Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Mở rộng cho vay khdn tại ngân hàng tmcp an bình – cn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.06 KB, 100 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nửa cuối năm 2007 và nửa đầu năm 2008, thị trường tài chính
tiền tệ Việt Nam có thể được xem như đã trải qua giai đoạn khó khăn nhất
trong vịng 15 năm trở lại đây. Tín dụng “đóng băng” vào cuối năm 2007 và
đầu năm 2008 với lãi suất vay lên cao đến mức bất cứ doanh nghiệp nào cũng
không thể gánh nổi (21 %/năm); thanh khoản của nhiều ngân hàng, đặc biệt là
các ngân hàng nhỏ là một dấu hỏi lớn; lãi suất qua đêm của thị trường liên
ngân hàng tăng cao chưa từng có trong 20 năm trở lại đây (30-40%/năm). Lãi
suất cơ bản tăng cao đẩy lãi suất tiền gửi tăng gấp đôi so với nửa đầu năm
trước đó. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay, hoạt động chủ yếu của
các ngân hàng Việt Nam, bị âm với mức lãi suất huy động này. Ngay cả giai
đoạn khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Nam Á năm 1997, thị trường tài
chính và hệ thống ngân hàng của Việt Nam cũng chưa lâm vào tình hình căng
thẳng đến như vậy.
Có thể thấy nguyên nhân khách quan của các tác động từ cuộc khủng
hồng tài chính dẫn đến suy thoái của kinh tế thế giới và ảnh hưởng đến kinh
tế trong nước cũng là rất lớn do Việt Nam đã tham gia sâu hơn vào thương
mại toàn cầu so với giai đoạn 1997-1998. Nhưng không thể phủ nhận một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này trong nửa cuối năm 2007 là
do sự bùng nổ tín dụng vượt quá khả năng tự chủ về nguồn vốn, kéo dài trong
cả giai đoạn 2006 - 2007 của các ngân hàng nhỏ mới phát triển lên mơ hình
ngân hàng đơ thị. Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) cũng là một trong số
các ngân hàng đó.
Q trình phát triển từ mơ hình ngân hàng nơng thơn lên ngân hàng đơ
thị trong giai đoạn 2005-2007 của ABBank dựa phần lớn vào chiến lược mở


2



rộng cho vay khách hàng doanh nghiệp với mục tiêu tạo ra nền tảng khách
hàng ổn định, có thể bán chéo sản phẩm, tạo ra lợi nhuận lớn. Tuy chiến lược
là phù hợp và thực tế ABBank, trong đó có ABBank chi nhánh Hà Nội đã đạt
được thành công nhất định nhưng phương pháp thực hiện còn nhiều bất cập,
nguồn lực cịn hạn chế, đã đẩy ABBank đến tình trạng vơ cùng khó khăn. Đến
thời điểm này, ABBank đã vượt qua thời kỳ “bất lợi” nói trên với sự trợ giúp
của NHNN và sự thay đổi về mặt nhân sự quản lý cấp cao cũng như điều
chỉnh một số chiến lược kinh doanh quan trọng tuy nhiên việc làm thế nào để
ABBank nói chung và ABBank Hà Nội nói riêng tiếp tục mở rộng cho vay
KHDN, theo đuổi chiến lược phát triển nền khách hàng bền vững trong thời
gian tới là một đề bài mà tất cả nhân viên của ABBank đều cần phải tìm lời
giải.
Nghiên cứu thực tế hoạt động cho vay KHDN giai đoạn 2006 – 2008
nhằm rút ra những kinh nghiệm và tìm giải pháp, áp dụng trong hoạt động
thực tế của ABBank Hà Nội các năm tiếp theo, tôi đã chọn đề tài: Mở rộng
cho vay KHDN tại Ngân hàng TMCP An Bình – CN Hà Nội làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn


Làm rõ những nội dung cơ bản của hoạt động cho vay KHDN tại
các NHTM.



Phân tích thực trạng hoạt động cho vay KHDN tại ABBank Hà
Nội




Đề xuất những giải pháp mở rộng cho vay KHDN căn cứ vào
những hạn chế và các ngun nhân tìm ra trong q trình phân tích
thực trạng.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn


Hoạt động cho vay KHDN của NHTM


3



Hoạt động cho vay KHDN của ABBank Hà Nội giai đoạn 2006 –
2008

4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, kết hợp giữa lý luận và
tình hình thực tế hoạt động của Ngân hàng. Đồng thời vận dụng phương pháp
tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá báo cáo tổng
kết để đưa ra nhận định và giải pháp.
5. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về cho vay doanh nghiệp của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay khách hàng doanh nghiệp của
ABBank Hà Nội
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay khách hàng doanh nghiệp tại

ABBank Hà Nội


4

CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY
DOANH NGHIỆP CỦA NHTM

1.1.

