Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.31 KB, 12 trang )

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1. Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 50
(XX), hệ thống xã hội chủ nghĩa được thành lập, nối liền từ châu Âu sang châu Á
và ngày càng lớn mạnh, trở thành hệ thống thế giới.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành
chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam. Song vào những năm cuối thập kỷ 50 (XX),
giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những bất đồng
nghiêm trọng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, về vị thế
và ảnh hưởng quốc tế, về lợi ích dân tộc... trong đó đặc biệt là mâu thuẫn giữa
Liên Xơ - Trung Quốc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu có sự rạn nứt, dẫn đến
sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lợi dụng tình thế
này, các lực lượng phản cách mạng trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ tìm cách
khoét sâu mâu thuẫn, chia rẽ, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa và giảm thiểu
sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân Việt Nam, gây ra khơng ít khó khăn cho sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sau năm 1945, thắng lợi của các lực lượng chống phát xít đã mở ra thời kỳ mới
trong sự nghiệp giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, nhất là những nước
trong khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh. Ở những mức độ khác nhau, các nước
này đã và đang đứng lên giành độc lập, tự do như Triều Tiên, Việt Nam, Inđônêsia,
Philippin. Miến Điện... Đặc biệt, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã
tạo nên sự thay đổi mới trong cán cân lực lượng trên vũ đài quốc tế. Sự gia nhập của
Trung Hoa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm cho so sánh lực lượng trở nên có lợi
cho cách mạng, đồng thời tấn cơng trực diện vào hệ thống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ
đứng đầu. Bên cạnh đó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh của
các dân tộc Đơng Dương như được tiếp thêm sức mạnh. Sự đồn kết gắn bó giữa ba


nước Đông Dương Việt Nam - Lào - Campuchia càng thêm chặt chẽ, nhằm đối phó với


những âm mưu, thủ đoạn xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ. Từ nửa cuối những năm
50 (thế kỷ XX), phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Phi,
châu Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào
thời kỳ độc lập về chính trị, thốt khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại
Băng-đung (Inđônêxia), 29 nước Á-Phi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc
hồ bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực
dân, củng cố nền độc lập của các nước Á-Phi và bảo vệ hồ bình thế giới. Sau Hội nghị
Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão. Năm 1956, ở châu Phi, 3
nước Bắc Phi - Tuynidi, Marốc, Xu đăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước Cộng hoà
Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng dậy của các nước Tây Phi. Đến năm 1960, đã có 17
nước châu Phi tuyên bố độc lập và năm 1960 đi vào lịch sử với tên gọi “Năm châu Phi”.
Bằng việc công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các nước đế
quốc phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên tồn
thế giới. Nhìn chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến cơng. Đó là nhân tố
quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng
chính trị - xã hội khác, thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con
đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa
ủng hộ chính sách hồ bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế giới, vừa tranh
thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng
cường đồn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập, dân tộc của Đảng đã từng
bước tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế
rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự
mạnh nhất thế giới tư bản. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có tham vọng bá chủ toàn
cầu. Ngày 6-4-1946, Tổng thống Truman tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia
mạnh, nghĩa là với một sức mạnh như thế, chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo


thế giới”1. Để thực hiện tham vọng, Mỹ thực thi “Học thuyết Truman”, “Kế hoạch

Macsan”, phát động và đẩy mạnh Chiến tranh lạnh, hịng bao vây Liên Xơ, các nước
dân chủ nhân dân, giành giật các thuộc địa và áp đặt các nước đế quốc khác trong quỹ
đạo của Mỹ.
Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân ta với đỉnh
cao thắng là chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu đã
buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), cơng nhận độc lập,
chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn
chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập
của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một
thời kỳ phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những
khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ
chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được hồn tồn giải phóng và sau khi quân
đội Pháp rút đi, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế, bảo đảm đời sống, củng cố, xây dựng miền Bắc. Trước mắt, miền
Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất - hậu quả của gần một thế kỷ
thuộc địa và hơn chín năm chiến tranh. 90% dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề
nông, nhưng nền sản xuất nông nghiệp manh mún, nghèo nàn, kỹ thuật canh tác
lạc hậu, đời sống người nơng dân cịn thiếu thốn mọi bề. Nông nghiệp - ngành
kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ
hoang, 8 cơng trình thuỷ nơng lớn và nhiều cơng trình thuỷ nơng vừa và nhỏ bị
phá huỷ. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp, kỹ thuật sản xuất
thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thơn xơ xác, tiêu điều vì địch càn qt, đốt phá.
Hồ bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Tháng 9-1954, miền Bắc có
nửa triệu người chết đói. Nền cơng nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công
nghiệp với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và các tài
liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào Nam. Tỷ trọng của
công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công - nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt
1

