Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lý thuyết đa chiều hostede

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.9 KB, 22 trang )

lOMoARcPSD|29958690

LÝ THUYẾT VĂN HÓA ĐA CHIỀU CỦA
HOFSTEDE
Hiện nay trên thế giới có 204 quốc gia, kèm theo đó là vơ số các nền văn hóa, cách ứng
xử khác nhau. Ví dụ như một số quốc gia theo đạo Hồi như Indonesia hay Ấn Độ thì
khơng ăn thịt heo. Ngay cả khái niệm đúng giờ ở một số quốc gia cũng có sự khác biệt,
trái ngược nhau.
Xu hóa tồn cầu hóa cùng sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay ngày càng giúp
mối quan hệ giữa người với người trên toàn thế giới phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều khía
cạnh. Mọi người từ nhiều nền văn hóa khác nhau có cơ hội được làm việc và tiếp xúc với
nhau. Làm thế nào để tạo được ấn tượng tốt, những điều cần lưu ý khi được làm việc
trong môi trường đa văn hóa.
Vậy có tiêu chuẩn nào để đánh giá sự khác biệt giữa các nền văn hóa hoặc sự khác biệt
đó dựa trên những khía cạnh nào ? Để trả lời cho câu hỏi này, vào những năm 1980 xuất
hiện một lý thuyết được cho là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia và vẫn được áp
dụng cho tới nay đó chính là “Lý thuyết chiều văn hóa của Hofstede.
I. Lịch sử ra đời lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede
1.1 Giới thiệu về Hofstede
Geert Hofstede (2/10/1928 – 12/2/2020) là một nhà tâm lý học xã hội người Hà Lan,
nhân viên IBM và Giáo sư danh dự về nhân chủng học và quản lý quốc tế tại Đại học
Maastricht ở Hà Lan. Những cuốn sách ông viết được dịch thành nhiều thứ tiếng khác
nhau, nổi tiếng với nghiên cứu tiên phong về các nhóm và tổ chức đa văn hóa.
1.2 Lý thuyết văn hóa đa chiều
Dựa vào việc phân tích các nhân tố, dữ liệu của bảng khảo sát nhân lực trên toàn thế giới
mà Hofstede có cơ hội thu thập trong q trình tuyển dụng nhân viên cho IBM, mơ hình
của ơng miêu tả sự ảnh hưởng của văn hóa xã hội lên các thành viên trong xã hội từ đó đề
ra Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede.
Hofstede đã thực hiện hai cuộc khảo sát vào năm 1968 và 1972 sau đó phân tích và chắt
lọc kĩ càng đưa ra mơ hình đầu tiên gồm bốn khía cạnh cần phân tích của các giá trị văn
hóa bao gồm: Chủ nghĩa cá nhân – chủ nghĩa tập thể (individualism – collectivism), mức


độ e ngại rủi ro (uncertainty avoidance), khoảng cách quyền lực (power distance) ,
masculinity-femininity (định hướng công việc - định hướng cá nhân).
Tuy nhiên Michael Harris Bond và các đồng nghiệp của mình ở Hồng Kông nhận thấy
rằng, nếu chỉ dựa trên 4 khía cạnh nói trên thì vẫn cịn hạn chế nên họ đã đưa ra khía cạnh
1


thứ năm, khía cạnh mà ban đầu họ gọi là chiều "động lực Khổng Tử" (Confucian
dynamism). Giáo sư Hofstede sau đó đã đưa thêm chiều này vào nghiên cứu ban đầu của
mình với tên là Định hướng dài hạn – Định hướng dài hạn (Long-term orientation shortterm orientation) mô tả cách nhìn của một xã hội là hướng tương lai, hay sống chỉ hướng
vào quá khứ và hiện tại. Thêm vào đó năm 2010, Geert Hofstede tiếp tục bổ sung khía
cạnh thứ 6 vào nghiên cứu của mình là Sự tự thỏa mãn – sự tự kiềm chế của con người
(Indulgence – restraint).
Nghiên cứu của Hofstede đem lại đóng góp to lớn trong lĩnh vực tâm lý đa sắc tộc.
Cuộc nghiên cứu này đã nhận được sự hỗ trợ và xác nhận từ các nhà nghiên cứu và tư
vấn tại nhiều lĩnh vực liên quan đến kinh doanh và giao tiếp quốc tế. Đây cũng là nguồn
tư liệu quan trọng và là nguồn cảm hứng trong các nghiên cứu về những khía cạnh văn
hóa đa quốc gia như giá trị và niềm tin của xã hội. Lý thuyết văn hóa đa chiều của
Hofstede được phát triển gồm 6 khía cạnh như sau:

Chủ nghĩa
cá nhân tập thể
Sự tự thỏa
mãn - kiềm
chế

Mức độ e
ngại rủi ro
Lý thuyết văn
hóa đa chiều

của Hofstede

Định hướng
dài hạn ngắn hạn

Khoảng
cách quyền
lực
Định hướng
công việc cá nhân

Sơ đồ 1: Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede

2


II. Các chiều văn hóa của Hofstede
2.1 Khoảng cách quyền lực
2.1.1 Khái niệm – Tổng quan
Chỉ số khoảng cách quyền lực (Power Distance Index - PDI) là một chỉ số đo lường sự
phân phối quyền lực và của cải giữa các cá nhân trong một doanh nghiệp, một nền văn
hóa hoặc một quốc gia.
Chỉ số khoảng cách quyền lực (PDI): được định nghĩa là “mức độ mà những thành
viên ít quyền lực của một tổ chức hoặc thể chế (hoặc gia đình) chấp nhận và kỳ vọng
rằng quyền lực được phân bổ khơng cơng bằng”. Trong khía cạnh này, sự bất công bằng
và tập trung quyền lực tập trung được những người ít quyền lực hơn nhận thức một cách
hiển nhiên. Vì vậy, chỉ số PDI cao thể hiện sự phân bổ quyền lực được thiết lập và thực
thi rõ ràng trong xã hội mà không vướng bất cứ sự nghi ngờ hay chất vấn nào. Chỉ số PDI
thấp thể hiện mức độ chất vấn cao về phân bổ quyền lực cũng như nỗ lực phân chia
quyền hành đồng đều."

