 23
1.3. Quy chế nền kinh tế phi thị trƣờng trong pháp luật chống bán
phá giá của một số quốc gia .................................................................................... 28
1.3.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá
giá của Hoa Kỳ.......................................................................................................... 28
1.3.2. Quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá
giá của Liên minh Châu Âu ....................................................................................... 33
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CƠ
QUAN DSB VỀ VẤN ĐỀ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƢỜNG
TRONG MỘT SỐ VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ MỘT SỐ
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ ....................................................................................... 38
2.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của cơ quan DSB về vấn đề nền
kinh tế phi thị trƣờng trong một số vụ kiện chống bán phá giá ......................... 38
2.1.1. Vụ EU - Các biện pháp chống bán phá giá đối với một số sản
phẩm chốt cài bằng sắt hoặc bằng thép xuất xứ từ Trung Quốc (DS 397) .............. 38


2.1.2. Vụ Hoa Kỳ - Các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nước
ấm đông lạnh từ Việt Nam (DS 404) ......................................................................... 47
2.1.3. Vụ Hoa Kỳ - Các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nước
ấm đông lạnh từ Việt Nam (DS 429) ......................................................................... 52
2.2. Một số nhận xét, đánh giá................................................................................ 68
2.2.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường của Việt Nam và các nền kinh tế
phi thị trường khác trong pháp luật chống bán phá giá của WTO có nội
dung chỉ liên quan đến việc xác định giá trị thông thường ...................................... 68

2.2.2. Việc giả định các thực thể ở nước nền kinh tế phi thị trường thuộc
về một thực thể NME toàn phần và phải chịu mức thuế suất NME toàn
phần trong pháp luật của một số nước là không phù hợp với quy chế nền
kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá giá của WTO ....................... 71
2.2.3. Những nội dung về tiêu chí xác định nền kinh tế thị trường, tiêu chí
lựa chọn quốc gia thứ ba thay thế để xác định giá trị thông thường cần
phải được làm rõ trong khuôn khổ WTO .................................................................. 74
2.2.4. Sự chủ động của các doanh nghiệp trong nước là yếu tố cốt lõi để
đối phó với các cuộc điều tra chống bán phá giá của nước ngoài liên
quan đến quy chế nền kinh tế phi thị trường ............................................................. 77
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 80


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành viên thứ
150 của WTO. Sự kiện này đánh dấu quá trình gia nhập vào sân chơi hệ thống
thương mại quốc tế sâu rộng của Việt Nam và là điều kiện thuận lợi để các sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam tiếp cận với thị trường nước ngoài. Tuy
nhiên, trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chấp nhận là một nền kinh tế phi
thị trường trong lĩnh vực chống bán phá giá từ thời điểm gia nhập đến hết ngày
31/12/2018. Nội dung cam kết này cho phép các nước thành viên đối xử Việt Nam
khác biệt với các quốc gia thành viên có nền kinh tế thị trường trong các cuộc điều
tra chống bán phá giá - được sử dụng giá tại quốc gia thứ ba thay thế trong việc
xác định giá trị thông thường đối với các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu từ Việt
Nam. Trong pháp luật chống bán phá giá của WTO quy chế NME được quy định
tại Đoạn thứ hai Khoản 1 phụ lục bổ sung Điều VI của GATT cũng như tại Điều
2.7 của Hiệp định ADA. Những điều khoản này đề cập đối với những nước có độc

quyền thương mại và Nhà nước ấn định tất cả giá trong nước sẽ rất khó khăn trong
việc so sánh giá với giá trong nước ở những nước này và để ngỏ cho việc xác định
giá trị thông thường tại một quốc gia thứ ba khi tiến hành điều tra chống bán phá
giá. Các nền kinh tế phi thị trường khác như Ba Lan, Hugary, Romania, Trung
Quốc, Tajkistan đã phải chấp nhận quy chế phân biệt đối xử trên để được gia nhập
GATT và WTO. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng một số quốc gia thành viên
WTO (điển hình là Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu) lại có những quy định về nền
kinh tế phi thị trường vượt khỏi nội dung quy chế NME trong Hiệp định GATT,
Hiệp định ADA và các cam kết gia nhập WTO của các nước kinh tế phi thị trường
như: việc giả định các thực thể trong nền kinh tế phi thị trường thuộc về một thực
thể NME duy nhất và phải chịu mức thuế suất NME duy nhất, việc đặt ra các bài
kiểm tra MET, bài kiểm tra IT của pháp luật Liên minh Châu Âu đối với các
doanh nghiệp NME phải thoả mãn để được hưởng biên độ phá giá và mức thuế
bán phá giá riêng lẻ, việc đặt ra bài kiểm tra mức thuế suất riêng lẻ, việc tính tốn
biên độ bán phá giá tồn quốc và áp mức thuế chống bán phá giá toàn quốc đối với
các doanh nghiệp trong nền kinh tế phi thị trường của pháp luật Hoa Kỳ… Để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình trong thương mại quốc tế, các nền kinh tế phi thị
trường như Trung Quốc và Việt Nam đã khởi kiện Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ
trước cơ quan giải quyết tranh chấp DSB của WTO. Những phán quyết của DSB
về nền kinh tế phi thị trường trong các vụ kiện EU – thuế chống bán phá giá đối


2

với sản phẩm chốt cài bằng thép hoặc sắt từ Trung Quốc (DS397), Hoa Kỳ - thuế
chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh từ Việt Nam (DS 404
và DS 429) đã làm rõ nội dung quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá
của WTO, làm rõ sự vi phạm của quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá
của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu. Những phán quyết này cũng đã đưa ra những
bài học pháp lý hữu ích cho các nền kinh tế phi thị trường nói chung và Việt Nam

nói riêng trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm
bảo sự bình đẳng của các nền kinh tế phi thị trường so với các nền kinh tế thị
trường trong khuôn khổ WTO.
Đứng trước khả năng hàng hoá từ Việt Nam bị điều tra chống bán phá giá có
khả năng gia tăng trong thời gian tới. Việc làm rõ nội dung quy chế pháp lý của nền
kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán phá giá của WTO, nghiên cứu nội
dung các vụ giải quyết tranh chấp của cơ quan DSB về quy chế NME trong lĩnh vực
chống bán phá giá là việc cần thiết để Việt Nam có thể chủ động đối phó với các
cuộc điều tra chống bán phá giá từ các quốc gia khác liên quan đến quy chế NME
của mình. Từ những lý do đó tơi chọn đề tài: “Quy chế NME trong pháp luật chống
bán phá giá của WTO – Lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, tại Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu khoa học được cơng bố
có liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn có thể kể đến bao gồm:
- Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), “Giải quyết tranh chấp về chống bán phá giá
trong khuôn khổ WTO và sự tham gia của các nước đang phát triển và Việt Nam –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận án Tiến Sỹ, Đại học Luật Hà Nội năm
2014. Trong Luận án tác giả tập trung nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp về
chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO, thực tiễn tham gia các vụ kiện chống bán
phá giá của Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan từ đó đưa ra các đề xuất nâng
cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp về chống bán
phá giá của WTO. Tuy nhiên, luận án chưa đề cập và phân tích cụ thể quy chế NME
của Việt Nam trong lĩnh vực này.
- Lê Thị Ánh Nguyệt (2009), Sách “Pháp luật chống bán phá giá Hoa Kỳ và
tác động đối với Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Trong cuốn
sách tác giả đã phân tích hệ thống pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và sự
tác động của các chính sách pháp luật đó đối với việc chống bán phá từ hàng Việt
Nam, trong đó có phân tích về những quy định của pháp luật chống bán phá giá của