Tổng quan về cho vay khách hàng doanh nghiệp của NHTM

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm phân loại và vai trị của các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại :
Doanh nghiệp là một hình thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá
nhân. Mặc dù hiện nay, khái niệm doanh nghiệp vẫn còn những điểm khác
biệt nhất định giữa các nước nhưng có thể hiểu doanh nghiệp là một đơn vị
kinh tế được thành lập hợp pháp, có tên riêng, hoạt động kinh doanh trên thị
trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Như vậy, có thể khái quát định nghĩa : Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
Để thuận tiện cho việc quản lý, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển,
người ta thường sử dụng tiêu thức quy mô để phân loại doanh nghiệp. Theo
tiêu thức này các doanh nghiệp được chia thành ba loại: Doanh nghiệp lớn,
Doanh nghiệp vừa và Doanh nghiệp nhỏ. Tuy nhiên, do có nhiều đặc điểm

giống nhau giữa doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ nên để đơn giản hoá,


5

nhiều nước trên thế giới thường gộp chung hai loại hình doanh nghiệp này
thành doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp theo quy mô thông thường dựa vào số
vốn đăng ký và/hoặc số lao động trung bình hàng năm. Theo đó DNNVV có
số vốn đăng ký khơng quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người. Như vậy, doanh nghiệp lớn là các doanh nghiệp có số
vốn đăng ký trên 10 tỷ đồng và số lao động trung bình năm từ 300 người trở
lên.
Ngồi tiêu thức về quy mơ như trên, doanh nghiệp trong nền kinh tế
cịn có thể được chia thành nhiều loại hình như : doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, công ty cổ
phần, công ty TNHH…. dựa vào đặc điểm của các hình thức sở hữu vốn góp
và các thành viên góp vốn.
1.1.1.2. Đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp:
Gắn với các tiêu thức như quy mô hoạt động, quy mơ về vốn, loại hình
sở hữu, phương thức kinh doanh, công nghệ sản xuất, thị trường tiêu thụ sản
phẩm… là các đặc điểm nổi bật của các loại hình doanh nghiệp. Dưới đây
phân loại thành DNNVV và DN lớn :
-

Doanh nghiệp nhỏ và vừa:

Trong quá trình hình thành và phát triển, các DNNVV thường mang
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, do tính chất sở hữu đơn nhất hoặc ít thành viên góp vốn, quy

mơ nhỏ nên DNNVV thường rất năng động, linh hoạt trước sự thay đổi của
thị trường, có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh
doanh cho phù hợp với thị trường. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, dễ dàng chuyển


6

đổi cơ cấu tài sản, lao động… do đó, dễ dàng chuyển đổi thích nghi với hồn
cảnh mới. Đây đồng thời được coi là lợi thế, ưu điểm lớn nhất của các
DNNVV.
Thứ hai, quy mô sản xuất hầu hết là nhỏ, khối lượng sản phẩm hạn chế,
chủ yếu là phục vụ tiêu dùng trong nước thậm chí là đáp ứng những nhu cầu
nhỏ lẻ trong một khu vực, địa phương nhỏ hẹp. Thị trường xuất khẩu tuy đã
từng bước được mở rộng nhưng còn nhiều bất cập, đa số hợp đồng là ngắn
hạn, theo thời vụ, thiếu ổn định.
Thứ ba, phần lớn các DNNVV đều có nguồn vốn hạn hẹp, khả năng
tiếp cận với các nguồn tài chính khác rất hạn chế. Theo một nghiên cứu gần
đây thì tỷ suất nợ trên tổng tài sản của DNNVV rất khiêm tốn, trung bình là
13,4%. Một nghiên cứu khác của Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ kế hoạch
và Đầu tư cho thấy rằng chỉ có 34% số DNNVV có khả năng tiếp cận được
vốn vay ngân hàng. Hai lý do chính khiến đơn vay bị từ chối là thiếu tài sản
thế chấp, quy định thủ tục phức tạp khiến người vay khơng có khả năng tn
thủ. Theo nhiều chun gia cũng như bản thân các chủ doanh nghiệp, hạn chế
trong huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân hàng là khó khăn lớn nhất
của DNNVV trong q trình phát triển.
Thứ tư, đa số các DNNVV thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh. Cũng
bởi ngun nhân là vốn ít, quy mơ nhỏ, kinh doanh theo thời vụ nên các DN
loại này cũng không chú trọng đầu tư mặt bằng nhà xưởng để có diện tích sản
xuất đảm bảo.
Thứ năm, đa số các DNNVV chưa có hoặc có trình độ khoa học công

nghệ, trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu; Cũng bởi sự hạn chế lớn về vốn Chủ sở
hữu nên các DN này (nếu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất) thường sản xuất
trong 1 dây chuyền công nghệ lạc hậu; suất tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu


7

cao; trình độ cán bộ cơng nhân viên thấp, do vậy chất lượng sản phẩm, dịch
vụ không cao, khả năng cạnh tranh yếu. Trình độ quản lý, tổ chức sản xuất
kinh doanh cịn nhiều hạn chế, thiếu thơng tin và khả năng tiếp cận thị trường.
Hầu hết các doanh nghiệp thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn và
vì vậy hoạt động có tính chộp giật, theo thời vụ để tìm kiếm lợi nhuận ngắn
hạn.
-

Doanh nghiệp lớn:

Thứ nhất, các doanh nghiệp lớn thường là là đầu tàu của nền kinh tế,
góp phần lớn vào giá trị GDP của bất cứ nền kinh tế nào. Các doanh nghiệp
này tạo ra số lớn công ăn việc làm, giải quyết nhiều mục tiêu kinh tế, xã hội
của đất nước.
Thứ hai, đa phần các doanh nghiệp lớn hoạt động trong nền kinh tế là
các doanh nghiệp nhà nước hoặc có mối quan hệ sâu sắc với các cơ quan
chính phủ, có lượng vốn lớn thuộc sở hữu của tập thể hoặc thuộc diện cơng ty
đại chúng, phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Với đặc điểm sở hữu như
vậy, các công ty này thường có kế hoạch kinh doanh cũng như tầm nhìn trong
dài hạn. Các cơng ty lớn có sở hữu và hoạt động đa quốc gia đều có những
tun ngơn về sứ mệnh dài hạn cũng như các cuộc họp lãnh đạo vùng lãnh thổ
để quyết định những chiến lược kinh doanh trong dài hạn. Chính vì đặc điểm
sở hữu và quy mô lớn như vậy, các doanh nghiệp này thường chậm trong việc

ra các quyết định thay đổi để thích ứng linh hoạt với thị trường.
Nếu những doanh nghiệp lớn này lại là các DNNN hay nhà nước chi
phối phần vốn góp thì cịn có hiện tượng trì trệ trong hoạt động, lợi nhuận
cũng như hiệu quả kinh doanh không được quan tâm đúng mức và không
được xem là mục tiêu tối quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Những doanh nghiệp này hoạt động theo chỉ đạo mệnh lệnh hành chính từ các


8

cơ quan chủ quản và hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp chỉ là người làm thuê nên
ít đạt hiệu quả kinh doanh tối ưu.
Thứ ba, với đặc điểm quy mô lớn, số lượng lao động đông đảo, nhân sự
của các doanh nghiệp này thường được được đào tạo rất bài bản ngay từ khi
tuyển dụng và thường được bổ sung thêm kiến thức trong quá trình làm việc.
Thứ tư, các doanh nghiệp lớn tuy có quy mơ sản xuất lớn, là lực lượng
kinh tế quan trọng của quốc gia và có tiềm lực mạnh về vốn nên ln chiếm
được những vị trí kinh doanh, những dự án có nguồn vốn ưu đãi của chính
phủ và được tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai các dự án này.
1.1.1.3. Vai trị của các loại hình doanh nghiệp
Có thể dễ dàng nhận thấy những vai trò quan trọng của các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế, dù đó là kinh tế tư bản hay xã hội chủ nghĩa;
là nền kinh tế thị trường cởi mở hay các kinh tế trì trệ, cục bộ:
Thứ nhất, các doanh nghiệp là thành phần chủ yếu đóng góp vào tổng
sản phẩm quốc dân và nguồn thu ngân sách nhà nước; chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, huy động nguồn lực cho việc phát triển kinh tế đất nước. Tỷ trọng sản
lượng của các doanh nghiệp trên GDP của các nước thường phổ biến chiếm
trên 80%. Trong khu vực ít phát triển như nơng nghiệp và nơng thơn, vai trị
của các DNNVV là rất lớn đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Sự phát triển
của các DNNVV ở nông thôn đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng tăng dần tỷ trọng các ngành cơng nghiệp và dịch vụ, góp phần đáng kể
vào q trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố nơng nghiệp và nơng thơn.
Các doanh nghiệp là thành phần chủ yếu thu hút vốn đầu tư lớn kể cả
nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Một mặt tận dụng nguồn lực nội tại
(vốn, lao động, tài nguyên), mặt khác tranh thủ cơng nghệ, trình độ tổ chức,
quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế. Tại các nền kinh