2.1.2 Đặc điểm
Chỉ số khoảng cách quyền lực cung cấp bằng chứng về mức độ mà công dân thông
thường, hoặc cấp dưới, sẽ tuân thủ theo ý kiến của người có quyền thế.
- Chỉ số khoảng cách quyền lực thấp hơn ở các quốc gia và tổ chức nơi những người
có thẩm quyền làm việc chặt chẽ với cấp dưới. Khoảng cách quyền lực thấp thường đi
với những nước có hệ thống pháp luật, chính trị và phân chia thu nhập bình đẳng.
- Chỉ số khoảng cách quyền lực cao hơn ở những nơi có hệ thống phân cấp quyền
hành mạnh hơn. Những nước có khoảng cách lớn về quyền lực thường nằm ở các quốc
gia bất bình đẳng về thu nhập, có nền chính trị quan liêu và tham nhũng.
VD: Tại các quốc gia châu Á và Latin, các khu vực châu Phi và vương quốc Ả rập, chỉ
số quyền lực được quan sát thấy là rất cao. Trong khi đó, các nước Anglo và Germanic có
chỉ số quyền lực khá thấp (tại Úc là 11 và Đan Mạch là 18).
Ví dụ, Mỹ trong thang đánh giá của Hofstede đạt 40 điểm PDI, giữ ở mức trung bình.
Trong khi đó Guatemala có chỉ số khá cao là 95 cịn Israel lại khá thấp với chỉ 13 điểm
PDI.
Tại châu Âu, khoảng cách quyền lực có xu hướng thấp với các nước Bắc Âu và tăng
dần tại các nước phía Nam và Đơng Âu. Cụ thể, Ba Lan có 68 điểm PDI, Tây Ban Nha là
57, Thụy Điển là 31 và Vương Quốc Anh chỉ có 35.
Các nước Cơng giáo có chỉ số né tránh rủi ro khá cao, tương tự với khoảng cách quyền
lực. Trong khi đó, các nước vơ thần có thường ít né tránh rủi ro dù họ cũng có chỉ số
khoảng cách quyền lực cao
3


2.1.3 Ứng dụng
Nếu so sánh một giám đốc tiếp thị người Áo và một giám đốc tiếp thị người Malaysia
làm việc ở cùng cấp bậc trong một tổ chức, sẽ thấy rõ sự khác biệt về PDI. Giám đốc
người Malaysia có trách nhiệm và quyền lực hơn so với người Áo, PDI thấp. Trong một
chức của người Malaysia, quyền lực tập trung nhiều ở cấp cao hơn.
Việt Nam đạt chỉ số cao về phương diện này (đạt 70) có nghĩa là mọi người chấp nhận

trật tự có thứ bậc trong đó mọi người đều có một vị trị mà khơng cần biện minh thêm.
Kéo theo đó là sự bất bình đẳng giữa các cấp bậc, sự tập trung quyền lực, hiện tượng
"trên bảo dưới phải nghe" phố biến hơn. Nhân viên thường coi cơ quan, doanh nghiệp là
một gia đinh và lãnh đạo là người được kì vọng sẽ chăm lo cho gia đình đó về cả vật chất
và tinh thần.
Ví dụ, Áo có chỉ số khoảng cách quyền lực ~ 11, trong khi hầu hết các nước Ả Rập
có chỉ số khoảng cách quyền lực khoảng 80. Điều này cho thấy rằng, việc sử dụng các
phương thức kinh doanh hoặc phong cách quản lí của Áo ở một quốc gia Ả Rập có thể sẽ
gây phản tác dụng, vì chúng mâu thuẫn với cấu trúc xã hội Ả Rập.
Trong 1 đất nước có PDI cao như Malaysia (104) thì chỉ được gửi báo cáo cho đội
ngũ quản lý cấp cao và chỉ được tham gia vào cuộc họp kín. Điều quan trọng là phải hiểu
và điều chỉnh theo chỉ số khoảng cách quyền lực của một xã hội hoặc tổ chức để tiến
hành kinh doanh hiệu quả, tương tác với các thành viên và ngăn ngừa tình trạng sốc văn
hóa.
Các mối quan hệ quyền lực và cách chúng được nhìn nhận có ảnh hưởng lớn đến hành
động của một cá nhân trong quá trình đàm phán kinh doanh. Vì thế, với mỗi quốc gia có
chỉ số khoảng cách quyền lực khác nhau cần vận dụng mỗi phương pháp đàm phán khác
nhau.
- Đàm phán với văn hoá khoảng cách quyền lực cao:
+ Là cuộc đàm phán giữa các quản lý cấp cao
+ Người đàm phán nên tạo dựng mối quan hệ với các nhà lãnh đạo làm
cho quan hệ con người gắn bó hơn, đàm phán thuận lợi hơn.
+ Tìm hiểu về lực lượng đàm phán của họ gồm những ai? Ai là người có
quyền quyết định và có tiếng nói nhất? Từ đó tìm hiểu, chú tâm tới sở
thích và tính cách của họ.
- Đàm phán với văn hố khoảng cách quyền lực thấp:
+ Có thể là 1 uỷ viên điều hành của công ty; là bất kỳ ai có am hiểu về
lĩnh vực chun mơn
+ Chú trọng tới quyền, mục đích, ý muốn riêng của từng người
+ Người đàm phán không chỉ là một nhà quản trị kinh doanh mà còn là

một luật gia, nhà ngoại giao, tâm lý và kỹ thuật giỏi để phản ứng kịp
thời với nhiều luồng quan điểm từ các thành viên tham gia đàm phán.
Chỉ số khoảng cách quyền lực của một số quốc gia trên thế giới
4


Argentina
Australia
Brazil
Canada
Đan Mạch
Pháp
Đức
Anh
Ấn Độ
Indonesia

49
11
69
39
18
68
35
35
77
78

Israel
Nhật Bản

Mesico
Hà Lan
Panama
Tây Ban Nha
Thụy Điển
Thái Lan
Thổ Nhĩ Kỳ
Mỹ

13
54
81
38
95
57
31
64
66
40

2.2 Chủ nghĩa cá nhân – Chủ nghĩa tập thể (IDV)
2.2.1 Khái niệm
Chỉ số này thể hiện “mức độ hòa nhập của cá nhân với tập thể và cộng đồng”. Một xã
hội có tính cá nhân cao thường có mức độ ràng buộc khá lỏng lẻo và một cá nhân có xu
hướng chỉ gắn kết với gia đình của mình. Họ chú trọng đến chủ thể “tôi” hơn là “chúng
tôi”. Trong khi đó, chủ nghĩa tập thể, thể hiện một xã hội với các mối quan hệ hòa nhập
chặt chẽ giữa gia đình và những thể chế, hội nhóm khác.
2.2.2 Đặc điểm
Vấn đề cơ bản được giải quyết bởi khía cạnh này là mức độ phụ thuộc lẫn nhau của
một xã hội duy trì giữa các thành viên. Nó liên quan hình ảnh của con người có được