3

Hoa Kỳ đối với nền kinh tế phi thị trường. Trong cuốn sách tác giả cũng chỉ mới đề
cập một cách tổng quan về quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá của
Hoa Kỳ.
- Trần Thu Hường (2015), “Quy chế NME trong pháp luật chống bán phá
giá của EU và thực tiễn áp dụng trong các vụ kiện đối với hàng hóa Việt Nam”
đăng trên website: truy cập ngày 27/7/2015. Trong bài viết tác giả
đề cập đến những quy định của pháp luật chống bán phá giá của EU về quy chế
NME về nội dung các bài kiểm tra MET, bài kiểm tra IT, phân tích các vụ điều tra
chống bán phá giá của EU đối với chốt cài bằng thép không gỉ (2004), xe đạp
(2005) và giày mũ da (2006) của Việt Nam. Tuy nhiên bài viết chưa làm rõ tổng thể
nội dung quy chế pháp lý NME trong pháp luật chống bán phá giá của EU.
- Lưu Hương Ly (2007), “Địa vị nền kinh tế phi thị trường và tác động đối
với doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc điều tra chống bán phá giá”, tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 91 tháng 02 năm 2007. Trong bài viết tác giả chỉ tập trung
đề cập đến cam kết nền kinh tế phi thị trường của Việt Nam khi gia nhập WTO, các
tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật của Hoa Kỳ, Liên minh
Châu Âu.
- Dương Anh Sơn (2008), “Quy chế NME và vấn đề minh bạch để ứng phó
với các vụ kiện bán phá giá”, tạp chí Khoa học pháp lý được đăng trên Website:
hcmulaw.edu.vn ngày 12/12/2008. Trong bài viết tác giả chủ yếu phân tích quy chế
NME của Việt Nam thể hiện trong Báo cáo của Ban công tác về việc gia nhập WTO
của Việt Nam và đề cập đến việc minh bạch hố chính sách pháp luật, hoạt động
của doanh nghiệp để ứng phó với các vụ kiện bán phá giá.
- Phan Ánh Hè (2015), “Kinh tế phi thị trường và những ảnh hưởng đến
thương mại quốc tế của Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị số 4/2015. Trong bài
viết tác giả cũng chỉ đề cập nội dung cam kết nền kinh tế phi thị trường của Việt
Nam, các tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật của Hoa Kỳ và
pháp luật của Liên minh Châu Âu từ đó nêu ra những ảnh hưởng đến thương mại

quốc tế của Việt Nam và một số giải pháp nhằm bảo vệ các doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam.
- Phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam (2011), “Vụ giải quyết tranh
chấp đầu tiên của Việt Nam tại WTO - Các biện pháp chống bán phá giá đối với
sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh tại Hoa Kỳ” tại điểm tin số 37 tháng 7 năm 2011.
Bài phân tích đã tóm tắt những nội dung cơ bản về vụ kiện DS 404 trong đó có đề


4

cập đến những nội dung liên quan đến việc xác định mức thuế suất toàn quốc và rút
ra bài học kinh nghiệm từ vụ kiện.
Các đề tài và cơng trình nghiên cứu trên mới chỉ tập trung nghiên cứu và
trình bày các tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật của Hoa
Kỳ và Liên minh Châu Âu, mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến các cam kết nền kinh
tế phi thị trường của Việt Nam trong hệ thống thương mại của WTO, một số cơng
trình đã đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế phi thị trường trong hệ thống pháp
luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ như bài kiểm tra IT, bài
kiểm tra MET, bài kiểm tra mức thuế suất riêng lẻ. Tuy nhiên chưa có cơng trình
nào nghiên cứu tổng thể về quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá của
WTO cũng như trong pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia để từ đó có
cơ sở đánh giá quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia
như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu có phù hợp với các quy định của WTO hay
khơng. Ngồi ra chưa có cơng trình nào phân tích rõ thực tiễn giải quyết của cơ
quan giải quyết tranh chấp DSB về vấn đề nền kinh tế phi thị trường trong các vụ
kiện chống bán phá giá như vụ DS 397, DS 404, DS 429 để từ đó có cơ sở pháp lý
nhận thức đúng đắn về quy chế NME trong lĩnh vực chống bán phá giá hiện nay để
góp phần giúp Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu, định hướng,
chủ động ứng phó với những quy chế NME mà nước áp áp đặt đối với Việt Nam ở
các vụ kiện chống bán phá giá trong thời gian tới. Do đó nội dung nghiên cứu của

luận văn khơng trùng lặp với các cơng trình khoa học đã được nghiên cứu và công
bố tại Việt Nam.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá
của WTO
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu làm rõ nội dung quy chế NME
trong hệ thống pháp luật chống bán của WTO và nội dung quy chế NME trong pháp
luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu; làm rõ nội dung các
phán quyết của các cơ quan giải quyết tranh chấp DSB về vấn đề nền kinh tế phi thị
trường trong một số vụ kiện DS 397, DS 404, DS 429 để từ đó đưa ra những nhận
xét, đánh giá về quy chế NME trong hệ thống thương mại quốc tế hiện nay.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các nội
dung cụ thể sau:


5

Thứ nhất, nghiên cứu nội dung quy chế NME được quy định trong Đoạn thứ
hai Khoản 1 Phụ lục bổ sung Điều VI Hiệp định GATT và Điều 2.7 Hiệp định ADA
cũng như quy chế NME trong các cam kết gia nhập GATT và WTO của các quốc
gia: Ba Lan, Hungary, Romania, Trung Quốc, Việt Nam, Tajikistan về lĩnh vực
chống bán phá giá.
Thứ hai, nghiên cứu những nội dung cơ bản về quy chế NME trong pháp luật
chống bán phá giá của một số quốc gia như Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ.
Thứ ba, nghiên cứu các phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp DSB
về quy chế NME trong các vụ kiện chống bán phá giá như: DS 397, DS 404, DS
429.
Thứ tư, từ những nội dung trên đưa ra một số nhận xét và đánh giá về quy
chế NME trong pháp luật chống bán phá giá của WTO hiện nay.
4. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trên cơ sở phương pháp luận đó tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp phân tích: được tác giả sử dụng việc làm rõ nội dung Đoạn
thứ hai Khoản 1 Phụ lục bổ sung Điều VI GATT 1994 và Điều 2.7 Hiệp định ADA
về quy chế NME trong lĩnh vực chống bán phá giá của WTO; làm rõ nội dung quy
chế NME trong các cam kết gia nhập GATT và WTO của Ba Lan, Hungary,
Romania, Trung Quốc, Việt Nam, Tajikistan; làm rõ nội dung quy chế NME trong
pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu.
+ Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các cơng trình nghiên cứu của các học
giả về nền kinh tế phi thị trường để rút ra kết luận về lịch sử phát triển quy chế
NME trong thương mại quốc tế. Tổng hợp các cam kết gia nhập GATT, WTO của
các nền kinh tế phi thị trường để chỉ rõ bản chất chung của quy chế NME về lĩnh
vực chống bán phá giá trong WTO.
+ Phương pháp so sánh: So sánh nội dung cam kết gia nhập WTO về nền
kinh tế phi thị trường trong lĩnh vực chống bán phá giá của Trung Quốc, Việt Nam
với nội dung quy chế NME trong pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Liên
minh Châu Âu áp đặt với các quốc gia này trong các vụ DS 397, DS 404, DS 429 để
làm rõ sự vi phạm của pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Liên minh Châu