9

tế mới nổi, lượng vốn đăng ký đầu tư và mở rộng kinh doanh của các doanh
nghiệp liên tục tăng cao và góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy sự tăng
trưởng của những quốc gia này.
Thứ hai, Các loại hình doanh nghiệp là nơi giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động, giải quyết nhiều vấn đề xã hội có liên quan, tháo gỡ
áp lực về tỷ lệ thất nghiệp đối với chính quyền các cấp. Theo số liệu thống kê,
mỗi năm các quốc gia đang phát triển có thêm hàng triệu người tham gia thị
trường lao động; ngồi ra, tốc độ đơ thị hố nơng thơn, chuyển dịch cơ cấu
vùng đã tạo ra một lượng lớn lao động nơng nghiệp có nhu cầu chuyển sang
làm việc trong các ngành phi nông nghiệp. Việc tạo thêm nhiều cơng ăn việc
làm mới thơng qua các loại hình doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong
việc ổn định chính trị cũng như thúc đẩy sự phát triển cả về kinh tế và xã hội
ở các quốc gia này.
Thông thường, các lao động có trình độ thấp, gia nhập đội quân lao
động tại các thành thị được thu nhận phần lớn bới các DNNVV, là nơi khơng
địi hỏi q cao kỹ năng cũng như trình độ của lao động. Doanh nghiệp lớn,
nơi yêu cầu kinh nghiệm cũng như trình độ lao động cao hơn không thể giải
quyết được yêu cầu giảm tỷ lệ thất nghiệp đối với bộ phận lao động nơng thơn
trình độ thấp nhưng lại có ưu điểm khi tạo ra công ăn việc làm cũng như thu
nhập có tính chất ổn định cho số lượng rất lớn lao động hiện tại sau khi được

đào tạo trong các hệ thống trường lớp. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua
các loại hình doanh nghiệp là nơi chủ yếu thu hút lao động mới hàng năm (kể
cả lao động chuyển từ lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp). Điều này
cho thấy tầm quan trọng, sự đóng góp tích cực của các loại hình doanh nghiệp
đối với vấn đề giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho
người lao động, nâng cao nhận thức của người lao động ở nơng thơn, góp


10

phần ổn định chính trị xã hội và tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia đang
phát triển trong những năm gần đây.
Thứ ba, các loại hình doanh nghiệp đều là nhà cung cấp hàng hoá, dịch
vụ phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu, danh mục hàng
hóa dịch vụ ngày càng đa dạng với chất lượng nâng dần theo thời gian đã giúp
giảm dần sự phụ thuộc của nhu cầu của người dân vào hàng hóa nhập khẩu.
DNNN phần lớn cung cấp các hàng hóa dịch vụ thiết yếu đối với người dân,
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, là động lực thúc đẩy sự phát
triển của các nền kinh tế trong khi đó các DNNVV lại có ưu điểm năng động
và nhanh nhạy trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Tuy có quy mơ
hạn chế nhưng với số lượng lớn, DNNVV đã tạo thành mạng lưới kinh doanh
rộng khắp, kể cả địa bàn nông thôn; là lực lượng chủ yếu, có vai trị quan
trọng trong kênh tiêu thụ nông sản và phân phối vật tư, hàng công nghiệp tiêu
dùng cho nông dân. Phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN đều có
khả năng đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các tầng lớp dân
cư và của sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làm cho thị trường
ngày càng sôi động, tác động đáng kể đến quá trình sản xuất và nâng cao đời
sống của nhân dân.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, với chính sách mở rộng và khuyến
khích thương mại quốc tế ở các quốc gia đang trong tiến trình hội nhập kinh

tế quốc tế, các DN lớn đã tận dụng ưu thế về vốn, nhân lực, thiết bị công nghệ
để xây dựng các khu, vùng chế xuất cung cấp một lượng lớn các chủng loại
hàng hóa: từ nơng sản đến khống sản cũng như các sản phẩm có hàm lượng
tri thức (phần mềm, linh kiện điện tử…) đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, góp phần
quan trọng cân bằng cán cân thanh tốn. Trong khi đó, DNNVV đã năng động
đầu tư vào các ngành nghề có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác
thị trường quốc tế qua đó góp phần tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu


11

ngoại tệ cho đất nước, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ
công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản.
Thứ tư, môi trường doanh nghiệp là nơi vun đắp các tài năng kinh
doanh cho đất nước. Ở Việt Nam, còn nhớ những thương hiệu như: FPT,
Gạch đồng tâm, Café Trung Nguyên… cách đây 15-20 năm vẫn chỉ là các
doanh nghiệp chưa có chỗ đứng trên thị trường nội địa thì nay đã vươn mình
ra thế giới, khẳng định thương hiệu Việt, góp phần làm giàu cho đất nước.
Thứ năm, sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là
DNNVV góp phần khơi phục, giữ gìn và phát triển các mặt hàng truyền thống
thế mạnh của từng địa phương đồng thời thúc đẩy phân công lao động xã hội,
chun mơn hóa các q trình sản xuất. Các DNNVV cũng tỏ ra đặc biệt phù
hợp với việc thực hiện các đơn đặt hàng nhỏ, các mặt hàng có độ phức tạp
khơng cao, u cầu chất lượng vừa phải. Điều này khiến cho DNNVV trở nên
rất quan trọng trong vai trò là "vệ tinh" cho các doanh nghiệp lớn, hình thành
nền cơng nghiệp phụ trợ, giúp cho các doanh nghiệp lớn khơng bị phân tán
nguồn lực và có thể chuyên sâu trong việc sản xuất các sản phẩm, chi tiết
phức tạp. Do đó, thúc đẩy phân cơng lao động, chun mơn hố sản xuất.
Thứ sáu, sự phát triển các mơ hình, loại hình doanh nghiệp từ nhỏ đến
lớn góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng, năng động hóa nền kinh tế, làm cho