định nghĩa là “Tôi” hay “Chúng tôi”. VD: Với chỉ số 20, Việt Nam là một xã hội tập thể.
Thể hiện trong cam kết lâu dài gần gũi với nhóm “thành viên”, đó là một gia đình, gia
đình mở rộng hoặc các mối quan hệ mở rộng.
Sự trung thành trong nền văn hóa tập thể là điều tối quan trọng và vượt qua hầu hết các
quy tắc, quy định xã hội khác. Thúc đẩy mối quan hệ mạnh mẽ, nơi mà mọi người có
trách nhiệm với thành viên trong nhóm. Hành vi vi phạm trong xã hội tập thể dẫn đến sự
xấu hổ và mất mặt.
Chủ nghĩa cá nhân trong tương quan so với tập thể tập trung vào mối quan hệ giữa
một cá nhân và những người đồng trang lứa. Trong những xã hội đề cao cá nhân, mối
quan hệ giữa các cá nhân thường lỏng lẻo và thành tích cũng như tự do cá nhân được
đánh giá cao.
Trong những xã hội nơi tập thể được coi trọng, mối quan hệ giữa các cá nhân thường
chặt chẽ. Trong những xã hội như vậy, mọi người được sinh ra trong các tập thể, chẳng
hạn như các gia đình nhiều thế hệ, và tất cả mọi người có nghĩa vụ trơng nom lợi ích của
tập thể của mình.
2.2.3 Ứng dụng
5


Văn hố coi trọng tập thể, gia đình, cộng đồng thường có ở các nước như Ý, Hy Lạp,
Nhật và Châu Á nói chung. Người các nước này thường cảm thấy yên ổn, thoải mái khi
họ sống, làm việc trong tập thể, khơng thích làm việc độc lập. Trong giao tiếp, họ thường
tránh nói thẳng vì cho rằng như vậy là bất nhã và đối với ho, việc đưa nhiều bạn bè, bà
con vào làm việc trong công ty là chuyện thường, thậm chí cịn xem là hợp đạo lý. Người
dân của những nền văn hoá này coi trọng sự hài hồ hơn sự khác biệt. Họ có xu hướng
tán thành những hành vi làm tăng mức độ gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau trong cộng
đồng.
Văn hoá coi trọng chủ nghĩa cá nhân như Mỹ, Anh có xu hướng đề cao những thứ
độc đáo hơn sự hài hoà, coi trọng quan điểm cá nhân hơn ý kiến tập thể. Họ luôn muốn
làm cho bản thân khác biệt với những người xung quanh bằng trang phục, hành vi, công

việc và nhiều thứ khác. Chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư các nước này khi mới làm việc ở
các nước châu Á thường tỏ ra “không hiểu nổi” thái độ ứng xử, cũng như cung cách làm
việc cho người bản địa.
- Đàm phán với văn hoá Chủ nghĩa cá nhân:
+ Họ ln coi trọng mục tiêu, ý kiến của mình là trên hết, không quan tâm đến mục
tiêu cũng như mối quan tâm của người khác. Vì vậy, trong cuộc đàm phán chúng
ta nên có thái độ nhượng bộ, nếu khơng cuộc đàm phán sẽ đi vào bế tắc dẫn đến
thất bại. Tuy nhiên cần phải bảo vệ mục đích chính đáng khi cần thiết.
+ Những người đề cao chủ nghĩa cá nhân cho rằng người theo văn hoá tập thể
thường vịng vo, khơng rõ ràng, thiếu tinh thần trách nhiệm, vì thế khi đàm phán
chúng ta nên đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề, không lan man và chịu trách
nhiệm cho lời nói của mình.
+ Những người này thường rất hiếu thắng, ích kỷ, khơng thích bị can thiệp vào quyết
định của mình, cộng tác giữa 2 bên khó có kết quả “win – win” vì thế để có 1 cuộc
đàm phàn đơi bên cùng có lợi, nhà đàm phán phải có 1 số giải pháp thay thế nên
dự trù (nên có nhiều BATNA) để có nhiều vị thế trong đàm phán
- Đàm phán với văn hoá Chủ nghĩa tập thể:
+ Đặc trưng bởi việc những người trong nhóm trơng cây vào việc các cá nhân khác
của nhóm sẽ bảo vệ và che chở cho mình và đổi lại họ sẽ trung thành tuyệt đối với
nhóm. Nên cuộc đàm phán cần thống nhất ý kiến chung của các thành viên.
+ Chủ nghĩa này khơng dám nói thẳng và thú nhận những việc xấu của mình hay
người khác, để hạn chế rủi ro trong đàm phán cần rõ ràng về trách nhiệm sẽ thuộc
về ai để không bị chịu thiệt.
Chỉ số chủ nghĩa cá nhân – Chủ nghĩa tập thể của một số quốc gia
Argentina
Australia
Brazil
Canada
Đan Mạch
Pháp

Đức
Anh

46
90
38
80
74
71
67
89

Israel
Nhật Bản
Mesico
Hà Lan
Panama
Tây Ban Nha
Thụy Điển
Thái Lan
6

54
46
30
80
11
51
71
20



Ấn Độ
48
Indonesia
14
2.3. Mức độ e ngại rủi ro (UAI)

Thổ Nhĩ Kỳ
Mỹ

37
91

2.3.1 Khái niệm
Né tránh rủi ro của Hofstede đánh giá mức độ mà các thành viên của các nền văn hóa
khác nhau thích nghi với những tình huống khơng rõ ràng và chấp nhận các yếu tố không
chắc chắn. Được định nghĩa như “mức độ chấp nhận của xã hội với sự mơ hồ”, khi mà
con người chấp nhận hoặc ngăn cản một thứ gì đó khơng kỳ vọng, khơng rõ ràng và khác
so với hiện trạng thông thường.
2.3.2 Đặc điểm
Chỉ số UAI cao cho thấy mức độ gắn kết của thành viên trong cộng động đó với các quy
chuẩn hành vi, luật lệ, văn bản hướng dẫn và thường tin tưởng sự thật tuyệt đối hay một
sự “đúng đắn” chung trong mọi khía cạnh mà tất cả mọi người đều nhận thức được.
Trong khi đó, chỉ số UAI thấp cho thất sự cởi mở và chấp nhận những ý kiến trái
chiều và gây tranh cãi. Xã hội có UAI thấp thường mang tính ít quy định, quy chế mà họ
có xu hướng để mọi thứ được tự do phát triển và chấp nhận rủi ro. Khơng cần phải có
nhiều quy tắc hơn mức cần thiết và nếu chúng mơ hồ hoặc không hoạt động, chúng nên
bị bỏ rơi hoặc thay đổi. Lịch làm việc linh hoạt, cơng việc khó khăn được thực hiện khi
cần thiết nhưng khơng vì mực đích của chính nó, chính xác và đúng giờ khơng đến một

cách tự nhiên, sự đổi mới không bị coi là đe dọa.
VD: Việt Nam đạt điểm 30 về chiều hướng này và do đó có ít ưu tiên hơn để tránh sự
khơng chắc chắn. Các xã hội có UAI thấp duy trì một thái độ thoải mái hơn, trong đó
thực tiễn đếm nhiều hơn các nguyên tắc và sự lệch khỏi tiêu chuẩn được dễ dàng dung
thứ hơn.
Thành viên của các nền văn hóa né tránh rủi ro cao thường trả phí để đảm bảo cơng ăn
việc làm, lộ trình sự nghiệp, phúc lợi hưu trí… Họ cũng có một nhu cầu mạnh mẽ về
việc áp đặt các nguyên tắc và các quy định; quản lý được mong đợi là phải ban hành các
hướng dẫn rõ rang, và sáng kiến của cấp dưới bị kiểm soát chặt chẽ.
Nền văn hóa né tránh rủi ro thấp hơn được đặc trưng bởi sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro
và phản kháng về tinh thần ít quyết liệt hơn đối với thay đổi.
2.3.3 Ứng dụng
Chỉ số né tránh rủi ro ở một số quốc gia
Argentina
Australia
Brazil