6

Âu khi áp đặt các chế độ phân biệt đối xử (đặt ra các bài kiểm tra MET, bài kiểm tra
IT, bài kiểm tra mức thuế suất riêng lẻ, việc tính tốn biên độ phá giá NME tồn
phần và áp thuế NME toàn phần đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế phi thị
trường...) đối với các nền kinh tế phi thị trường hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung quy chế NME

trong pháp luật chống bán phá giá của WTO thể hiện tại Đoạn thứ hai Khoản 1 phụ
lục bổ sung Điều VI GATT, Điều 2.7 Hiệp định ADA cũng như trong các văn kiện
gia nhập GATT và WTO của các nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam, Trung
Quốc... Luận văn nghiên cứu làm rõ sự vi phạm của quy chế NME được quy định
trong pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu với các quy
định của WTO.
- Giá trị ứng dụng: Đề tài giúp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức, cơ quan
Nhà nước và các doanh nghiệp hiểu rõ về quy chế NME trong pháp luật chống bán
phá giá của WTO và quy chế NME của Việt Nam trong lĩnh vực chống bán phá
giá để từ đó có cơ sở pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước
các vụ kiện chống bán phá giá từ nước ngoài đối với Việt Nam trong thời gian tới.
6. Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn gồm các phần sau:
- Phần mở đầu
- Chƣơng I. Quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống bán
phá giá của WTO và một số quốc gia
- Chƣơng II. Thực tiễn giải quyết tranh chấp của cơ quan DSB về vấn đề
nền kinh tế phi thị trường trong một số vụ kiện chống bán phá giá và một số nhận
xét, đánh giá
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo


7

CHƢƠNG 1. QUY CHẾ NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƢỜNG TRONG
PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA
1.1. Khái quát về quy chế nền kinh tế phi thị trƣờng trong thƣơng mại
quốc tế
1.1.1. Nền kinh tế phi thị trường trong thương mại quốc tế

Ý tưởng về việc xây dựng mơ hình thương mại đa phương toàn cầu được đưa
ra trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc nhằm tránh tái diễn cuộc đại khủng
hoảng kinh tế thế giới vào những thập niên 20 và 30 của thế kỉ XIX. Năm 1944 một
cuộc hội nghị quốc tế được tổ chức tại Bretton Woods thuộc tiểu bang New
Hamshire của Hoa Kỳ để thành lập 3 tổ chức quốc tế với vai trò là trung tâm của
nền thương mại đa phương toàn cầu hiện đại bao gồm Quĩ tiền tệ quốc tế IMF
(International Monetary Fund), Ngân hàng Tái thiết và phát triển quốc tế IBRD
(Bank for reconstruction and development) sau này phát triển thành Ngân hàng thế
giới (World Bank) và Tổ chức thương mại quốc tế ITO (International Trade
Organization)1. Vào năm 1945, hai tổ chức quốc tế là Quĩ tiền tệ quốc tế IMF và
Ngân hàng Tái thiết và phát triển quốc tế IBRD được thành lập và đi vào hoạt động.
Tuy nhiên Tổ chức thương mại quốc tế ITO đã không được thành lập do không
được các quốc gia tham gia hội nghị phê chuẩn2.
Mặc dù Tổ chức thương mại quốc tế ITO không được thành lập nhưng các bản
Hiến chương đề xuất của Hoa Kỳ về việc thành lập ITO (Suggest Charter) năm
1946 và bản Hiến chương ITO về Thương mại và Việc làm (Hiến chương Havana)
năm 1948 đã có những quy định để điều chỉnh những hoạt động thương mại quốc tế
đặc thù từ các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đặc biệt là Liên Xơ nhằm khuyến
khích việc gia nhập của Liên Xô và các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vào tổ
chức thương mại quốc tế này.
Trong bản Hiến chương đề xuất về việc thành lập ITO của Hoa Kỳ đã có
những quy định cụ thể để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế đối với các nền
kinh tế có sự độc quyền thương mại của Nhà nước như: Điều 26 (với tiêu đề “không
phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp Nhà nước”) đã đưa ra đề xuất các thành
viên sẽ không phân biệt đối xử với doanh nghiệp Nhà nước (kể cả đối với những
doanh nghiệp Nhà nước độc quyền hoặc có đặc quyền đặc biệt) với những doanh
1

truy cập ngày 30/9/2016.


2

truy cập ngày 30/9/2016.


8

nghiệp khác có cùng vị trí và đặt ra u cầu cung cấp những thông tin cần thiết về
hoạt động của những doanh nghiệp Nhà nước này cho các thành viên khác. Điều 27
(với tiêu đề “mở rộng thương mại về những sản phẩm riêng biệt đối với những Nhà
nước độc quyền”) đã quy định đối với những quốc gia độc quyền hoàn toàn hoặc
độc quyền một cách cơ bản về nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì phải đàm phán với các
thành viên khác mức biên độ lợi nhuận tối đa giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá
xuất khẩu mang tính độc quyền. Điều 28 (với tiêu đề “mở rộng thương mại về nhập
khẩu đối với những Nhà nước độc quyền”) quy định những thành viên thiết lập
hoặc duy trì sự độc quyền hồn tồn hoặc độc quyền một cách cơ bản trong thương
mại nhập khẩu phải đàm phán với những thành viên khác một thoả thuận liên quan
đến việc cắt giảm thuế quan, phải cam kết nhập khẩu định kì một số lượng hàng hố
khơng thấp hơn số lượng được thoả thuận. Những quy định trên được đưa ra nhằm
hạn chế và đối phó với sự ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động thương mại từ các nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung (sau này những quốc gia này được các nước Tư bản
phương Tây và Hoa Kỳ gọi là các nền kinh tế phi thị trường). Trong thực tế, vấn đề
về nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã được điều chỉnh trong hiệp định thương
mại song phương giữa Liên Xô và Hoa Kỳ vào năm 1935 theo đó Liên Xơ phải cam
kết nghĩa vụ nhập khẩu hàng hoá từ Hoa Kỳ với kim ngạch hàng năm không thấp
hơn 30 triệu USD để được hưởng quy chế đối xử tối huệ quốc MFN từ Hoa Kỳ3.
Trong bản Hiến chương Havana năm 1948 về việc thành lập tổ chức thương
mại quốc tế ITO cũng đã có quy định tương tự bản Hiến chương đề xuất của Hoa
Kỳ. Tại phần D bản Hiến chương Havana “thương mại Nhà nước và các vấn đề có
liên quan” có ba điều quy định những nội dung có liên quan đến hoạt động thương