thể chế kinh tế thị trường ngày càng rõ nét hơn.
1.1.2. Cho vay của Ngân hàng thương mại đối với khách hàng
doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về cho vay của NHTM
NHTM là một tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi, cho vay, làm trung gian thanh toán, cung cấp các dịch vụ tài
chính và tiến hành các hoạt động khác có liên quan. Tại phần lớn các nước,


12

đặc điểm chủ yếu phân biệt một NHTM với các tổ chức tài chính khác là ở
chỗ: NHTM là tổ chức tài chính duy nhất được phép nhận tiền gửi khơng kỳ
hạn và cung cấp các dịch vụ thanh tốn.
Ngồi những hoạt động truyền thống như: huy động vốn, cho vay, làm
trung gian thanh tốn… một NHTM ngày nay cịn có rất nhiều những hoạt
động khác như nhận quản lý quỹ, quản lý tài sản, đầu tư…. Tuy nhiên, dù ở
giai đoạn nào và dù cho đạt đến trình độ phát triển nào thì cho vay vẫn là một
trong những hoạt động cơ bản nhất, có ý nghĩa sống cịn nhất đối với phần lớn
các NHTM, đặc biệt là đối với các NHTM ở Việt Nam - nơi mà cho vay vẫn
là nguồn đóng góp đến trên 80% tổng thu nhập của toàn ngân hàng.
Về bản chất, cho vay là một hình thức cấp vốn theo đó ngân hàng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền với mục đích và trong thời gian nhất
định theo thoả thuận và trên ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi. Đây là
quan hệ giữa người cho vay (ngân hàng) và người vay trong việc chuyển
quyền sử dụng vốn. Quan hệ này phát sinh dựa trên hai nguyên tắc chủ yếu:
sử dụng vốn đúng mục đích và hồn trả cả gốc và lãi. Trong quan hệ này, để
có quyền sử dụng vốn người vay phải trả "giá" cho ngân hàng - đó là lãi suất,
đồng thời phải chịu những ràng buộc nhất định theo thoả thuận ghi rõ trong
hợp đồng giữa các bên.

1.1.2.2. Phân loại cho vay
Hiện nay, thực tế cho thấy mảng cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh
vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo trong bảng cân đối tài sản của các Ngân hàng
thương mại. Cho vay phục vụ đầu tư hay tiêu dùng vẫn chỉ chiếm tỷ trọng khá
thấp, mặc dù đây được xem là mảng đem lại lợi tức lớn do lãi suất cao. Loại
hình cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh góp phần mở rộng sản xuất, nâng
cao hiệu quả hoạt động, tăng thu nhập của các chủ thể vay vốn và có vai trị


13

quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Chính vì thế khi
nghiên cứu về hoạt động cho vay của NHTM các nghiên cứu cũng thường chỉ
tập trung nghiên cứu cho vay phục vụ kinh doanh.
Để nghiên cứu chi tiết hoạt động cho vay phục vụ kinh doanh đối với
các loại hình doanh nghiệp, người ta thường phân loại hoạt động này theo quy
mô của khách hàng vay. Theo tiêu thức này, người ta thường chia thành cho
vay khách hàng là DN lớn và cho vay khách hàng là DNNVV. Cùng với quá
trình phát triển, các nhu cầu vay vốn của các chủ thể kinh doanh ngày một đa
dạng và để đáp ứng những nhu cầu này, các loại hình cho vay cũng ngày càng
phong phú, đa dạng hơn. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau, người ta
có thể phân loại cho vay của NHTM đối với khách hàng doanh nghiệp theo
các tiêu thức khác nhau. ứng với mỗi tiêu thức sẽ có những loại cho vay nhất
định. Trong thực tế, chúng ta thường sử dụng các tiêu thức phân loại sau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay, người ta chia thành những loại sau:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống.
Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn trên 12 tháng và
có thể kéo dài đến 60 tháng (tuỳ thuộc quy định của mỗi nước hoặc mỗi ngân
hàng).

Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn dài hơn thời gian cho
vay tối đa đối với cho vay trung hạn. Thông thường các khoản vay dài hạn có
thời hạn trên 60 tháng.
Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay, cho vay được chia thành 2
loại:
Cho vay tín chấp: là các khoản vay mà nghĩa vụ trả nợ của bên vay
hoàn toàn không được bảo đảm bằng bất cứ tài sản hữu hình nào. Loại cho


14

vay này thường chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp (đa phần là doanh
nghiệp lớn) có khả năng tài chính tốt, có tín nhiệm với ngân hàng hoặc được
xếp hạng tín dụng tốt.
Cho vay có tài sản bảo đảm: là các khoản cho vay mà nghĩa vụ trả nợ
của bên vay được bảo đảm bằng một hoặc một số tài sản hữu hình nào đó.
Theo đó, nếu bên vay không thực hiện trả nợ đầy đủ, đúng hạn hoặc khơng có
khả năng hồn trả trước hạn theo thoả thuận giữa các bên thì ngân hàng có
quyền xử lý tài sản bảo đảm (bán, xiết nợ) để thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm cho
khoản vay có thể là tài sản thuộc sở hữu của bên vay hoặc của bên thứ ba,
được thực hiện dưới các hình thức thế chấp, cầm cố và các hình thức khác mà
pháp luật quy định.
Căn cứ vào phương thức cho vay: trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn của
doanh nghiệp và khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng, ngân hàng có thể
thoả thuận với doanh nghiệp về việc lựa chọn các phương thức cho vay sau
đây:
Cho vay từng lần: áp dụng với các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn
từng lần, không thường xuyên. Mỗi lần vay vốn, doanh nghiệp và ngân hàng
lập thủ tục vay vốn theo quy định và ký hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: thường áp dụng với KHDN vay ngắn

hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định. Căn cứ vào kế
hoạch sản xuất kinh doanh và khả năng đáp ứng các điều kiện vay vốn của
doanh nghiệp, ngân hàng và doanh nghiệp xác định một hạn mức tín dụng
duy trì trong kỳ kế hoạch. Trong phạm vi hạn mức tín dụng, mỗi lần vay vốn
doanh nghiệp chỉ phải lập một giấy nhận nợ thay vì phải làm các thủ tục và ký
hợp đồng tín dụng như đối với cho vay từng lần.


15

Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự
án đầu tư phục vụ đời sống. Ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận mức vốn
đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ.
Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ của dự án.
Cho vay hợp vốn (đồng tài trợ): là việc ngân hàng cùng với một hoặc
nhiều tổ chức tín dụng khác do một tổ chức làm đầu mối, cam kết và phối hợp
với nhau để thực hiện việc tài trợ cho một hoặc một phần dự án, phương án
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Phương
thức cho vay này thường áp dụng đối với các khoản vay lớn, vượt quyền phán
quyết của các ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phịng: ngân hàng cùng doanh
nghiệp thoả thuận hạn mức tín dụng dự phịng, thời hạn hiệu lực của hạn mức
dự phịng và mức phí cam kết. Trong thời hạn hiệu lực, ngân hàng cam kết
sẵn sàng cho doanh nghiệp vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng dự
phòng. Đối với phương thức này, cho dù doanh nghiệp không sử dụng hoặc
sử dụng không hết hạn mức tín dụng dự phịng thì vẫn phải trả phí cam kết
tính cho hạn mức tín dụng dự phịng đó. Đây là điểm khác biệt cơ bản của
phương thức cho vay này so với phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với

quy chế cho vay của ngân hàng và đáp ứng được các yêu cầu vay vốn của các
loại hình doanh nghiệp.
1.1.2.3. Vai trị của vốn vay ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển
của các loại hình doanh nghiệp:


16

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vốn vay ngân hàng
ngày càng có vai trị quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp, thể hiện qua những nét chính sau:
Thứ nhất, vốn vay ngân hàng là một nguồn quan trọng để thúc đẩy sự
ra đời và duy trì hoạt động của các DNNVV cũng như mở rộng quy mô, tài
trợ các dự án nâng cao năng lực của các doanh nghiệp lớn. Trong nền kinh tế
thị trường, ngân hàng là một trong những nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho
các chủ thể kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Ngay cả ở các
nước có nền kinh tế phát triển, dù bản thân các doanh nghiệp có lớn đến đâu
thì vốn vay ngân hàng vẫn là khoản lớn nhất trong cơ cấu vốn của các doanh
nghiệp.
ở Việt Nam hiện nay, các DNNN hoạt động chủ yếu dựa vào: vốn Nhà
nước cấp (khi thành lập và cấp bổ sung trong q trình hoạt động), vốn vay
các tổ chức tín dụng (trong đó vốn vay ngân hàng là chủ yếu) và chiếm dụng
vốn của các đối tác (tín dụng thương mại). Với những DNNVV thuộc diện
DNNN, vốn Nhà nước cấp rất thấp, các khoản lợi nhuận giữ lại tái đầu tư, vay
nội bộ hoặc vay bên ngồi bằng các hình thức khác rất hạn chế nên chủ yếu
dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, do q trình tích tụ và tập
trung tư bản mới chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, nguồn vốn chủ
sở hữu còn nhiều hạn chế, thị trường chứng khốn cịn kém phát triển, khả
năng huy động vốn từ phát hành trái phiếu công ty gần như bằng 0 thì vốn từ

ngân hàng (bao gồm vốn vay và vốn góp cổ phần) càng trở nên có ý nghĩa
hơn.
Xét dưới góc độ cung cấp vốn, vai trị của ngân hàng khơng chỉ dừng
lại ở việc tài trợ vốn để hình thành nên các doanh nghiệp (thường thông qua