86
51
76

Israel
Nhật Bản
Mesico
7

81
92
82



Canada
48
Hà Lan
53
Đan Mạch
23
Panama
86
Pháp
86
Tây Ban Nha
86
Đức
65
Thụy Điển
29
Anh
35
Thái Lan
64
Ấn Độ
40
Thổ Nhĩ Kỳ
85
Indonesia
48
Mỹ
46
Xã hội có mức độ e ngại rủi ro thấp duy trì một thái độ thoải mái hơn, trong đó sự sai

lệch so với chuẩn mực dễ dàng được chấp nhận hơn. Mọi nguời tịn rằng khơng nên có
nhiều quy tắc hơn mức cần thiết. Lịch trình thường linh hoạt, chính xác và đúng giờ
không phải là yếu tố bắt buộc. Các lý do diễn giải cho sự chậm trễ, sai sót thường dễ
được chấp nhận.
Việt Nam đạt 30 điểm về mức độ e ngại rủi ro được đánh giá có sự bao dung, ít quy
tắc và chấp nhận đổi mới đi đơi với sai sót nhiều lần hơn. Xã hội duy trì một thái độ thoải
mái hơn, chấp nhận nhiều sự sai lệch so với chuẩn mực.
Một quốc gia có chỉ số UAI cao luôn cố gắng tránh xa các tình huống khơng rõ ràng
hết mức có thể. Xã hội đó được điều chỉnh bởi các quy tắc, trật tự và ln tìm kiếm một
sự thật chung.
Với điểm số 92, Nhật Bản được đánh giá là một quốc gia có mức độ phòng tránh rủi
ro cao nhất thế giới. Nguyên nhân để lí giải tại sao Nhật Bản có mức độ phịng tránh rủi
ro cao như thế là vì Nhật Bản phải hứng chịu nhiều trận động đất, sóng thần, các cơn bão,
sự phun trào núi lửa. Trong những trường hợp này, người Nhật học cách phịng tránh và
đối phó mọi tình huống khơng chắc chắn. Điều này khơng chỉ hữu ích đối với việc phịng
ngừa thiên tai bất ngờ mà cịn đối với mọi khía cạnh khác của xã hội, chẳng hạn như kinh
doanh.
Khi thảo luận về 1 dự án mới với người Bỉ, quốc gia có UAI là 94, nên điều tra nhiều
trường hợp và chỉ cần trình bày 1 vài lựa chọn nhưng phải đủ thông tin chi tiết và kế
hoạch rủi ro.
Trong đàm phán chúng ta tìm hiểu kỹ văn hố này để thuận lợi hơn cho việc ký kết
hợp đồng:
- Đàm phán với xã hội có mức độ e ngại rủi ro cao:
+ Sự mơ hồ, không thống nhất thường mang lại cảm giác lo lắng và nghi
ngờ của họ đối với đối phương. Để tạo niềm tin cho họ, chúng ta phải
đưa ra những dẫn chứng cụ thể, trao đổi những thông tin đã được kiểm
định.
+ Họ hay đưa những quyết định có khuynh hương dựa trên cơ sở các số
liệu tổng quát, khi đàm phán thì phải trình bày các con số chi tiết, chính
xác nhất.


8


+ Với những người này, người đàm phán ưu tiên về chất lượng hơn là số
lượng, nghĩa là, họ chỉ cần trình bày chắc chắn 1 vài quan điểm nhưng
phải đầy đủ thơng tin chi tiết và dự phịng rủi ro để tạo sự tin tưởng hơn.
+ Phải chắc chắn theo 1 trình tự nhất định. Ngồi ra, sự đúng giờ là 1 yếu
tố tiên quyết trước 1 cuộc đàm phán.
- Đàm phán với xã hội có mức độ e ngại thấp:
+ Họ thường có xu hướng quyết định dựa vào trực giác, nên vì thế nhà
đàm phán phải biết nắm bắt tâm lý, giỏi thuyết phục và tạo sự tin tưởng
cho đối phương.
+ Nhà đàm phán nên chuẩn bị nhiều phương án dự phòng và cho đối
phương lựa chọn cái mà “cảm thấy” phù hợp nhất.
+ Yêu cầu sự linh hoạt.
2.4 Nam quyền – Nữ quyền (Masculinity-MAS)

2.4.1 Khái niệm
Chiều văn hóa này nói lên mức độ xã hội chấp nhận hay không chấp nhận quyền lực
truyền thống của người đàn ông trong xã hội.
- Nam quyền: sự ưu tiên của xã hội cho thành quả, phần thưởng vật chất và định nghĩa
thành công dựa trên những thành quả vật chất mà cá nhân đạt được.
- Nữ quyền: ám chỉ sự coi trọng tính cộng tác, khiêm tốn, quan tâm đến những cá nhân
khó khăn cũng như chất lượng cuộc sống. Phụ nữ trong xã hội được tôn trọng và thể hiện
những giá trị khác nhau.
2.4.2 Đặc điểm
NAM QUYỀN
- Xã hội có MAS cao là những nơi nam
giới được trơng đợi phải là trụ cột, quyết


NỮ QUYỀN
- Xã hội có MAS thấp khơng đảo ngược
vai trị giới tính mà chỉ đơn giản là làm
9


đốn và mạnh mẽ cịn phụ nữ sẽ khơng
được giao trọng trách và công việc vốn
thuộc về nam giới.

