Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm thpt xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.1 KB, 49 trang )

MỤC LỤCC LỤC LỤCC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................3
CHƯƠNG I: XU THẾ TỒN CẦU HĨA.........................................................3
VÀ Q TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.........................................................3
1. Xu thế tồn cầu hóa.....................................................................................3
CHƯƠNG II. Q TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ......................................12
1. Bối cảnh lịch sử...........................................................................................12
2. Chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế..............................................13
3. Quá trình hội nhập quốc tế qua 30 năm đổi mới của Đảng ta...............14
4. Thời cơ, thách thức đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện
nay....................................................................................................................22
CHƯƠNG III. VẬN DỤNG CHUYÊN ĐỀ VÀO THỰC TIỄN GIẢNG
DẠY.....................................................................................................................29
KẾT LUẬN.............................................................................................................44

1


LỜII MỞ ĐẦU ĐẦUU
Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế
giới đã diễn ra xu thế tồn cầu hóa. Cùng với sự phát tiển của nhân loại, xu thế toàn
cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lơi cuốn tất cả các khu vực, quốc gia, dân tộc
trên thế giới.
Toàn cầu hóa làm nảy sinh nhu cầu hội nhập quốc tế của tất cả các quốc gia;
khơng phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị hay tơn giáo. Hội nhập
diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến
trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại,
tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay,
hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Bước sang thế kỉ XXI, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành


một trong những xu thế chủ yếu của các quốc gia trên thế giới , trong đó có Việt
Nam. Q trình này đã và đang tạo ra cho Việt Nam những cơ hội để bứt phá và phát
triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế khơng chỉ đem đến những cơ hội
mà còn đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia nhỏ, yếu, đang phát
triển những khó khăn, thách thức to lớn trên mọi phương diện. Đại hội XI của Đảng
(2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hố, đa dạng hố quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” Chủ trương “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược tồn
diện của Đảng. Đây khơng chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực
kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mơ
tồn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng - an
ninh... Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh
những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc
tế mới.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu xu thế tồn cầu hóa và q trình hội nhập quốc tế có
giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng. Ngồi việc góp phần bổ sung tài liệu chuyên
2


sâu về xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế chuyên đề còn giúp chúng ta nhận
thức rõ và có sự “chủ động và tích cực” trong xu thế chung của nhân loại.
Đi sâu nghiên cứu xu thế tồn cầu hóa và q trình hội nhập quốc tế cịn phục
vụ cơng tác giảng dạy và liên hệ thực tiễn nội dung xu thế tồn cầu hóa, cơng cuộc
đổi mới trong chương trình lịch sử lớp 12, cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp
ở trường phổ thông.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “ Xu thế tồn cầu hóa và

q trình hội nhập quốc tế ” làm đề tài nghiên cứu.
Mục đích của đề tài:
- Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, biểu hiện và những tác động của xu thế toàn cầu hóa.
- Tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tư liệu về chủ trương của Đảng về hội nhập
quốc tế.
- Hệ thống, khái quát về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, những cơ hội,
thách thức.
- Vận dụng giải quyết một số câu hỏi cụ thể
- Đề tài là tài liệu quan trọng cho giáo viên, học sinh khi giảng dạy, học tập
chuyên đề quan hệ quốc tế và ôn luyện học sinh giỏi các cấp.

3


PHẦUN NỘI DUNGI DUNG
CHƯƠNGNG I: XU THẾ TỒN CẦU HĨA TỒN CẦUU HĨA VÀ Q TRÌNH HỘI DUNGI NHẬP QUỐC TẾP QUỐC TẾC TẾ TỒN CẦU HĨA
1. Xu thế tồn cầu hóa tồn cầu hóau hóa