mại độc quyền của Nhà nước gồm: Điều 29 “chế độ không phân biệt đối xử”, Điều
30 “tổ chức tiếp thị” và Điều 31 “sự mở rộng thương mại”. Nội dung của các Điều
này quy định một nước thành viên thiết lập, duy trì chính thức hay trên thực tế sự
độc quyền thương mại thì đối với việc độc quyền xuất khẩu phải hạn chế hoặc giảm
sự bảo hộ dành người sử dụng các sản phẩm độc quyền trong nước hoặc phải đảm
bảo việc xuất khẩu sản phẩm độc quyền với số lượng đầy đủ với giá cả hợp lý; đối
với việc độc quyền nhập khẩu thì phải hạn chế hoặc giảm sự bảo hộ đối với các sản
phẩm độc quyền, hoặc phải thoả thuận một mức thuế suất với các thành viên khác

3

Alexander Polouektov (2002), The non market economy issue in international trade in the context of wto
accessions, United Nations Conference en Trade and Development, trang 7.


9

hoặc phải chấp nhận nghĩa vụ nhập khẩu một mức hàng hố đối với hàng hố có
liên quan4.
Mặc dù những quy định trên của Hiến chương đề xuất của Hoa Kỳ và bản
Hiến chương Havana chỉ mới được thảo luận, chưa có giá trị pháp lý trên thực tiễn
thương mại quốc tế nhưng nó hướng đến mục đích hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực của sự độc quyền Nhà nước trong thương mại từ những nước này đồng thời qua
đó cũng tạo điều kiện cho những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung gia
nhập sân chơi thương mại tồn cầu một cách bình đẳng.
Song song với việc đàm phán thành lập tổ chức thương mại quốc tế ITO, các
quốc gia cũng đàm phán và ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch
GATT vào năm 1947 để giải quyết tạm thời các vấn đề thương mại quốc tế trong
giai đoạn khôi phục kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ II. Khi Tổ chức
ITO không được thành lập, GATT được xem là một giải pháp pháp lý thay thế. Tuy

nhiên những nội dung liên quan đến sự độc quyền của Nhà nước trong thương mại
quốc tế và thương mại trong nước trong các bản Hiến chương đề xuất của Hoa Kỳ
và Hiến chương Havana lại không được quy định trong GATT 1947 mà thay vào đó
GATT chỉ quy định việc điều chỉnh pháp lý đối với doanh nghiệp thương mại Nhà
nước5. Theo đó GATT quy định các quốc gia thành lập doanh nghiệp thương mại
nhà nước phải điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp này sao cho hạn chế sự ảnh
hưởng của chính phủ đối với các hoạt động thương mại, cũng như yêu cầu các
doanh nghiệp này phải được hoạt động trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối
xử. Quy định này không đề cập đến vấn đề về thương mại độc quyền của Nhà nước
như trong bản Hiến chương đề xuất của Hoa Kỳ và trong bản Hiến chương Havana.
Như vậy vấn đề về nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không được điều chỉnh riêng
biệt ở trong Hiệp định GATT 1947.
Sau khi GATT 1947 có hiệu lực, một số quốc gia có chính sách kinh tế kế
hoạch tập trung không bị sự phân biệt đối xử so với các thành viên có nền kinh tế
thị trường khác như trường hợp của Cuba và Tiệp Khắc - là thành viên của GATT
1947 và sau đó các nước này đã chuyển đổi nền kinh tế sang kế hoạch tập trung. Do
quan hệ thương mại giữa hai nước này với các thành viên khác của GATT khơng
nhiều nên các bên kí kết thấy không cần thiết phải đặt ra các nghĩa vụ đặc biệt cho
những nước này. Mãi cho đến thập niên 1950 khi thương mại giữa các nước Đông
4

Điều 31 Hiến chương Havana năm 1948 của Uỷ ban Thương mại và việc làm của Liên Hợp quốc.

5

Điều XVII “doanh nghiệp thương mại Nhà nước” của Hiệp định GATT năm 1947.


10


Âu và các nước Tây Âu, Hoa Kỳ bắt đầu gia tăng, việc điều chỉnh các mối quan hệ
thương mại giữa đối với những quốc gia theo kế hoạch kinh tế tập trung đã được
nêu ra trong các vòng đàm phán sửa đổi, bổ sung GATT 1947. Tiệp Khắc là quốc
gia đầu tiên đưa ra đề xuất điều chỉnh pháp lý đối với những nước có nền kinh tế tập
trung trong các thủ tục điều tra chống bán phá giá theo Điều VI của GATT 19476.
Từ đề xuất của Tiệp Khắc mà trong phiên thảo luận đầu tiên của hệ thống thương
mại đa phương diễn ra vào năm 1954 - 1955 về vấn đề trợ cấp và bán phá giá,
đoạn thứ 2 Khoản 1 phụ lục bổ sung điều VI của GATT 1947 được thoả thuận
thông qua với quy định đối với nước độc quyền về thương mại và Nhà nước định
đoạt tồn bộ giá cả trong nước thì nước nhập khẩu là thành viên của GATT 1947
khi xác định giá trị thông thường là giá trong nước của nước xuất khẩu này trong
cuộc điều tra chống bán phá giá có thể gặp khó khăn và khơng thích hợp.
Phụ lục trên của GATT 1947 được kế thừa và giữ nguyên trong Hiệp định
GATT 1994 và được Điều 2.7 Hiệp định ADA viện dẫn áp dụng. Đây được xem là
quy định điều chỉnh trực tiếp đến các nước có sự độc quyền trong thương mại
quốc tế và thương mại trong nước hay cịn được gọi là những nước có nền kinh tế
phi thị trường trong lĩnh vực chống bán phá giá. Xuất phát từ quy định trên mà các
quốc gia khi gia nhập GATT như Ba Lan, Romania, Hungary và các quốc gia khi
gia nhập WTO như Việt Nam, Trung Quốc, Tajikistan7 cũng đã phải chấp nhận
nội dung chế độ pháp lý này ở mức độ khác nhau trong văn kiện gia nhập của
mình. Đối với trường hợp của Ba Lan phải cam kết nghĩa vụ nhập khẩu hàng hố
khơng ít hơn 7% mỗi năm để được hưởng quy chế MFN của GATT. Romania cam
kết tăng hàng nhập khẩu từ các thành viên theo một tỷ lệ không nhỏ hơn tốc độ tăng
trưởng của tổng hàng nhập khẩu mà Romani quy định trong kế hoạch năm năm8.
Việt Nam và Trung Quốc cũng phải cam kết chịu sự đối xử khác biệt về vấn đề nền
kinh tế phi thị trường của mình trong cả lĩnh vực điều tra chống bán phá giá và điều
tra chống trợ cấp.
Ngoài quy định trên của GATT, trong khuôn khổ của WTO Hiệp định về trợ
cấp và các biện pháp đối kháng SCM, Hiệp định về biện pháp thương mại liên
6


Chieh Huang (2008), Nonmarket Economies’ Accessions to the WTO: An Empire is Rising?, trang 4.