mờ vai trị của nó. Ở đó, nữ giới và nam
giới làm việc cùng nhau trên nhiều ngành
nghề, đàn ông được phép yếu đuối và phụ
nữ có thể làm việc chăm chỉ để tiến thân
trên sự nghiệp.
- Chỉ số cao về nam quyền xã hội sẽ
-Chỉ số thấp về nữ quyền các giá trị
được thúc đẩy bởi đối thủ cạnh tranh,
chiếm ưu thế trong xã hội là việc chăm
thành tích và thành đạt, với sự thành cơng sóc cho người khác và chất lượng cuộc
xác định của người chiến thắng/ tốt nhất
sống. Một xã hội nữ quyền là một xã hội
trong lĩnh vực - một hệ thống giá trị bắt
có chất lượng cuộc sống có dấu hiệu
đầu ở trường và tiếp tục trong suốt hành
thành cơng và đứng ra ngồi đám đơng
vi tổ chức.
không phải là đáng ngưỡng mộ.
- Xã hội trọng nam quyền, phụ nữ dù có - Xã hội trọng nữ quyền phụ nữ được tôn

được chú trọng và cạnh tranh nhưng
trọng và thể hiện những giá trị khác nhau.
thường vẫn bị kém coi trọng hơn so với
Trong xã hội ấy, họ chia sẻ sự khiêm tốn
nam giới (đàn ông có xu hướng thống trị và quan tâm đến sự bình đẳng giới (phụ
trong phần lớn cấu trúc quyền lực gia
nữ được đối xử bình đẳng với nam giới
đình và xã hội), khoảng cách giữa những trong mọi khía cạnh).
giá trị về nam giới và nữ giới (phân biệt
giới tính).
- Các nền văn hóa nam tính: quyết đốn - Các nền văn hóa nữ tính như các nước
Scandinavia, cả nam và nữ giới đều chú
là tính cách nổi trội nhất chứ khơng phải
là mục đích của thõa mãn cá nhân, ở đây trọng vào việc duy trì vai trị, sự phụ
thuộc lẫn nhau và quan tâm đến những
có xu hướng coi trọng sự cạnh tranh,
người kém may mắn hơn. Hệ thống phúc
tham vọng và sự tính lũy của cải. Xã hội
được tạo bởi những người đàn ông và phụ lợi phát triển cao, chăm lo tốt cho cuộc
sống của người dân và nhà nước thường
nữ quyết đoán, chú trọng đến sự nghiệp,
kiếm tiền và hầu như không quan tâm đến có chế độ trợ cấp cho giáo dục.
những thứ khác (Australia, Nhật Bản,
Hoa Kỳ; các nền văn hóa nói tiếng Tây
Ban Nha cũng khá nam tính và thể hiện
sự say mê lao động, sự táo bạo và cạnh
tranh). Trong kinh doanh, tính chất nam
tính thể hiện ở sự thích hành động, tự tin
và năng động.
Đặc điểm văn hóa nam tính

Đặc điểm văn hóa nữ tính
- Nhấn mạnh cơng việc, thu nhập, sự phát - Chú trọng sự hợp tác, bầu khơng khí
triển, sự cơng nhận, chấp nhận thách
thân thiện, an tồn việc làm; quyết định
thức, khơng chấp nhận thất bại; quyết
tập thể.
định mang tính cá nhân, quyết đốn.
- Ít áp lực tại nơi làm việc; nhà quản trị
10


- Áp lực cao tại nơi làm việc; thời gian
cho công việc nhiều hơn thời gian cho
đời sống riêng; công việc ảnh hưởng đời
sống riêng; nhân viên ít hài lịng cơng
việc, nhiều tham vọng.
- DN quy mơ lớn, ít chú trọng bảo vệ mơi
trường.
- Phân biệt vai trị của giới tính. Có sự
khác biệt rõ giữa cơng việc của nam giới
và nữ giới.
-VD: Austria, Japan, Venezuela,…

tin vào trách nhiệm của nhân viên, để
nhân viên tự do hơn, không can thiệp đời
sống riêng; nhân viên hài lịng với cơng
việc, ít tham vọng; ít có xung đột trong tổ
chức.
- DN quy mơ nhỏ, chú trọng bảo vệ mơi
trường.

- Ít phân biệt vai trị của giới tính. Nam
giới làm được thì nữ giới cũng làm được.
- Người phụ nữ thành công và quyền lực
sẽ được trọng vọng.
- VD: Sweden, Norway, Netherlands,...

2.4.3 Ứng dụng
 Nam quyền ít được coi trọng tại các nước Bắc Âu: Na Uy chỉ có 8 điểm và Thụy
Điển là 5 điểm MAS.
Ở Việt Nam và Thụy Điển, điểm số này thấp hơn bởi xã hội chấp nhận nam nữ bình
quyền. Trong xã hội như thế, phụ nữ được đối xử bình đẳng với nam giới trong mọi khía
cạnh. Bạn có thể thành lập đội nhóm dựa trên việc phân bổ hợp lý các kỹ năng chứ khơng
phải giới tính.

Ngược lại, nam quyền lại rất quan trọng tại Nhật Bản (95 điểm) và các nước châu
Âu như Hungary, Áo và Thụy Sĩ, những nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Đức.
 Ở Nhật Bản, điểm MAS cao chỉ ra quốc gia này phân biệt giới tính. Vì vậy, nếu
định mở một văn phịng tại Nhật Bản, bạn chỉ có thể có thành cơng lớn nếu chỉ định một
nhân viên nam dẫn dắt đội và có lực lượng nam giới áp đảo trong nhóm.
 Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một trong các quốc gia tân tiến nhưng trong xã
hội Nhật, vai trò của nam và nữ đã được phân định rõ ràng. Vì người Nhật cho rằng nam
giới đáp ứng được u cầu của cơng ty, có khả năng làm việc một cách “linh hoạt” hơn so
với nữ giới (có khả năng làm việc trong thời gian dài, làm thêm giờ đột xuất, làm việc
trong ngày nghỉ, đi công tác và điều chuyển) nên nam giới được ưu tiên hơn trong cơ hội
việc làm trong khi đó phụ nữ phải đảm nhận tất cả các công việc nhà và nhiệm vụ chăm
sóc con cái.
 Trong cộng đồng người Anglo, điểm nam quyền lại khá cao như 66 điểm tại Anh.
Trong khi đó, các nước Mỹ Latin lại có điểm khá mâu thuẫn, ví dụ như Venezuela là 73
điểm trong khi Chile chỉ có 28.