1.1. Khái niệm tồn cầu hóa
Khái niệm tồn cầu hóa xuất hiện từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là
từ sau Chiến tranh lạnh đễ diễn đạt một nhận thức của con người về một xu thế,
một bộ phận trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các
quốc gia, các tổ chức, hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế trên tồn cầu.
Tùy vào góc độ tiếp cận từ nhiều phía như: nguồn gốc, biểu hiện, bản chất mà
khái niện tồn cầu hóa được hiểu theo các cách khác nhau. “ Tồn cầu hóa là một
q trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt
lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành
một thể thống nhất hữu cơ trên quy mơ tồn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện

tượng xảy ra ở vùng miền này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các
cộng đồng người khác trên quy mơ tồn thế giới”.
Tồn cầu hóa là xu thế bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Trong các mặt đó tồn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm vừa là cơ sở thúc
đẩy các lĩnh vực khác của tồn cầu hóa nói chung. Xu thế tồn cầu hóa kinh tế ngày
nay là sự phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu, sự hình thành trên thị trường
thế giới và phân cơng lao động quốc tế, sự di chuyển tự do về tư bản, hàng hóa và
nhân cơng trên phạm vi tồn cầu. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối
những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng
trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “tồn cầu hố” bắt đầu hình thành và
được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia,
đôi khi người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là q trình quốc tế
hố. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên
bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị khơng có nguồn gốc từ những cơ sở kinh
tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham
dự một cách có ý thức vào một q trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở
đường cho sự hình thành một hệ thống tồn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc
khái niệm “quốc tế hố” được thay thế bởi khái niệm “tồn cầu hố”
4


Tồn cầu hố là q trình hình thành một chính thể thống nhất tồn thế giới. Đó là
sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành
trong một trật tự hệ thống toàn cầu.
Toàn cầu hố có thể được xem xét như một q trình lịch sử tự nhiên. Roland
Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ơng gọi nó là q trình hội tụ thế
giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi nhỏ hơn diễn ra
trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử tồn thế giới đi
theo một tiến trình hợp nhất, thơng qua việc hình thành nên những thực thể xã hội

lớn dần – mà lớn nhất là thực thể tồn cầu – và ngay trong q trình hình thành các
thực thể trung gian đã hàm chứa q trình tồn cầu hố, dưới dạng manh nha. Ơng
cho rằng, tiến trình tồn cầu hố bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV.
Nó được mở rộng ra ngồi phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân
quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “tồn cầu hố phơi
thai”, cịn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất
cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định
với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hố và cơng nghệ.
Từ cách tiếp cận xã hội học tơn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện
chứng về q trình tồn cầu hố. Ơng khơng coi nó là q trình đồng nhất tồn cầu,
mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the
local). Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản
phẩm và thị trường của địa phương theo từng hồn cảnh cụ thể, tương thích với sự
thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm
“glocalization” hay “local globalization” (tồn cầu hố có tính địa phương.
Tóm lại, tồn cầu hố kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều
hơn hàng hố, vốn, cơng nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó
chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển
của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào
và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân cơng và hàng hố
nhằm tối ưu hố việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi tồn cầu.
Như vậy, tồn cầu hố là một q trình khách quan của xã hội lồi người, cả thế
giới chỉ có một q trình tồn cầu hố duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát
triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – khơng thể có sự
lựa chọn: tẩy chay tồn cầu hố này hay chỉ tham gia vào tồn cầu hoá kia, hoặc
5


chờ đợi làn sóng tồn cầu hố mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng khơng là
trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người

thua cuộc thực sự trong một thế giới cịn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không
phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với tồn cầu hố mà là những người
bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng khơng chỉ rõ: “Chúng
ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hố các mặt tích cực và tối thiểu
hoá các mặt tiêu cực của quá trình tồn cầu hố, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển
của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào q trình
tồn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.
Như vậy, xét về bản chất, toàn cầu hóa là q trình tăng lên mạng mẽ những
mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các
khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
1.2 Nguồn gốc của tồn cầu hóa
Từ những năm 40 của thế kỉ XX, khởi đầu từ nước Mĩ, cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật lần thứ hai bùng nổ. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay xuất
phát từ: Những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất
và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số
thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên; Những thành tựu khoa
học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng
nổ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần hai; Chiến tranh thế giới thứ II
bùng nổ là điều kiện để khoa học – kỹ thuật phát triển nhằm sáng chế ra nhưng vũ
khí, phương tiện thông tin...
Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại là khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên
cứu khoa học. Cách mạng khoa học và cách mạng kĩ thuật không tách rời nhau, mà
gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật.
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại diễn ra trên quy mô rộng lớn,
trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, phát triển với tốc độ nhanh và đạt được những
thành tựu kì diệu chưa từng thấy. Cuộc cách mạng cơng nghệ trở thành cốt lõi của
cách mạng khoa học – kĩ thuật.
– Trong các ngành khoa học cơ bản như Tốn học, Vật lí học, Hố học, Sinh
học có nhiều phát minh mới… Đặc biệt là tạo ra được cừu Đôli bằng phương pháp