7

Ba Lan gia nhập GATT vào ngày 23/6/1967; Romania gia nhập GATT vào ngày 05/8/1971; Hungary gia
nhập GATT vào ngày 20/7/1973; Trung Quốc gia nhập WTO ngày 11/12/2001; Việt Nam gia nhập WTO
vào ngày 11/1/2007; Tajikistan gia nhập WTO ngày 2/2/2013.
8

truy cập
ngày 30/9/2016.


11

quan sở hữu trí tuệ TRIPS và Hiệp định Nơng nghiệp đã có những quy định về
trường hợp những nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường với mục đích tạo điều kiện và hỗ trợ cho các nền
kinh tế này chuyển đổi hoàn toàn sang nền kinh tế thị trường9.
Một số quốc gia dựa trên quy chế pháp lý đặc biệt mà GATT quy định đối
với các quốc gia độc quyền trong thương mại quốc tế và thương mại trong nước
này đã đơn phương ban hành trong hệ thống pháp luật của mình những quy chế
pháp lý nền kinh tế phi thị trường vượt ra khỏi phạm vi của GATT như: việc tính
tốn biên độ chống bán phá giá và áp thuế chống bán phá giá đối với các nền kinh
tế phi thị trường, việc giả định các thực thể kinh tế phi thị trường thuộc về một
thực thể kinh tế phi thị trường toàn phần và phải chịu mức thuế suất kinh tế phi thị
trường toàn phần, việc đặt ra các bài kiểm tra đối với các doanh nghiệp ở nước
NME phải thoả mãn để được hưởng mức thuế suất riêng lẻ (như bài kiểm tra IT,
bài kiểm tra MET của Liên minh Châu Âu, bài kiểm tra mức thuế suất riêng lẻ của

Hoa Kỳ)10.
Như vậy có thể thấy rằng từ những ý tưởng ban đầu trong bản hiến chương đề
xuất của Hoa Kỳ và bản hiến chương Havana thành lập ITO với nội dung đặt ra
nghĩa vụ đối với các quốc gia có thương mại Nhà nước độc quyền trong thương mại
quốc tế và trong thương mại trong nước phải cam kết chấm dứt hoặc hạn chế sự bảo
hộ, cam kết về giá hoặc cam kết nhập khẩu một khối lượng hàng hoá hàng năm cho
đến những quy định của đoạn thứ hai Khoản 1 phụ lục bổ sung điều VI GATT 1947
quy định đối với trường hợp quốc gia có chế độ độc quyền trong thương mại quốc
tế và trong thương mại trong nước thì các nước thành viên có thể khơng sử dụng giá
tại những quốc gia này để xác định giá thông thường trong vụ điều tra chống bán
phá giá. Hiện nay quy chế NME trong lĩnh vực chống bán phá giá được thể hiện rất
đa dạng không chỉ trong đoạn thứ hai Khoản 1 phụ lục bổ sung điều VI GATT 1994
mà còn bao gồm nội dung cam kết về vấn đề nền kinh tế phi thị trường của Trung
Quốc, Việt Nam, Tajikistan khi gia nhập WTO11 và cả trong hệ thống pháp luật

9

Điều 29 Hiệp định SCM; Điều 65 Hiệp định TRIPS; Lời mở đầu Hiệp định Nông nghiệp.

10

Mục 771Đạo luật Thuế quan năm 1930, đạo luật Bulletin 05.1 của Hoa Kỳ; Điều 2.7, Điều 9.5 Quy chế
chống bán phá giá cơ bản của Liên minh Châu Âu EU năm 2009.
11

Đoạn 15 Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc năm 2001; Đoạn 254, 255 Báo cáo của Ban công
tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam năm 2007; Đoạn 164 Báo cáo của Ban công tác về việc gia nhập
WTO của Tajikistan vào năm 2013.



12

chống bán phá giá của các quốc gia thành viên WTO điển hình là trong pháp luật
chống bán phá giá của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu.
1.1.2. Tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường
Về phương diện thuật ngữ, thuật ngữ “nền kinh tế phi thị trường” (Non
market economy) có nguồn gốc ra đời đặc biệt với những tên gọi khác nhau qua
các giai đoạn lịch sử. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ “quốc gia thương
mại nhà nước” (State-trading country) được sử dụng để chỉ những nước khơng có
hoặc chưa có nền kinh tế thị trường như các quốc gia phương Tây. Thuật ngữ này
được sử dụng với mục đích đề cập đến vai trò áp đảo của nhà nước trong hoạt
động ngoại thương ở một số quốc gia Đông Âu và Liên Xô. Khi quan hệ ngoại
thương của những nước XHCN được mở rộng với các nước Tây Âu và Hoa Kỳ,
đồng thời vai trò độc quyền tuyệt đối của Nhà nước đã được giảm bớt đối với các
hoạt động ngoại thương, các nhà kinh tế và chính trị gia sử dụng thuật ngữ “nền
kinh tế kế hoạch tập trung” để chỉ tính chất phi thị trường trong hệ thống kinh tế
của những nước này với cơ cấu kinh tế do Nhà nước tổ chức và điều hành theo các
kế hoạch hàng năm và theo 5 năm. Vào năm 1973 đạo luật thuế quan của Hoa Kỳ
đã sử dụng thuật ngữ “quốc gia kiểm sốt nền kinh tế” (controlled-economy
country) để nói về tính chất nền kinh tế của các nước XHCN. Ngoài ra thuật ngữ
“quốc gia XHCN” (socialist country) cũng được sử dụng để nói về các nước có
nền kinh tế phi thị trường xuất phát từ sự phân chia ý thức hệ giữa 2 cực – XHCN
và tư bản chủ nghĩa. Vào những năm cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990,
những quốc gia XHCN tiến hành cải cách nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường,
thuật ngữ “những quốc gia chuyển đổi” (transition countries) được sử dụng, cùng
với cách gọi này, thuật ngữ “nền kinh tế phi thị trường” (non market economy)
cũng được sử dụng trong pháp luật của các nước như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu
EU12. Mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng thuật ngữ “nền kinh tế phi thị
trường” (Non market economy) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong pháp luật
của các quốc gia cũng như trong thương mại quốc tế hiện nay để chỉ về nền kinh tế

của các quốc gia khi chưa có nền kinh tế thị trường đầy đủ đặc biệt là các nước
XHCN. Trong pháp luật của các nước như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu thuật ngữ
nền kinh tế phi thị trường được sử dụng hàm ý ẩn chứa yếu tố chính trị khi các nước

12

Alexander Polouektov (2002), tlđd số 3, trang 38.