11


• Việt Nam đạt 40 điểm về chiều hướng này và do đó được coi là một xã hội nữ
quyền. Ở các quốc gia nữ giới tập trung vào "làm việc để sống", các nhà quản lý cố gắng
để đạt được sự đồng thuận, mọi người đánh giá sự bình đẳng, đoàn kết và chất lượng
trong cuộc sống làm việc của họ. Mâu thuẫn được giải quyết bằng cách thỏa hiệp và đàm
phán. Các ưu đãi như thời gian rảnh và tính linh hoạt được ưa chuộng.
- Đàm phán với quốc gia có MAS cao:
+ Xã hội có sự phân biệt rõ rệt vai trị của nam và nữ vì thế, khuyến khích
nam giới tham gia những cuộc đàm phán quan trọng để tăng tỉ lệ thành
cơng.
+ Quyết đốn là tính cách nổi trội của xã hội này nên khi đua ra quyết định
cần thể hiện sự dứt khoát.
+ Người đàm phán phải chịu được áp lực cao, không để chuyện cá nhân
xen vào công việc.
- Đàm phán với quốc gia có MAS thấp:
+ Khơng phân biệt giới tính, tơn trọng ý kiến của nữ giới
+ Tại đây mâu thuẫn được giải quyết bằng cách thoả hiệp vì thế trong đàm
phán khơng nên q cứng nhắc, có thái độ ơn hoà để đạt được sự đồng
thuận của các thành viên.
+ Ưu tiên sự thoải mái và ít áp lực vì thế không nên để công việc ảnh
hưởng đời sống riêng tư của đối phương.
2.5 Định hướng dài hạn – Định hướng ngắn hạn (Long term orientation-LTO)
2.5.1 Khái niệm
Khía cạnh này mơ tả cách mọi xã hội phải duy trì một số mối liên hệ với q khứ
của chính mình trong khi đương đầu với những thách thức của hiện tại và tương lai,
và các xã hội ưu tiên hai mục đích hiện tại khác nhau, ví dụ như, muốn duy trì các truyền
thống và các chuẩn mực theo thời gian trong khi thế giới luôn thay đổi. Mặt khác, những
xã hội có nền văn minh thường có điểm số cao, có một cách tiếp cận thực tế hơn: họ

khuyến khích tiết kiệm và nỗ lực trong giáo dục hiện đại như là một cách để chuẩn bị cho
tương lai.
Các giá trị đạo đức của người Châu Á – các định hướng văn hóa truyền thống của một
số nước Châu Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore chú trọng định hướng dài hạn.
Ngược lại, Hoa Kỳ và hầu hết các nước phương Tây đều chú trọng đến định hướng ngắn
hạn.
Xã hội có chỉ số LTO thấp
Xã hội có chỉ số LTO cao
- Biểu thị định hướng ngắn hạn những - Thường chú trọng vào quá trình dài
truyền thống được trân trọng gìn giữ và sự hạn, quan tâm đến sự thích ứng và thực
12


kiên định được đánh giá cao, thực hiện
nghĩa vụ xã hội và giữ thể diện, thích
hưởng thụ, trưng diện hơn là dành dụm.
Nhấn mạnh vào kết quả tức thời thay vì
trơng đợi vào sự kiên nhẫn. Quan hệ xã
hội mang tính sịng phẳng, ngang hàng,
khơng phụ thuộc vào thân phận hay đẳng
cấp. Coi trọng sự thật hơn là kết quả cuối
cùng, thường làm điều đúng với thời điểm
hiện tại thay vì lo lắng về tương lai (Mỹ,
Châu Âu).
- Một nước nghèo, nếu giữ định hướng
ngắn hạn sẽ khó trong việc phát triển kinh
tế.
2.5.2 Đặc điểm

dụng khi giải quyết vấn đề, các giá trị

gắn kết là tiết kiệm và kiên trì, quý trọng
sự bền bỉ, sắp xếp các mối quan hệ theo
thân phận hay đẳng cấp xã hội, quan
trọng việc thực hiện các nghĩa vụ xã hội
và tránh bị “mất mặt” trước đám đông,
coi trọng kết quả cuối cùng hơn là sự
thật, họ thường lấy kết quả biện hộ cho
phương tiện (Trung Quốc, Nhật Bản,
Việt Nam và các nước Châu Á).
- Trong khi đó nước có định hướng dài
hạn thường thuận lợi hơn trong việc phát
triển.

Đặc điểm VH định hướng dài hạn
- Con người linh hoạt, biết thích nghi với
hồn cảnh.
- Tin tưởng, chú trọng tương lai.
- Chú trọng các mối quan hệ; sắp xếp các
mối quan hệ theo địa vị.
- Điều “xấu” và “tốt” tùy thuộc hoàn
cảnh.
- Sống tiết kiệm.
- Làm việc siêng năng, kiên trì để thành
cơng…

Đặc điểm VH định hướng ngắn hạn
- Thích sự ổn định, tơn trọng truyền
thống.
- Chú trọng quá khứ và hiện tại.
- Ít chú trọng các mối quan hệ, các nghĩa

vụ XH là đối ứng.
- Có quy tắc chung xác định điều “tốt”
và “xấu”.
- Thích thưởng thụ.
- Chú trọng các kết quả tức thời, ít đầu
tư, ít siêng năng, kiên trì để thành cơng.

LTO cao

LTO thấp

Đặc điểm
- Gia đình là tế bào của xã hội.
- Cha mẹ và nam giới có nhiều
quyền hơn so với con trẻ và
phụ nữ.
- Đạo đức làm việc cao.
- Đề cao học vấn và đào tạo.
- Khuyến khích sự bình đẳng.
13

Gợi ý
- Tơn trọng các giá trị văn hóa.
- Không phô diễn ngông cuồng và
hành động nhẹ dạ.
- Tưởng thưởng cho sự kiên trì,
trung thành và cam kết.
- Tránh làm bất cứ điều gì gây “mất
mặt”.
- Mong muốn được sống theo tiêu



- Chủ nghĩa cá nhân và sáng
tạo cao.
- Đối xử với người khác theo
cách bạn muốn được đối xử.
- Tự tìm kiếm, tự thực hiện.

chuẩn và quy tắc do mình đề ra.
- Tôn trọng người khác.
- Không ngần ngại thay đổi khi cần
thiết.

2.5.3 Ứng dụng
✓ Định hướng dài hạn: East Asian, Eastern & Central Europe
✓ Định hướng ngắn hạn: USA, Australia, Latin America, African & Muslim
Countries
• Các nước Đơng Á có điểm định hướng dài hạn khá lớn, ví dụ như Trung Quốc là
118, Hong Kong là 96 và Nhật Bản là 88 điểm.
Nhật Bản là một trong những quốc gia có định hướng dài hạn nhất. Họ khuyến khích
tiết kiệm và nỗ lực trong giáo dục hiện đại như là một cách chuẩn bị cho tương lai. Trong
kinh doanh, người Nhật có định hướng dài hạn về tỷ lệ đầu tư R&D liên tục trong thời
điểm khó khăn về kinh tế, tỷ lệ vốn đầu tư cao hơn, ưu tiên tăng trưởng thị phần ổn định
chứ không phải lợi nhuận hàng quý, mục tiêu trước mắt,… Tất cả chỉ nhằm đáp ứng độ
bền vững của cơng ty.
=> Ta có thể thấy định hướng dài hạn vô cùng quan trọng đối với các quốc gia.
• Theo phân tích của Hofstede, Hoa Kỳ và Anh Quốc là 2 quốc gia có điểm LTO
thấp cho thấy bạn có thể mong muốn bất kì điều gì liên quan tới sáng tạo và ý tưởng mới
lạ. Mơ hình này hàm ý rằng người dân ở Mỹ và Anh không đánh giá cao các giá trị
truyền thống như nhiều nơi khác và sẵn sàng giúp bạn thực hiện các kế hoạch sáng tạo

miễn là họ được tham gia.