6


sinh sản vơ tính (tháng 3-1997), lập được “Bản đồ gen người” (tháng 6-2000), giải
mã hoàn chỉnh bản đồ gien người (4-2003).
– Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những
thành tựu to lớn:
+ Những cơng cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…)
+ Nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…)
+ Vật liệu mới (chất pôlime, những vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn…)
+ Công nghệ sinh học (công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi
sinh, công nghệ emzim, dẫn tới cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp)
+ Trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh
quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao)
+ Chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ).
+ Công nghệ thông tin với sự hình thành mạng thơng tin tồn cầu (Internet),
được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn
minh nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin”.
Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại đã có những tác động sâu sắc tới
nền kinh tế quốc tế.
Trước hết làm thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế: Tỉ trọng nông nghiệp, công
nghiệp giảm, tỉ trọng dịch vụ tăng. Hiện nay, tỉ trọng nông nghiệp trong GDP ở các
nước công nghiệp phát triển giảm mạnh, tỉ trọng của ngành cơng nghiệp có tăng
chút ít ở một số nước, cịn ở một số nước lại giảm xuống, tỉ trọng của ngành dịch
vụ (bao gồm ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương nghiệp bán buôn
và bán lẻ, các thiết chế tài chính – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, các dịch vụ sinh
hoạt, giao dịch và văn hóa – xã hội) tăng lên mạnh.
Thứ hai: Trong nội bộ từng ngành cũng có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong
công nghiệp dịch vụ. Trong công nghiệp đã chuyển từ loại hình cơ cấu tiêu hao

nhiều năng lượng, lao động, tài ngun sang loại hình cơ cấu có hàm lượng khoa
học, tri thức và công nghệ cao, tốc độ của những ngành này đã vượt tốc độ phát
triển bình quân của sản phẩm công nghiệp.
Thứ ba: Cùng với sự thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu việc làm cũng có sự
thay đổi mới. Đội ngũ người lao động – lực lượng sản xuất cơ bản biến đổi cả về
trình độ, cơ cấu và cả các yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa sức lao động. Cơ cấu
7


lao động thay đổi theo hướng tiến bộ, các yếu tố tái sản xuất sức lao động đã ngày
càng đáp ứng u cầu địi hỏi của q trình tái sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội
bước dần sang nến sản xuất trí tuệ, địi hỏi người lao động càng phải có trình độ
khoa học, trình độ cơng nghệ, tay nghề cao, làm tỷ lệ công nhân cổ trắng ngày càng
tăng.
Thứ tư: Thay đổi trong hình thức sản xuất và tổ chức sản xuất. Xuất hiện hình
thức mới là các khu cơng nghệ cao mà ở đó sản xuất và khoa học kết hợp làm một.
Ðó là hình thức sản xuất mới của nền kinh tế tri thức, của xã hội thơng tin. Các khu
cơng nghệ cao hay cịn gọi là các “công viên công nghệ cao” đang phát triển rất mạnh.
Như vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ với việc khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã trở thành điều kiện quan trọng để đưa
lực lượng sản xuất tiến lên một bước phát triển mới làm tăng năng suất lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, nguồn vốn, trình độ kĩ thuật, cơng nghệ, nguồn lực, trình
độ quản lí…giữa các quốc gia thì sự trao đổi quốc tế là tất yếu khách quan và diễn
ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn, quy mô càng lớn hơn. Đối tượng tham gia vào
việc trao đổi quốc tế được mở rộng rất nhiều, dẫn đến nhu cầu tất yếu về hợp tác
quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ: chun mơn hóa với hợp tác hóa quốc tế
trong sản xuất và hợp tác với trao đổi quốc tế trong các lĩnh vực khác.
Kết luận: Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng

sản xuất, làm tăng năng suất lao động , đưa tới sự hình thành một thị trường thế
giới với xu thế tồn cầu hóa.Tồn cầu hóa chính là hệ quả quan trọng của cachs
mạng khoa học công nghệ, xuất hiện từ đầu những năm 80 thế kỉ XX.
1.3 Biểu hiện của tồn cầu hóa
Thứ nhất: Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế, các nước
trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.
Thương mại quốc tế là q trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, đây là một
lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các quốc gia vào sự phát triển kinh tế
và sự phân công lao động. Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, năng
suất lao động ngày càng tăng tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn, dẫn đến nhu cầu
trao đổi thốt ra khỏi phạm vi thị trường quốc gia. Các quốc gia trên thế giới hiện
nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều
8


vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực,
trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm Do vậy, từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế ngày
càng tăng.
Thương mại quốc tế ngày càng tăng có nghĩa là nền kinh tế của các quốc gia
trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc thế hóa của nền
kinh tế thế giới tăng.
Thứ hai: Sự phát triển và những tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia.
Sự phát triển của lượng sản xuất dưới tác động của khoa học cơng nghệ đã đẩy
nhanh q trình tich tụ và tập trung sản xuất hình thành các cơng ti có quy mô lớn.
Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển làm cho các công ty liên minh với nhau trong
quá trình sản xuất và phân phối hàng hố trên thị trường thế giới đã hình thành nên
các cơng ty độc quyền quốc tế .Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ
nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt
động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản

xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành
cơ sở kinh tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các cơng ty
xun quốc gia có phạm vi hoạt động không biên giới.
Các công ti xuyên quốc gia có vai trị và tác động lớn đến sự phát triển kinh tế
thế giới. Các công ti xuyên quốc gia thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thương
mại quốc tế, đẩy mạnh quan hệ hàng hóa, tài chính trên phạm vi tồn cầu. Sự phát
triển của các cơng ti xuyên quốc gia đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc
gia, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa lực
lượng sản xuất. Các cơng ti xun quốc gia cịn có tác động đến q trình trao đổi
hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy đầu tư quốc tế, thúc đẩy tự do hóa đầu tư giữa các
quốc gia. Bên cạnh đó các cơng ti xun quốc gia cịn tạo cơ hội việc làm và thúc
đẩy sự phát triển nguồn nhân lực.
Thứ ba: Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đồn lớn, nhất là
các cơng ti khoa học – kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị
trường trong và ngồi nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào
những năm cuối thế kỉ XX.
Cạnh tranh ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Do
tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
9


của nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Trong điều kiện
phát triển mới, cường độ cạnh tranh khơng hề giảm bớt mà có xu hướng gia tăng
với những kết quả hoặc những tổn thất không lường. Việc sáp nhập và hợp nhất các
công ti đưa lại lợi ích to lớn giúp giảm chi phí đầu tư và hội tụ đầy đủ các tiềm lực
và thuận lợi để các tập đoàn phát triển lớn mạnh và đạt được lợi thế cạnh tranh trên
thương trường.
Thứ tư: Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế
và khu vực. (Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF, Ngân hàng thế giới – WB, Tổ chức thương
mại thế giới – WTO, Liên minh châu Âu – EU, Hiệp ước thương mại tự do Bắc Mĩ

– NAFA, Khu vực thương mại tự do – ASEAN(AFTA)…).
Xu thế tồn cầu hóa mà trọng tâm là tồn cầu hóa kinh tế, việc mở rộng thương
mại quốc tế, sự phân công lao động quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức
liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Nhờ có sự phân cơng lao
động trong các khối liên kết kinh tế, tài chính, thương mại mà mỗi nước sử dụng
hiệu quả hơn, kinh tế hơn các thế mạnh tuyệt đối và tương đối của mình, - làm cho
các thành tựu khoa học kỹ thuật được sử dụng tối ưu, tăng năng suất lao động ...
Liên kết kinh tế khu vực giúp cho mỗi quốc gia tăng cường sức cạnh tranh của
mình trên thị trường quốc tế, nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu của quá trình hội
nhập tồn cầu và những bất lợi của q trình đó để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế
của quốc gia mình.
Những biểu hiện chủ yếu của xu thế tồn cầu hóa: Sự phát triển nhanh chống
của quan hệ thương mại quốc tế; Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti
xuyên quốc gia; Sự sáp nhập và hợp nhất các cơng ti thành những tập đồn lớn;
Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu
vực.
1.4. Tác động của tồn cầu hóa
Tồn cầu hố là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
là xu thế khách quan, là một thực tế khơng thể đảo ngược. Nó có tác động tích cực
và tiêu cực.
* Tác động tích cực
Tồn cầu hóa thúc đẩy rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản
xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao (nửa đầu của thế kỷ XX, GDP thế giới tăng
hơn 2,7 lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần).
10