13

này đơn phương ban hành các tiêu chí để xác định nền kinh tế thị trường13 và nếu
một quốc gia không chứng minh thoả mãn đầy đủ nội dung các tiêu chí hoặc thiếu
một trong các tiêu chí trên thì quốc gia đó được xác định là nền kinh tế phi thị
trường.
Sự thay đổi của các thuật ngữ về nền kinh tế phi thị trường phần nào phản ánh
chính sách của các quốc gia phương Tây đối với những nền kinh tế này qua các thời
kỳ. Chính sách mang đầy tính chính trị đối với các nền kinh tế phi thị trường còn
được thể hiện qua việc đưa ra các định nghĩa khác nhau cũng như các tiêu chí xác
định nền kinh tế thị trường
- Theo Uỷ ban về thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD)
trong từ điển chú giải thuật ngữ hải quan thì :
Nền kinh tế phi thị trường là một nền kinh tế quốc gia, trong đó chính phủ
tìm cách để xác định hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua một cơ chế kế
hoạch tập trung, như ở Liên Xô cũ, khác với một nền kinh tế thị trường nơi
phụ thuộc rất nhiều vào các lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực sản
xuất. Trong một nền kinh tế phi thị trường các chỉ tiêu sản xuất, giá cả, chi
phí, phân bổ đầu tư, nguyên liệu, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết
các nhân tố kinh tế khác đều được xử lý trong một kế hoạch kinh tế quốc
gia được lập bởi cơ quan kế hoạch trung ương; chính vì vậy các khu vực

công đưa ra các quyết định quan trọng ảnh hưởng tới cung và cầu trong nền
kinh tế quốc gia14.
Từ định nghĩa trên có thể thấy UNCTAD quan niệm nền kinh tế phi thị
trường là nền kinh tế của một quốc gia hoạt động thông qua cơ chế kế hoạch tập
trung của Nhà nước để quyết định và phân bổ các nguồn lực sản xuất. Định nghĩa
này chủ yếu tập trung và nhận diện các nước XHCN với đặc trưng về quản lý, phát
triển kinh tế theo kế hoạch tập trung là những nước có nền kinh tế phi thị trường.
Định nghĩa của UNCTAD cũng đã chỉ ra một số tiêu chí để phân biệt giữa nền kinh
tế phi thị trường và nền kinh tế thị trường như chỉ tiêu sản xuất, giá cả, chi phí, phân
bổ đầu tư, nguyên liệu, lao động, thương mại quốc tế và hầu hết các nhân tố kinh tế
khác. Những tiêu chí này khó có thể định tính và định lượng một cách chính xác.
13

Pháp luật của Hoa Kỳ đưa ra 6 tiêu chí xác định quốc gia có nền kinh tế phi thị trường tại Luật thuế quan
năm 1930; Pháp luật Liên minh Châu Âu đưa ra 5 tiêu chí xác định doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế kinh
tế thị trường tại Quy chế Hội đồng của Liên minh Châu Âu EU năm 2009.
14

Truy cập vào ngày 26/5/2016.


14

- Ngân hàng thế giới (World Bank) trong các bản báo cáo và nghiên cứu về
kinh tế, thảo luận sự cải tổ chính sách và thay đổi thể chế của các thành viên xin gia
nhập để chuyển đối từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường
trong những năm 1990 đã đưa ra một số tiêu chuẩn để xác định nền kinh tế của một
quốc gia là nền kinh tế phi thị trường. Cụ thể vào năm 1991 khi Tiệp Khắc đệ đơn
gia nhập Ngân hàng thế giới và Quĩ tiền tệ quốc tế, trong bản báo cáo về quốc gia
này, Ngân hàng thế giới đã đề cập về nền kinh tế thị trường:

Một nền kinh tế thị trường địi hỏi có một hệ thống ngân hàng hiện đại với
sự phân chia rõ ràng về lao động giữa ngân hàng trung ương trong việc ban
hành các chính sách tiền tệ, giám sát việc gửi tiền và ngân hàng thương mại
khu vực phụ trách những phần cịn lại15.
Một nền kinh tế thị trường khơng thể hoạt động đúng nếu khơng có sự cạnh
tranh và sự tự do để định giá, việc kiểm soát giá cả sẽ chỉ thực hiện đối với
một vài hoạt động chẳng hạn như những sự độc quyền mang tính tự nhiên
như nước, điện, khí đốt, và các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe giống
như những nền kinh tế thị trường khác16.
Nhận định trên Ngân hàng Thế giới chỉ chủ yếu tập trung vào những yếu tố cơ
bản phải có của nền kinh tế thị trường như hệ thống ngân hàng hiện đại, sự cạnh
tranh, sự tự do để định giá và cho phép tồn tại một số lĩnh vực độc quyền. Các tiêu
chuẩn này phần nhiều phản ánh chủ yếu hoạt động của hoạt động ngân hàng trong
việc xác định và phân biệt giữa nền kinh tế thị trường và nền kinh tế phi thị trường.
Tuy nhiên vẫn có thể đánh giá những tiêu chí này mang đầy tính chủ quan khi đề
cập đến những tiêu chí độc quyền mang tính tự nhiên “như những nền kinh tế thị
trường khác”.
- Pháp luật của Hoa Kỳ tại Mục 771 (18) của Đạo luật thuế quan năm 1930 và
được sửa đổi tại Luật 19 của Hoa Kỳ mục 1677 (18) đã định nghĩa về nền kinh tế
phi thị trường:
Thuật ngữ “quốc gia nền kinh tế phi thị trường” có nghĩa là bất kỳ quốc gia
nước ngoài nào mà cơ quan quản lý quyết định cơ cấu chi phí hoặc giá cả

15

Vera Thorstensen, Daniel Ramos, Carolina Muller, Fernanda Bertolaccini (2013), WTO – market and nonmarket economies: the hybrid case of China, trang 6.
16

Vera Thorstensen, Daniel Ramos, Carolina Muller, Fernanda Bertolaccini (2013), tlđd số 15, trang 7.