Đào Huy Ngọc, Lịch sử quan hệ quốc tế (1870 -1964), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1996, tr. 119.



xuống cịn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu thủ cơng nghiệp cũng rất sa sút, không mấy sáng sủa, nhất là không có ngun liệu
sản xuất. Nhiều ngành, nghề thủ cơng truyền thống bị mai một hoặc mất hẳn. Hệ
thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp.
Tình hình chính trị - xã hội miền Bắc còn nhiều bất ổn. Hồ bình lập lại
nhưng tình hình an ninh cịn rất phức tạp do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các lực
lượng phản động phá hoại. Trước, trong và sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di
cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên chúa,
công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật… Địch gài lại hàng
ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản động, cùng với các tốn biệt kích được tung
ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các cơng trình cơng cộng. Các phần tử tay
sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số
địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng, của Chính
phủ Việt Nam, hịng lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân
dân. Ở biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động Pháp,
Mỹ, Tưởng tiếp tay, hoạt động phá hoại. Tại nhiều vùng khác nhau, ngụy quân,
ngụy quyền cũ vẫn lén lút hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Sau chiến
tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc,
giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức
tạp hơn vì kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây
dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi đó,
chính quyền cơ sở mới hình thành, chưa được củng cố, kiện tồn. Trình độ nhận
thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng viên cịn
nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong
những ngày tháng đầu tiên có hịa bình. Bên cạnh những thách thức đã nêu trên,
trong bối cảnh, tình hình mới, dù cịn nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là căn
bản. Miền Bắc hồn tồn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước,
có qn đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, Mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi. Miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách



mạng tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi. Nhân dân ta có một đảng
vững mạnh, có kinh nghiệm lãnh đạo, với đội ngũ đảng viên, đoàn viên hơn một
triệu người, lại được nhân dân tiến bộ thế giới đồng tình ủng hộ. Thuận lợi đó sẽ
được nhân lên thành sức mạnh to lớn để chiến thắng.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam Việt Nam trở thành chỗ đứng chân của
hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mỹ, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa
chúng với nhau. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến
hành chiến tranh Đơng Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính nước
Pháp, thực dân Pháp đã phải rút dần ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền
lực cho đế quốc Mỹ- một cuộc chuyển giao quyền lực khơng êm thấm. Vì thế,
ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng
buộc bởi các điều khoản của Hiệp định, can thiệp sâu, nhằm biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưa cơ bản, lâu
dài đó, trước mắt, Mỹ tập trung nỗ lực giúp cho Ngơ Đình Diệm phá hoại Hiệp
nghị Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam.
Như vậy, miền Nam tạm thời thuộc quyền kiểm soát của Mỹ - Ngụy. Từ chỗ có
chính quyền, có qn đội, có vùng giải phóng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định
Giơnevơ, phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt
động của cách mạng phải chuyển sang phương thức hợp pháp, bất hợp pháp, cơng
khai và bí mật. Đó là một thay đổi lớn tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của
đồng bào, đồng chí miền Nam, trở thành một trong những khó khăn to lớn mà
cách mạng ở miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt
các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở
cách mạng, khủng bố nhân dân. Có trong tay sức mạnh về kinh tế và quân sự và
bộ máy ngụy quân, ngụy quyền lớn mạnh, kẻ thù thẳng tay đàn áp, khủng bố các
phong trào đấu tranh của nhân dân, tàn sát cán bộ, đảng viên, ráo riết đánh phá các
cơ sở cách mạng, gây cho chúng ta nhiều tổn thất nặng nề. Từ thành thị tới nông
thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ chót mũi Cà Mau đến bờ Nam sơng Bến Hải