Việt Nam đạt điểm 57, có thể định nghĩa rằng Việt Nam là một nước khá thực tế.
Trong các xã hội có định hướng thực tế, người ta tin rằng sự thật phụ thuộc rất nhiều vào
hoàn cảnh, bối cảnh và thời gian. Họ cho thấy khả năng thích ứng với truyền thống một
cách dễ dàng để thay đổi điều kiện, một xu hướng mạnh mẽ để tiết kiệm và đầu tư, sự tiết
kiệm và kiên trì để đạt được kết quả.
-

Đàm phán với văn hoá LTO cao:
+ Cư xử một cách khiêm tốn, nên đề cập tới tiết kiệm và giáo dục vì đây
được coi là những giá trị tích cực.
+ Người đàm phán nên nói lên mục tiêu dài hạn của cuộc thương lượng là cái
gì và cách làm như thế nào.
+ Tránh nói quá nhiều về bản thân, nhấn mạnh đến nghĩa vụ.

14


+ Mọi người sẵn sàng thỏa hiệp hơn, nhưng điều này có thể khơng phải lúc
nào cũng rõ ràng đối với người ngồi.
-

Đàm phán với văn hố LTO thấp:
+ Đánh đổi mình để được coi trọng.
+ Người đàm phán nên nêu lên lý do của cuộc đàm phán, vì điều này thường
được chú trọng, thể hiện niềm tin mạnh mẽ cho đối tác.
+ Giá trị và quyền lợi được nhấn mạnh.
+ Người đàm phán ít sẵn sàng thỏa hiệp vì điều này sẽ được coi là điểm yếu.
+ Nịnh hót để được trao quyền.


2.6 Tự thỏa mãn – Tự kiềm chế (IND)
2.6.1 Khái niệm
Một thách thức mà con người phải đối mặt hiện nay và trong quá khứ là mức độ xã hội
hóa trẻ nhỏ. Nếu khơng có xã hội hố chúng ta khơng trở thành "con người". Khái niệm
này chính là thước đo mức độ hạnh phúc, liệu có hay không sự tự thỏa mãn những niềm
vui đơn giản.
Tự thỏa mãn
- Sự cho phép của xã hội một cách tự do
các nhu cầu cơ bản và tự nhiên của con
người, ví dụ như hưởng thụ cuộc sống.
- Một xã hội cho phép hưởng thụ thường
tạo niềm tin cho cá nhân rằng chính họ,
quản lý cuộc sống và cảm xúc của mình.

- VD: South & North America,
Western Europe
2.6.2 Đặc điểm

Tự kiềm chế
- Thể hiện sự kiểm soát của xã hội, bởi
những định kiến, chuẩn mực nghiêm ngặt,
trong việc hưởng thụ của cá nhân.
- Xã hội đề cao tính kiềm chế tin rằng có
những yếu tố khác, ngồi bản thân họ,
điều khiển cuộc sống và cảm xúc của
chính họ.
- Văn hóa hạn chế có sự bi quan và hồi
nghi. Con người thường khơng chú ý đến
thời gian giải trí để thỏa mãn bản thân.

Hành động của cá nhân bị giới hạn bởi
những quy tắc và thấy việc nuông chiều
bản thân là sai trái.
- VD: Eastern Europe, Asia Muslim
Countries

Đặc điểm của VH thỏa mãn
Đặc điểm của VH kiềm chế
- Con người thường thể hiện sự vui sướng; - Con người thường ít thể hiện sự vui
15


nhấn mạnh sự tiêu khiển.
- Thường nhớ về những cảm xúc tích cực.
- Tự do ngơn luận.
- Có nhận thức về việc kiểm sốt đời sống
cá nhân.
2.6.3 Ứng dụng

sướng; ít nhấn mạnh sự tiêu khiển.
- Thường nhớ về những cảm xúc tiêu cực.
- Không tùy tiện phát ngôn.
-Đánh giá thấp khả năng kiểm sốt đời sống
cá nhân.

 Tại Nhật, có nhiều hồi bão, có sức cạnh tranh, tích góp của cải và sở hữu vật chất
được đánh giá cao, trong khi ở Thụy Điển, các mối quan hệ và chất lượng cuộc sống lại
quan trọng hơn.
 Nhật Bản đạt 42 điểm về giá trị “Tự thoả mãn”. Đây là một mức điểm khơng cao.
Song có thể thấy giữa Việt Nam và Nhật Bản có sự tương đồng về giá trị văn hố “Tự

thoả mãn”. Vì cả hai quốc gia đều thuộc nền văn hố mang tính kiềm chế. Việt Nam đạt
35 điểm về giá trị văn hoá này. Nền văn hố mang tính kiềm chế thường khơng chú trọng
vào thời gian nhàn rỗi và thường kiểm sốt sự hài lịng cũng như ham muốn của con
người bằng các quy tắc xã hội, chuẩn mực chung...Do đó trong xã hội Nhật Bản và Việt
Nam, con người bị hạn chế trong việc tự kiểm sốt cuộc sống và động lực của mình, họ
thường có khuynh hướng hồi nghi và bi quan nhiều hơn.
 Các xã hội “kiềm chế” không chú trọng nhiều vào thời gian rảnh rỗi và kiểm sốt
sự hài lịng của những ham muốn của họ. Những người có định hướng này có nhận thức
rằng các hành động của họ bị hạn chế bởi các quy tắc xã hội.
-

Đàm phán với văn hoá tự thoả mãn:
+ Để họ kiểm soát cuộc đàm phán
+ Không gây căng thẳng, áp lực, tạo cảm xúc tích cực cho đối phương
+ Khơng làm phiền đến thời gian nhàn rỗi vì văn hố này thích được
hưởng thụ và muốn chính họ quản lý cuộc sống của họ.

-

Đàm phán với văn hoá tự kiềm chế:
+ Kiềm chế ngôn từ của bản thân, hạn chế sử dung biểu cảm thái quá.
+ Chú trọng các quy tắc xã hội và chuẩn mực chung, tránh gây phản cảm
+ Kiểm sốt sự hài lịng của bản thân, khơng bộc lộ rõ những ham muốn
của mình.