15

khơng hoạt động trên ngun tắc thị trường, do đó, doanh số của hàng hóa
trong nước đó khơng phản ánh giá trị hợp lý của hàng hóa.
Định nghĩa này của Hoa Kỳ cũng chỉ chủ yếu dựa vào yếu tố giá, chi phí được
quyết định bởi Nhà nước để chỉ rõ về quốc gia nền kinh tế phi thị trường. Chúng ta
có thể thấy nếu chỉ dựa vào yếu tố giá, chi phí khơng theo ngun tắc thị trường để
định danh nền kinh tế phi thị trường thì đây là vấn đề mang tính phiến diện.
Từ những định nghĩa khác nhau về nền kinh tế phi thị trường và nền kinh tế
thị trường trên có thể thấy mặc dù chúng đã cố gắng liệt kê những yếu tố để phân
biệt giữa nền kinh tế thị trường và nền kinh tế phi thị trường nhưng các định nghĩa
này mang đầy tính chủ quan và phiếm diện, điểm chung của chúng là xem yếu tố
độc quyền và sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là những đặc điểm cơ bản
của nền kinh tế phi thị trường đồng thời xem hình thức nền kinh tế phi thị trường là
hình thức kinh tế đối lập hoàn toàn với nền kinh tế thị trường.
Về các tiêu chí xác định nền kinh tế phi thị trường hiện nay cũng chưa có một
tiêu chí chung được thừa nhận trong thương mại quốc tế.
- Đoạn thứ hai Khoản 1 Phụ lục bổ sung điều VI GATT là quy định hiện hành
của WTO xác lập chế độ đối xử khác biệt về lĩnh vực điều tra chống bán phá giá
liên quan đến nền kinh tế phi thị trường. Quy định này đã đề cập đến tiêu chí để xác
định một quốc gia sẽ chịu sự điều chỉnh bởi quy định trên nếu thoả mãn: thương
mại hoàn tồn mang tính độc quyền hay hầu như độc quyền hoặc toàn bộ giá trong
nước do Nhà nước định đoạt. Tuy nhiên quy định này chưa làm rõ các tiêu chí trên
có phải là các tiêu chí để xác định nền kinh tế phi thị trường hay không? Một quốc
gia cần phải thoả mãn cả hai điều kiện hay chỉ cần thoả mãn một trong các điều
kiện sự độc quyền trong thương mại và giá trong nước do Nhà nước định đoạt thì sẽ
chịu sự điều chỉnh bới quy định trên. Vấn đề trên được cơ quan AB làm rõ trong vụ
EU - các biện pháp chống bán phá đối với chốt cài bằng sắt hoặc thép từ Trung
Quốc DS 397, theo đó cơ quan AB đã giải thích rõ Đoạn thứ hai Khoản 1 Phụ lục

bổ sung điều VI GATT như sau:
Chúng tôi thấy rằng khoản 2 phụ lục bổ sung Điều VI.1 của GATT đề cập
đến một nước mà “thương mại hồn tồn mang tính độc quyền hay hầu như
độc quyền trong thương mại của mình” và “nơi mà toàn bộ giá trong nước
do Nhà nước định đoạt”. Điều này dường như mơt tả một hình thức nhất


16

định của nền kinh tế phi thị trường nơi mà Nhà nước độc quyền kinh doanh
thương mại và thiết lập tất cả giá trong nước17.
Ngoài ra tại phần footnote số 460 của bản phán quyết trên cơ quan AB cũng
nhận định: “Đoạn thứ hai phụ lục bổ sung Điều VI:1 thực tế sẽ khơng được áp dụng
đối với những hình thức nền kinh tế phi thị trường không thoả mãn đủ 2 điều kiện
sự độc quyền hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trong thương mại và Nhà nước ấn
định tất cả giá cả”.
Như vậy với quy định trên của GATT và phán quyết của cơ quan AB trong vụ
DS 397 cho thấy trên thực tế sẽ có nhiều hình thức nền kinh tế phi thị trường nhưng
chỉ đối với những nền kinh tế phi thị trường nào mà Nhà nước độc quyền kinh
doanh thương mại và thiết lập tất cả giá trong nước mới chịu sự điều chỉnh bởi
Đoạn thứ hai Khoản 1 phụ lục bổ sung điều VI của GATT. Tuy nhiên những hình
thức nền kinh tế khác ngồi các tiêu chí mà Phụ lục GATT quy định bao gồm
những hình thức nào? Tiêu chí để xác định những hình thức kinh tế phi thị trường
đó? Những vấn đề này hiện nay vẫn chưa được giải thích và quy định trong hệ
thống pháp luật của WTO cũng như trong các phán quyết của cơ quan DSB.
- Pháp luật của Hoa Kỳ tại Mục 771 (18) Luật Thuế quan năm 1930 quy định
các tiêu chí để xem xét một nền kinh tế có phải là nền kinh tế thị trường không:
+ Mức độ mà đồng tiền nội tệ được quy đổi thành tiền của nước khác;
+ Mức độ theo đó mức tiền lương được xác định bằng cách tự do thoả thuận
giữa người lao động và nhà quản lý;

+ Mức độ theo đó các cơng ty nước ngồi được phép liên doanh hoặc có
những đầu tư khác vào một nước khác;
+ Mức độ sở hữu của Chính phủ hay kiểm soát các phương tiện sản xuất;
+ Mức độ kiểm sốt của Chính phủ về sự phân phối các nguồn nguyên liệu
vật liệu và giá cả và quyết định đầu ra của doanh nghiệp;
+ Các yếu tố khác mà cơ quan có thẩm quyền coi là phù hợp.
Theo quy định này nếu Bộ thương mại Hoa Kỳ DOC xét thấy rằng một nền
kinh tế không thoả mãn một trong các tiêu chí trên thì được xác định ngay là nền
kinh tế phi thị trường. Trong 06 tiêu chí trên thì có 03 tiêu chí liên quan đến hoạt
17

Appellate Body Reports - DS 397 (2011), European Communities - Definitive anti-dumping measures on
certain iron or steel fasteners from China, trang 285.


17

động của Chính phủ, có 02 tiêu chí liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và có
01 tiêu chí được xác định tuỳ nghi bởi cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ. Những
tiêu chí này cho thấy pháp luật Hoa Kỳ xác định một nước có nền kinh tế thị trường
mang tính chủ quan và nếu áp dụng những tiêu chí này để xem xét, đánh giá một
nước có nền kinh tế thị trường được thừa nhận rộng rãi cũng có thể khơng thoả mãn
đầy đủ.
- Pháp luật của Liên minh Châu Âu khơng đưa ra tiêu chí để xác định quốc gia
có nền kinh tế phi thị trường mà liệt kê rõ nhóm các quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường bao gồm nhóm 1 là những quốc gia nền kinh tế phi thị trường chưa phải là
thành viên của WTO như: Azerbaijan, Belarus, Bắc Triều Tiên, Tajikistan,
Turkmenistan, Uzbekistan; nhóm hai những quốc gia nền kinh tế phi thị trường
đang là thành viên WTO như: Trung Quốc, Việt Nam và Kazakhstan18. Có thể thấy
đây là những nước thuộc liên bang Xô Viết cũ và Đông Âu trước đây và những

nước XHCN hiện nay. Mặc dù không đưa ra tiêu chí để xác định quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường nhưng pháp luật của Liên minh Châu Âu lại đưa ra các tiêu
chuẩn để xác định một doanh nghiệp hoạt động theo nền kinh tế thị trường:
+ Các quyết định của doanh nghiệp liên quan đến giá cả, chi phí và nguyên
liệu đầu vào kể cả ngun liệu thơ, chi phí kỹ thuật và nhân công, giá trị
đầu vào, doanh thu bán hàng và đầu tư; được đưa ra nhằm đáp ứng với
những báo hiệu thị trường về tình trạng cung – cầu, và khơng có sự can
thiệp đáng kể nào của Nhà nước đối với các quyết định này và chi phí cho
nguyên liệu chính của đầu vào phải phản ánh được một cách cơ bản giá trị
trên thị trường;
+ Các doanh nghiệp phải có một hệ thống sổ sách kế tốn rõ ràng, được
kiểm toán một cách độc lập theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế và được áp
dụng cho tất cả mục đích;
+ Chi phí sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp không phải chịu
những sai lệch đáng kể do hệ thống nền kinh tế thị trường trước đây mang
lại, đặc biệt là liên quan tới sự giảm giá trị của tài sản, các loại phế thải
khác, bán tống bán tháo và thanh tốn thơng quan hình thức bồi thường các
khoản nợ;

18

Điều 2 (7) Quy tắc Hội Đồng số 284/96 sau này được thay thế bằng Quy tắc Hội đồng số 1225/2009 của
Liên minh Châu Âu EU.