17

việc góp cổ phần, cho vay dài hạn, cho vay "khởi nghiệp"…) mà còn thể hiện
rõ nét trong việc thường xuyên tài trợ, đáp ứng các nhu cầu vốn của doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động.
Thứ hai, vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn tài trợ chính cho
các doanh nghiệp bao gồm cả lớn hay nhỏ để thực hiện đầu tư chiều rộng và
chiều sâu. Tại Việt Nam, như trên đã nói, đa phần các doanh nghiệp rất lạc
hậu về cơng nghệ. Trong khi đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật và hệ quả của q trình tồn cầu hố kinh tế, sự cạnh tranh sẽ
ngày càng khốc liệt cả về giá, chất lượng, mẫu mã sản phẩm,… Để tồn tại và
phát triển, địi hỏi các doanh nghiệp phải khơng ngừng đổi mới, cải tiến thiết
bị và công nghệ. Muốn làm được điều này, doanh nghiệp phải huy động được
nguồn vốn đủ lớn, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn. Rõ ràng, ở Việt
Nam hiện nay chỉ có ngân hàng mới có khả năng đáp ứng tốt nhất các nhu cầu
trên của doanh nghiệp. Ngân hàng đang là nhà cung cấp vốn quan trọng nhất
giúp các doanh nghiệp thực hiện q trình tái sản xuất mở rộng, ứng dụng
cơng nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Thứ ba, nguồn vốn cho vay của các ngân hàng có tác động mạnh, thậm
chí là định hướng xu hướng phát triển của các doanh nghiệp. Thơng qua việc
điều chỉnh hạn mức tín dụng, lãi suất và/hoặc các điều kiện vay vốn, ngân
hàng có thể mở rộng hay thu hẹp nguồn vốn đầu tư đối với các doanh nghiệp
hoặc thậm chí là cả ngành nghề nào đó. Điều này có thể dẫn đến việc tăng hay

giảm số lượng doanh nghiệp và/hoặc thay đổi cơ cấu doanh nghiệp, thay đổi
cơ cấu ngành nghề từ đó góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Thứ tư, hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần tạo ra thị trường
"đầu vào" và "đầu ra" của các doanh nghiệp. Vai trị góp phần tạo ra thị


18

trường "đầu vào" thể hiện ở chỗ: thông qua các hoạt động cho vay của mình,
ngân hàng có thể thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu
vào của các loại hình doanh nghiệp; đóng vai trò cầu nối cho sự hợp tác giữa
người sử dụng nguyên liệu với các nhà cung cấp đầu vào; trợ giúp đào tạo
nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp,… Vai trị góp phần tạo ra thị trường
"đầu ra" thể hiện ở chỗ: hỗ trợ vốn giúp doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
quảng bá thương hiệu; trợ giúp các doanh nghiệp tiêu thụ đầu ra thêm phát
triển; làm cầu nối đưa các doanh nghiệp cung cấp và các doanh nghiệp tiêu
thụ đầu ra xích lại gần nhau, hợp tác với nhau; cho vay tiêu dùng góp phần
kích cầu, gia tăng sản lượng tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ của các loại hình
doanh nghiệp.
Ngồi ra, xu hướng hiện nay các ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu
vốn của doanh nghiệp như một nghiệp vụ riêng lẻ, mà gắn liền với việc cung
cấp các sản phẩm, dịch vụ khác. Đi liền với việc cung cấp vốn, ngân hàng còn
thể hiện sự gắn kết của mình đối với các doanh nghiệp thông qua các hoạt
động tư vấn (tư vấn lập dự án đầu tư, tư vấn xuất nhập khẩu,…), hỗ trợ đào
tạo và các dịch vụ tài chính khác; góp phần giúp doanh nghiệp nâng cao trình
độ CBCNV, tiết kiệm thời gian và chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.2. Mở rộng cho vay của NHTM đối với KHDN:
1.2.1. Khái niệm:
Hoạt động mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại được xem như việc
tăng trưởng về số lượng và quy mô khách hàng vay vốn, tăng trưởng về doanh

số phát vay và dư nợ bình quân trong kỳ phân tích. Như vậy, mở rộng cho vay
đối với KHDN của một NHTM được xem như là hoạt động nhằm tăng số
lượng KHDN có quan hệ tín dụng với ngân hàng, tăng quy mơ tín dụng đối
với các KHDN thể hiện qua việc tăng doanh số cho vay, tăng dư nợ bình quân
của các KHDN và tăng dư nợ bình quân trên 1 KHDN trong kỳ phân tích.