bao trùm khơng khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp căng thẳng. Máu của những đảng


viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thơn.
Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc, Mỹ - Diệm mưu toan sẽ nhanh
chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân ta. Sau
chín năm rịng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hồ bình. Một lần nữa,
cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vơ cùng to lớn, tưởng chừng
khó vượt qua.
Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có
thuận lợi vừa có những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ
yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng cả nước là đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm
hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự nghiệp giải phóng dân tộc
của nhân dân Việt Nam chưa hồn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc
lập thống nhất, dân chủ, hồ bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó cịn phải tiếp
tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh
này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc
nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục
tiến lên. Tình thế mới của đất nước đòi hỏi sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng phải
tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt và vững vàng, đặc biệt phải
nhanh chóng đưa ra được đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát
huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, hồn
thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.
Trong những năm 1954-1959, ngay sau khi miền Bắc được hồn tồn giải
phóng và đến khi phong trào "Đồng khởi" nổ ra và lan rộng mạnh mẽ, Đảng ta đã
bám sát tình hình thực tiễn, những diễn biến, sự vận động nội tại của phong trào
cách mạng Việt Nam và trên thế giới, phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù,
phân tích so sánh lực lượng giữa ta - địch, để đưa ra những quyết sách lãnh đạo
cách mạng Việt Nam trong điều kiện vừa có những thuận lợi cơ bản, song cũng có

những thách thức, khó khăn vơ cùng to lớn. Trong từng bước đi lên của cách
mạng, Đảng đã kịp thời xác định những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến thành bại


của cách mạng, đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chiến lược và sách
lược cho cách mạng cả nước, cũng như cách mạng từng miền. Đó là mục tiêu bất
di, bất dịch thực hiện hịa bình, dân chủ, độc lập, tự do trong cả nước. Trong chiến
lược chung ấy, thực hiện củng cố miền Bắc thành nền tảng vững chắc cho cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà được coi là nhiệm vụ quan trọng, phải thực hiện
đồng thời với nhiệm vụ đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó đồng thời cũng là những nhận thức
quan trọng được Đảng đúc rút qua quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn những năm
tháng đấu tranh gian khổ và hy sinh xương máu 1954-1959, trở thành cơ sở để
Đảng hoạch định đường lối cứu nước độc lập, tự chủ, nhằm hoàn thành mục tiêu
thiêng liêng của dân tộc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện
chân lý "Khơng có gì q hơn độc lập, tự do".
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ
Năm 1960, về căn bản, miền Bắc nước ta đã hồn thành nhiệm vụ cịn lại
của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, phong
kiến, giải phóng va thực hiện các quyền dân chủ về ruộng đất cho người nông dân;
tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), đẩy
mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh
tế - văn hố (1958-1960). Cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư
doanh đã hồn thành. Sản xuất nơng nghiệp, cơng nghiệp trên đà phát triển, sự
nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi của sự nghiệp củng cố miền Bắc là nguồn
động viên to lớn để nhân dân miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở miền
Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết 15 (1-1959), một phong trào "Đồng khởi" mạnh
mẽ bùng dậy. Sau thắng lợi của phong trào "Đồng khởi", đặc biệt là sau khi Mặt

trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam
chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngơ Đình Diệm ngày càng phát triển. Nhân dân cả