16


3.3 Giới hạn của mơ hình Hofstede
Mơ hình của Hofstede được coi như một nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về các giá trị văn

hóa quốc gia. Tuy nhiên, lý thuyết này vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.
Trong tạp chí Academic of Management năm 2008, bài báo “Nhìn lại những thành tựu
quản lý”, Galit Ailon đã phân tích những điểm còn hạn chế của cuốn sách “Hệ quả của
văn hóa” mà Hofstede đã xuất bản. Ơng đã sử dụng chính những luận điểm của Hofstede
để phản bác lại lý thuyết này.
Trong số những luận điểm nêu ra về giới hạn của mơ hình Hofstede, phổ biến nhất là
những luận điểm của McSweetney
Lựa chọn vấn đề cấp quốc gia
Ngoài năm chiều văn hóa của mơ hình Hofstede, có những yếu tố văn hóa khác cần
được phân tích. Cũng có những cấp độ khác nhau để đánh giá một nền văn hóa. Những
cấp độ này thường được bỏ qua bởi cấu trúc và bản chất của chính chúng. Hơn nữa,
những mẫu thử của mơ hình Hofstede cho thấy sự chênh lệch về các đối tượng xã hội.
Nếu quốc gia dùng những nghiên cứu này để quản lý sự giàu có, các vấn đề vĩ mô, quy
mô dân số, mật độ và tốc độ tang trưởng thì những cá nhân nam giới làm công việc kỹ sư
hoặc bán hàng tại các tổ chức lớn trên thế giới, đại diện cho những chiến dịch đầu tiên
của con người, lại chẳng thể coi là đại diện cho chính quốc gia của họ.
a) Mức độ cá nhân: mối tương quan giữa các khía cạnh văn hóa và tính cách cá
nhân
Hofstede nhận thức được rằng, các khía cạnh văn hóa mà ơng đã xác định được, bao
gồm văn hóa và các giá trị, đều là các nghiên cứu xây dựng dựa trên lý thuyết. Chúng là
công cụ để áp dụng vào thực tế. Những đánh giá tổng quát về nền văn hóa của một quốc
gia sẽ thực sự hữu ích khi chúng được coi là kim chỉ nam trong việc tìm hiểu về quốc gia
đó. Đó là những khía cạnh theo nhóm, mơ tả những đặc tính chung nhất của cả dân tộc.
Các khía cạnh văn hóa của Hofstede cho phép người sử dụng phân biệt các quốc gia với
nhau chứ khơng nói đến sự khác biệt của các cá nhân trong xã hội. Việc xác định tính
cách cá nhân là khơng cần thiết khi bàn đến văn hóa quốc gia, bởi điểm đánh giá 1 quốc
gia không bao giờ đồng nghĩa với việc nhận định, đánh giá cá nhân.
Ví dụ: người Nhật có thể rất thoải mái thích nghi với việc thay đổi mơi trường trong
khi thực tế nói chung, người Nhât hạn chế tối đa những thay đổi khơng chắc chắn. Tất
nhiên, ln có ngoại lệ. Học thuyết của Hofstede có thể so sánh với học thuyết tương tự ở

mức độ cá nhân: học thuyết cá nhân về tích cách con người.
Cũng giống như các nghiên cứu về chỉ số quyền lực, các bản khảo sát về chủ nghĩa cá
nhân và chủ nghĩa tập thể được tiến hành giữa các nước dựa trên phỏng đốn về tình hình
phát triển kinh tế và nhân chủng học (Triandis, 2004), vì thế có thể chúng khơng thực sự

17


nói lên 1 tổ chức nào nổi bật, hoặc những biến thể mang tính tổ chức hoặc cá nhân với
những điều kiện kinh tế xã hội tương tự.
b) Mức độ tổ chức
Bên trong và giữa các quốc gia, cá nhân cũng là một phần của các tổ chức như các
công ty. Hofstede thừa nhận rằng "kích cạnh của nền văn hóa các quốc gia khơng liên
quan đến việc so sánh các tổ chức trong cùng một quốc gia". Ngược lại với các nền văn
hóa quốc gia được thể hiện qua các giá trị, văn hóa tổ chức được thể hiện qua thực tiễn.
Từ năm 1985 đến năm 1987, Viện IRIC của Hofstede (Viện Nghiên cứu về Hợp tác
giữa các nền văn hóa) đã tiến hành một dự án nghiên cứu riêng biệt để nghiên cứu văn
hóa tổ chức. Trong đó có 20 đơn vị tổ chức ở hai nước (Đan Mạch và Hà Lan), sáu chiều
kích khác nhau của thực tiễn, hoặc các cộng đồng thực hành đã được xác định:







Định hướng theo quy trình và Định hướng theo kết quả
Thiên hướng làm nhân viên và Thiên hướng làm chủ công việc
Giáo xứ và Nhân viên chuyên nghiệp
Hệ thống mở và Hệ thống đóng

Quản lý lỏng lẻo và Quản lý chặt chẽ
Thực dụng và Quy chuẩn

Quản lý các tổ chức quốc tế liên quan đến sự hiểu biết các nền văn hóa quốc gia và tổ
chức. Cộng đồng thực hành đến từ nhiều nước là điều tuyệt vời cho công ty đa quốc để
duy trì hoạt động ổn định.
c) Mức độ nghề nghiệp
Trong phạm vi mức độ nghề nghiệp, có một mức độ nhất định của các giá trị và niềm
tin mà mọi người giữ đối với các nền văn hóa quốc gia và tổ chức họ là một phần của
chúng. Quản lý văn hóa là một nghề nghiệp có các thành phần từ các nền văn hóa quốc
gia và tổ chức. Đây là một khác biệt quan trọng từ cấp độ tổ chức.
d) Mức độ giới tính
Khi mơ tả các nền văn hóa, sự khác biệt giới tính phần lớn không được xem xét. Tuy
nhiên, trong các cuộc thảo luận về giao tiếp giữa các nền văn hóa có một số yếu tố có ích
để phân tích. Trong mỗi xã hội, văn hóa của người đàn ơng khác nhau rất nhiều nền văn
hóa của phụ nữ. Mặc dù nam giới và phụ nữ thường có thể thực hiện các nhiệm vụ tương
tự theo quan điểm về mặt kỹ thuật, thường có các biểu tượng mà mỗi giới có một phản
ứng khác nhau. Trong tình huống mà một giới phản ứng theo chiều hướng khác với vai
trò của họ theo quy định, giới cịn lại có thể thậm chí khơng chấp nhận vai trị giới tính
lệch lạc của họ. Mức độ phản ứng của những người đã tiếp xúc với nền văn hóa nước
ngồi có thể được so sánh tương tự như phản ứng của các hành vi giới tính của người

18


khác phái. Các mức độ khác biệt về giới trong một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào các
nền văn hóa trong đó dân tộc và lịch sử của nó.

19





×