18

+ Các doanh nghiệp được đề cập ở trên phải tuân theo Luật phá sản và
Luật sở hữu tài sản để đảm bảo tính chắc chắn về mặt pháp lý và ổn định
cho hoạt động của doanh nghiệp;

+ Việc chuyển đổi tỷ giá hối đoái phải được thực hiện theo tỷ giá trên thị
trường.
Điều đáng quan tâm đối với các tiêu chí xác định doanh nghiệp hoạt động theo
nền kinh tế thị trường trên thì có 04 tiêu chí liên quan đến hoạt động của doanh
nghiệp nhưng có 01 tiêu chí liên quan đến hoạt động của Chính phủ. Điều này phản
ánh nếu một doanh nghiệp cố gắng chứng minh mình hoạt động theo nền kinh tế thị
trường vẫn chưa đủ mà địi hỏi cần phải có sự tham gia nhất định từ Nhà nước.
Như vậy có thể thấy tuỳ vào các góc độ tiếp cận khác nhau mà Hiệp định
GATT, quan điểm của các tổ chức quốc tế và pháp luật các quốc gia có nhiều tiêu
chí khác nhau để xác định nền kinh tế phi thị trường hay nền kinh tế thị trường.
Hiệp định GATT trên cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử quy định hai tiêu chí
khách quan: sự độc quyền của Nhà nước trong thương mại và Nhà nước ấn định tất
cả giá trong nước nếu một nền kinh tế thoả mãn cả hai tiêu chí này được xem là nền
kinh tế phi thị trường và phải chịu chế độ đối xử khác biệt của GATT, quy định này
được đưa ra nhằm hạn chế và đối phó với những tiêu cực từ sự độc quyền của Nhà
nước trong thương mại. Quan điểm của các tổ chức quốc tế như UNCTAD, WB lại
chỉ mới đề cập đến một khía cạnh nhất định của nền kinh tế phi thị trường dưới giác
độ tiếp cận những vấn đề liên quan đến các hoạt động của các tổ chức này. Trong
khi đó pháp luật của một số quốc gia như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu lại quy định
các tiêu chí mang tính chủ quan tạo ra sự tuỳ nghi rất lớn cho cơ quan có thẩm
quyền của những nước này khi xem xét một nước hoặc một doanh nghiệp có nền
kinh tế thị trường hay khơng. Chính vì thế mà các tiêu chí xác định nền kinh tế thị
trường trong pháp luật của Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu không chỉ là vấn đề pháp
lý mà cịn là những cơng cụ chính trị áp đặt đối với các nước XHCN.
1.2. Quy chế về nền kinh tế phi thị trƣờng trong pháp luật chống bán phá
giá của WTO
1.2.1. Quy chế nền kinh tế phi thị trường về vấn đề chống bán phá giá trong
hiệp định GATT và Hiệp định ADA
Vấn đề chống bán phá giá được quy định trong pháp luật của các quốc gia vào
đầu thế kỷ XIX. Vào năm 1904, Bộ trưởng Tài chính của Canada đã đề xuất xây

dựng một đạo luật chống bán phá giá nhằm áp đặt mức thuế chống bán phá giá


19

riêng biệt so với hàng rào thuế quan để ứng phó với vấn đề bán phá giá ngày càng
gia tăng. Trong thương mại quốc tế vấn đề chống bán phá giá được đề cập đầu tiên
tại Điều VI của Hiệp định GATT 194719. Qua các vòng đàm phán sửa đổi GATT,
pháp luật chống bán phá giá đã được đàm phán sửa đổi, bổ sung qua các vòng đàm
phán Kennedy (1964-1967) với 17 bên tham gia ký kết, vòng đàm phán Tokyo
(1974-1979) với 25 bên tham gia ký kết, vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) với
sự ra đời Hiệp định chống bán phá giá ADA20.
Hiện nay quy định của hiệp định GATT và hiệp định ADA liên quan đến nền
kinh tế phi thị trường trong lĩnh vực chống bán phá giá được thể hiện tại Đoạn thứ
hai khoản 1 phụ lục bổ sung Điều VI GATT, Điều 2.7 của Hiệp định ADA. Ngồi
ra phương pháp xác định giá trị thơng thường mà Phụ lục trên của GATT quy định
cũng được ghi nhận tại Điều 2.2 Hiệp định ADA.
- Đoạn thứ hai Khoản 1 phụ lục bổ sung Điều VI GATT được các quốc gia
thành viên GATT 1947 thoả thuận thông qua vào năm 1955 trên cơ sở sự đề xuất
của Tiệp Khắc, quy định này được giữ nguyên trong GATT 1994 có nội dung cụ thể
như sau:
Thừa nhận rằng trong trường hợp nhập khẩu từ một nước mà thương mại
hoàn toàn mang tính độc quyền hay hầu như độc quyền hoặc tồn bộ giá
trong nước do Nhà nước định đoạt, việc xác định tính so sánh của giá cả
nhằm mục đích nêu tại khoản đầu tiên có thể có những khó khăn đặc biệt và
trong những trường hợp đó, các bên ký kết là bên nhập khẩu có thể thấy cần
tính đến khả năng rằng việc so sánh chính xác với giá cả trong nước của
nước đó khơng phải lúc nào cũng thích đáng.
Điều 2.2 của hiệp định ADA cũng quy định phương pháp xác định giá trị thông
thường tương tự như Phụ lục trên của GATT:

Trong trường hợp... do điều kiện đặc biệt của thị trường đó... biên độ bán phá
giá sẽ được xác định thông qua so sánh mới mức giá có thể so sánh được của
sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3 thích hợp, với điều
kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện...
Theo quan điểm của chúng tơi Điều 2.2 của hiệp định ADA có thể vừa liên
quan đến nền kinh tế thị trường vừa liên quan đến nền kinh tế phi thị trường vì tiêu
19

truy cập ngày 30/9/2016.

20

UNCTAD (2006), Training module on the WTO agreement on anti dumping, trang 3, trang 4.


×