Tồn cầu hóa góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đưa tới bước
chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa
vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan

trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội lồi người.
Mặt khác, tồn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn
những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và
quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân
tộc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Tồn cầu hóa tạo nên khả năng phát triển rút ngắn của các quốc gia, mang lại
những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho các nước đang phát triển từ các
nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm.
Toàn cầu hóa đã gây sức ép gay gắt về mặt cạnh tranh do dó địi hỏi các nền
kinh tế phải tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả.
Mặt khác, tồn cầu hóa mở ra những thị trường mới, những đối tác mới cho
từng nước như các nước đang phát triển. Tồn cầu hóa thực chất là mở rộng và
phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thơng thống hơn, hàng rào
quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi
cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế
giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan
thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị
trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và
chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động
dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch
vụ.
Tồn cầu hóa cịn là q trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực khác của đời sống
xã hội, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu
tranh một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa. Thơng qua các hình thức liên kết
kinh tế, chuyển giao cơng nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị trường, các nền
văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa trở nên phong phú và đa
dạng.
* Tác động tiêu cực
Tồn cầu hóa làm tăng thêm sự bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn cách giàu
nghèo trong từng nước và giữa các nước. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày

11


càng lớn. Các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân
số thế giới hiện đang chiếm tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3
đầu tư trực tiếp của nước ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước
nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP tồn thế giới.
Tồn cầu hóa cũng làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người thêm
kém an tồn, từ kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội cho đến mơi trường...
Mặt khác, về mặt xã hội, tồn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc và nguy cơ nền độc lập tự chủ của các quốc gia bị xâm phạm.
Kết luận: Xu thế tồn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các dân
tộc, khu vực, quốc gia trên thế giới. Tồn cầu hóa chính là thời cơ lịch sử, tạo ra cơ
hội to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia nhưng đồng thời cũng đưa
tới mn vàn những khó khăn thử thách.

12


13


CHƯƠNGNG II. QUÁ TRÌNH HỘI DUNGI NHẬP QUỐC TẾP QUỐC TẾC TẾ TỒN CẦU HĨA
1. Bối cảnh lịch sửi cảnh lịch sửnh lịch sửch sử

Sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều ra ra sức điều chỉnh chiến lược
phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm ... Mĩ cố gắng vươn lên “Trật tự đơn cực”.
Trong khi đó, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc cố gắng duy trì “Trật tự đa cực”.
Các nước lớn đã điều chỉnh các quan hệ đối với nhau chiều hướng đối thoại,
thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp hoặc tạo lập những tập hợp lực lượng riêng...

Vai trò của Liên hợp quốc được tăng cường và đề cao trong việc duy trì trật tự, an ninh
thế giới...
Xu thế đối thoại, hợp tác, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng tơn trọng lẫn nhau
trong cùng tồn hồ bình đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu trong các mối
quan hệ quốc tế.
Tuy hịa bình là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh
nhưng nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột, sự ổn định các quốc gia bị
đe dọa bởi nguy cơ li khai, khủng bố ...
Từ thập kỉ 80 thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra
ngày càng mạnh mẽ xu thế “toàn cầu hóa” ... Đây là xu thế khách quan’ đối với các
nước đang phát triển đây vừa là thời cơ vừa là thách thức gay gắt trong đó có Việt Nam.
Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985),
Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để
khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và vững bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới.
Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của
cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật trở thành xu thế thế giới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới.
Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác trong khi các nước này đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách, đổi
mới, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tình hình đó cũng địi hỏi Đảng và Nhà Việt
Nam phải tiến hành đổi mới.