nước một lịng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế
giới.
Bước vào Nhà trắng. Tổng thống Đảng Dân chủ G. Kennơdi thay đổi chiến
lược toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Đầu những năm 1960,
để đối phó với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, Mỹ đưa thêm lực lượng đặc
biệt vào Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự. Từ năm 1961, Mỹ đã lập Bộ Chỉ
huy viện trợ quân sự (MACV); ngày 15 -5-1962, Mỹ đưa quân vào Thái Lan. Số
quân của Mỹ ở miền Nam nước ta đã tăng dần từ 3.000 tên vào tháng 12-1960 đến
23.000 vào tháng 12-19642. Dùng lực lượng nguỵ quân với cố vấn và vũ khí hiện
đại, Mỹ càn qt, bình định, dồn dân hịng tiêu diệt Qn giải phóng miền Nam.
Tuy nhiên, trên chiến trường miền Nam, đấu tranh vũ trang ngày càng phát triển
nhanh chóng, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, đẩy đế quốc Mỹ và chế độ tay
sai vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng triền miên.
Trước những chuyển biến của tình hình, đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của ngày
càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
ba của Đảng (9-1960) nhóm họp và xác định nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta
trong giai đoạn hiện nay là: "Tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt
Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đơng - Nam Á và thế
giới"3. Hiện nay, do đế quốc Mỹ xâm chiếm miền Nam, nước ta đang tạm thời bị
chia làm hai miền. Miền Bắc hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền
Nam còn đang bị chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến thống trị. Tình hình

ấy đã hình thành ở nước ta hai khu vực có chế độ chính trị và xã hội khác nhau;
2

Quan hệ Việt- Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh,
Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 17.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.


đồng thời, cũng quy định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có hai
nhiệm vụ thuộc hai chiến lược khác nhau: Một là, tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc được Đại hội III chỉ rõ là muốn bảo đảm
cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đi tới đích cuối cùng, giành được
thắng lợi hoàn toàn, "chúng ta phải nhận rõ bản chất của nhiệm vụ
cách mạng ở mỗi miền"4. Đại hội III giải thích: Đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội chính là đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội miền Bắc trên
bước đường phát triển, đồng thời cũng đáp ứng nguyện vọng thiết tha của bản
thân giai cấp công nhân và nhân dân lao động miền Bắc. Hơn nữa, đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là yêu cầu cấp bách của xu
thế phát triển cách mạng ở miền Bắc, mà còn là yêu cầu cấp bách của phong trào
cách mạng trong cả nước. Chỉ có đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới
có thể củng cố



phát


triển

những

thắng

lợi

cách

mạng

đã

giành được, làm cho miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, trở thành nền tảng, gốc
rễ, căn cứ địa cách mạng của cả nước, thành hậu phương vững chắc của cách
mạng miền Nam. Miền Bắc còn là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta thực hành, mở
rộng quan hệ đối ngoại, nhằm tranh thủ rộng rãi sự đồn kết, đồng tình, ủng hộ,
giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra, miền Bắc với chế độ xã hội ưu việt với một nền kinh tế
phát triển, một nền văn hoá dân tộc và hiện đại, một nền an ninh - quốc phịng
khơng ngừng lớn mạnh là niềm cổ vũ mạnh mẽ đồng bào ta ở miền Nam, là sức
mạnh tập hợp tất cả những người yêu nước, tiến bộ vì một tương lai tươi sáng của
dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà. "Phương châm của chúng ta trong khi tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là: Xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam"5. Còn tiến
4
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 507.



hành cách mạng giải phóng miền Nam tức là giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản
tồn tại trong xã hội miền Nam. Đó là mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với
bọn đế quốc xâm lược, trước hết là đế quốc Mỹ, cùng bè lũ tay và mâu thuẫn
giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Những mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, bởi vì chính quyền độc tài phát
xít miền Nam dưới sự bảo trợ của đế quốc Mỹ đang hàng ngày, hàng giờ áp bức,
bóc lột, khủng bố, tàn sát nhân dân miền Nam. Để bảo vệ sinh mạng và quyền
lợi thiết thân của mình, nhân dân miền Nam khơng có con đường nào khác ngồi
con đường đánh đổ chế độ độc tài phát xít của Mỹ – Diệm, hồn tồn
giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần xây dựng một
nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Không chỉ cần hiểu rõ, nắm vững bản chất nhiệm vụ cách mạng từng miền
để có biện pháp, cách thức thực hiện đúng đắn, hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng,
vấn đề "đồng thời phải nắm vững quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai
miền trong quá trình phát triển của cách mạng"6 là hết sức cần thiết. Bởi vì, trong
điều kiện hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của
mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt làm hai, song hai nhiệm vụ
đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hịa bình thống nhất Tổ
quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng, thì việc xác định
đúng đắn vị trí và trách nhiệm của cách mạng mỗi miền sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến thắng lợi cách mạng mỗi miền, cũng như thắng lợi cách mạng chung cả nước.
Chỉ có xác định đúng đắn vị trí cách mạng mỗi miền, chúng ta mới có một quan
điểm tồn diện về nội dung và nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn
hiện nay, mới có chủ trương, phương châm, kế hoạch, biện pháp đúng
đắn để tiến hành thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của vấn đề, Đại hội III chỉ rõ rằng, hai nhiệm vụ này có mối "quan hệ