14


Kết luận: Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là
cơ bản nhất, đã trở thành xu thế chung của thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm

biến đổi căn bản đời sống của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
2. Chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế trương của Đảng về hội nhập quốc tếng củ trương của Đảng về hội nhập quốc tếa Đảnh lịch sửng về hội nhập quốc tế hội nhập quốc tếi nhập quốc tếp quối cảnh lịch sửc tế tồn cầu hóa

Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp
thiết của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước
hoà vào trào lưu phát triển chung của thế giới.
Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội
nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động
quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước
khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh
tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát
triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngồi trên ngun tắc bình đẳng cùng
có lợi”. Nghị quyết Đại hội cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế
đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và
vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngồi...
Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển”, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại
hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa
dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững
độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”
Đại hội VIII của Đảng (1996) đã đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”,
“đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh
phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tơn trọng độc lập, chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi.
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đường lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ

quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển". Đại hội xác định độc lập tự
chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
15


hố, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, khơng chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng
“là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của
Đảng (4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế
đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan
điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác”.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội
nhập quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần
vào sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể
hiện tầm nhìn chiến lược tồn diện của Đảng. Đây khơng chỉ là sự chủ động, tích
cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở
rộng hội nhập với qui mơ tồn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã
hội, quốc phịng - an ninh...
Xun suốt q trình gần 30 năm đổi mới, có thể thấy quan điểm về đối ngoại
và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế;
Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển; Tiếp tục tạo mơi trường hồ bình và

điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội; Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương
với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau,
tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, khơng can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng
và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hồ
bình.
16


3. Quá trình hội nhập quốc tế qua 30 năm đổi mới của Đảng ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước
khơng phải là một điều gì hồn tồn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế
thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những
luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời
phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai
thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà
chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta
trong cơng cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, T4, NXB Chính trị
quốc gia, HN 1995, tr74). Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những
năm 70 của thế kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),
tích cực tham gia Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những
nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh
mối quan hệ với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan
hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các
thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cơ lập về chính trị đối với

nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ
VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng cơng cuộc đổi mới
nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai
Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xơ, Đơng Âu xấu đi
nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước
này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho
việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo,
nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ
trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu
là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cơ lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng
quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu
tư với nước ngồi với những quy định khá thơng thống. Đại hội lần thứ VII họp
vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và
17


Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra những
đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở,
chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần
thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng
chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất
sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể
của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng
đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương
châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự

cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai
mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời
mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã
khẳng định chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khố VIII nêu nhiệm vụ
“tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn
trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC
và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khn khổ
AFTA”.
Hội nhập kinh tế quốc tế là q trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh
nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc
tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ
phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để
đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước
ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và
toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta
có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu khơng hội nhập thì việc sử dụng trong nước
sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thơng qua hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua
hợp đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ
thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
18


Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá
trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham
gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng q trình dân

chủ hố xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ
hội do tồn cầu hố mang lại – dù là tồn cầu hố đang do chủ nghĩa tư bản chi
phối – thì chúng ta khơng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được.
Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh thủ những
nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu
cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển và
đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng
ta khơng hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa
trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được”
Tuy nhiên, toàn cầu hố là một q trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vơ cùng
phức tạp. Nó khơng chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà cịn có cả
những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.
Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng
cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế giới còn
rất xa. Học thuyết tự do mới về tồn cầu hóa địi hỏi các quốc gia phải mở toang
cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hố thị trường bên trong và
bên ngồi, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trị kiểm sốt
của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các
doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng
các nước khác.
Mà xu hướng tự do hố thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc
tế ngày càng khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả
các mặt trận, với những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn
đàn Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần
nhấn mạnh : “Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua
kém nhiều nước xung quanh là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế”
Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc
tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ
19



thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công,
nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng
khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu khơng vượt
qua được những thách thức này, chúng ta không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực
tế. Mặt khác, tồn cầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị
trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản đang mưu toan dinh những
lợi thế này để gây sức ép đối với chúng ta.
Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mịn các giá trị văn
hố truyền thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước.
Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính
hai mặt của tồn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những xu hướng, những
tác động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con
đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để tiếp tục con
đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới.
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan
điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
như sau: Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ IX Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của tồn dân; trong
q trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế
của tồn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Thứ ba, hội nhập
kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội,
vừa khơng ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khơn khéo và linh hoạt trong việc xử lý
tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể;
đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng
giản đơn, nơn nóng.Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ

đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất
nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham
gia; tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phịng; thơng qua hội nhập để tăng cường
20



×