6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.


mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển" 7. Về vai
trị, vị trí của mỗi nhiệm vụ chiến lược, Đại hội III khẳng định: "Nhiệm vụ cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta và sự nghiệp thống nhất nước nhà"8,
cịn cách mạng miền Nam có "tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực
hiện hịa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước"9.
Đại hội cũng xác định cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta là một
quá trình đấu tranh cách mạng gay go, lâu dài, gian khổ, phức tạp và là cuộc đấu
tranh chính nghĩa, "là một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế đấu
tranh cho chủ nghĩa



hội,

độc

lập

dân

tộc




hịa

bình

thế

giới. Cuộc đấu tranh ấy, một mặt được phong trào chung trên thế giới cổ vũ và
giúp đỡ, mặt khác, cũng góp phần thúc đẩy phong trào chung"10, vì thế, chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ
mọi sự ủng hộ của các lực lượng hịa bình, dân chủ, tiến bộ trên thế giới cho cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần tích cực đấu tranh bảo vệ và củng cố hịa
bình thế giới.
Một cách tổng quát, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng là một sự kiện
chính trị quan trọng, là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà. Đại diện cho ý chí của tồn Đảng,
tồn dân, Đại hội đã phân tích đặc điểm, tình hình và yêu cầu cách mạng Việt
Nam, đề ra đường lối chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ. Đường lối kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Thực hiện thắng lợi đường lối và những nhiệm vụ cách mạng do
Đại hội thông qua là trách nhiệm, yêu cầu sống còn trong giai đoạn cách mạng
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 511.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 611-612.

8


mới; đồng thời cũng là hoàn thành nhiệm vụ xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ và nhân dân ta đã
làm hết sức mình để đạt được mục tiêu độc lập, hồ bình, thống nhất mà không
xảy ra chiến tranh. Song, đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai Mỹ ở miền Nam cũng đã
bằng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp giải phóng miền Nam, hồ bình thống
nhất đất nước. Đế quốc Mỹ đã thơng qua bộ máy chính quyền tay sai ở miền Nam,
dùng mọi biện pháp, thủ đoạn nham hiểm, để lật đổ, đàn áp, gây chiến tranh một
phía, từ giấu mặt đến công khai gây chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam.
Chính quyền tay sai ở miền Nam được Mỹ nuôi dưỡng, hỗ trợ, ngang nhiên hô hào
“lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”. Như vậy, nhân dân Việt Nam trước sau như một
muốn sống trong hồ bình để xây dựng đất nước, nhưng đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn đã dùng chiến tranh để chống lại nguyện vọng độc lập, hồ bình,
thống nhất Tổ quốc của cả dân tộc, đánh phá dã man phong trào đấu tranh yêu
nước của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân Việt Nam khơng có con đường nào
khác ngồi con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực chống đế quốc Mỹ xâm
lược và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất
nước, đồng thời góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu cách mạng của thời
đại. Việc đế quốc Mỹ chọn Việt Nam - một địa bàn chiến lược ở châu Á - Thái
Bình Dương làm nơi áp dụng chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt”, chống
chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới, gây chiến tranh quy mơ lớn đã
thách thức ý chí “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do” của nhân dân ta. Trong điều
kiện đó, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được xác định tại Đại hội III
của Đảng thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, phản ánh ý chí, nguyện vọng
chung của tồn Đảng, tồn qn, tồn dân ta kiên trì thực hiện mục tiêu giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.




×