19

1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng cho vay của ngân hàng đối với doanh
nghiệp:
-

Số lượng doanh nghiệp vay vốn: chỉ tiêu này phản ánh số lượng các
doanh nghiệp có phát sinh vay vốn trong một khoảng thời gian nhất
định. So sánh chỉ tiêu này qua các năm sẽ cho thấy sự tăng hoặc giảm
số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại NH theo thời gian.

-

Tỷ trọng doanh nghiệp vay vốn/tổng số doanh nghiệp trên địa bàn:

Tỷ trọng DN vay
vốn/tổng số DN
trên địa bàn

Số DN vay vốn tại NH x 100

=


(%)

Tổng số DN trên địa bàn NH hoạt động

Chỉ tiêu này cho biết trung bình cứ trong 100 doanh nghiệp trên địa bàn thì có
bao nhiêu doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại ngân hàng. Do đây là số tương
đối nên khi sử dụng chỉ tiêu này phải kết hợp với các số tuyệt đối là Số lượng
doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại ngân hàng và Tổng số DN trên địa bàn
ngân hàng hoạt động để có thể đưa ra những đánh giá chính xác.
-

Doanh số cho vay KHDN: phản ánh tổng số tiền các lần giải ngân của
ngân hàng cho các KHDN vay trong một thời gian nhất định.

-

Doanh số cho vay bình quân 1 KHDN:
=

D.số cho vay b.quân 1 KHDN

D.số cho vay các KHDN
Số KHDN vay vốn

Chỉ tiêu này phản ánh số tiền trung bình mà NH giải ngân cho 1 KHDN trong
1 khoảng thời gian nhất định.
-

Tỷ trọng doanh số cho vay KHDN/tổng doanh số cho vay:


Tỷ trọng d.số cho vay KHDN/
tổng doanh số cho vay

=
=

Doanh số cho vay KHDN x 100
Tổng doanh số cho vay

(%)


20

Chỉ tiêu này cho biết trung bình cứ trong 100 đơn vị doanh số cho vay
có bao nhiêu đơn vị là cho vay KHDN. Thông qua chỉ tiêu này chúng ta biết
được quy mô của doanh số cho vay KHDN trong mối quan hệ với tổng doanh
số cho vay.
-

Dư nợ cho vay KHDN: là tổng số tiền các doanh nghiệp còn nợ ngân
hàng tại một thời điểm nhất định.

-

Tỷ trọng dư nợ KHDN/tổng dư nợ:
Dư nợ KHDN x 100
Tỷ trọng dư nợ KHDN/ tổng dư nợ

=

Tổng dư nợ của NH

(%)

Ngoài ra, khi xem xét hoạt động cho vay người ta còn chú ý đến tỷ
trọng dư nợ ngắn, trung, dài hạn trên tổng dư nợ; tỷ lệ nợ không đủ tiêu chuẩn
trên tổng dư nợ; ...
1.3.

Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng cho vay
của NHTM đối với KHDN

1.3.1. Các nhân tố chủ quan:
Thứ nhất là chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Chiến lược kinh
doanh có ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động tín dụng của 1 ngân hàng
thương mại. Chiến lược kinh doanh quyết định hướng phát triển của mỗi ngân
hàng trong các khoảng thời gian dài hạn nhất định (thường là 5-10 năm), về
định hướng phát triển các nhóm khách hàng mục tiêu, và các mục tiêu cần đạt
tới, qua đó chi phối hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Trong quá trình
thực hiện, chiến lược kinh doanh được cụ thể hoá thành các kế hoạch ngắn
hạn, các bước đi cụ thể với các chính sách về sản phẩm, dịch vụ, chính sách
khách hàng,… và các giải pháp cụ thể để đạt được các mục tiêu đề ra.


21

Thứ hai là chính sách và quy trình tín dụng của ngân hàng: Chính sách
tín dụng của mỗi ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu hoạt
động tín dụng nói chung và cho vay KHDN nói riêng. Chính sách mở rộng
hoặc thu hẹp tín dụng; các định hướng về cơ cấu dư nợ theo ngành kinh tế,

theo thời hạn cho vay, theo đối tượng khách hàng; các quy định về quy trình,
thủ tục cho vay; các quy định về tài sản bảo đảm, lãi suất... sẽ quyết định quy
mô, cơ cấu cho vay theo các tiêu thức khác nhau. Những nhóm khách hàng
được ngân hàng xác định là đối tượng ưu tiên cấp tín dụng sẽ được áp dụng
các điều kiện cho vay ưu đãi hơn về lãi suất, tài sản bảo đảm tiền vay, thủ tục
vay,... và do đó có khả năng vay được nhiều hơn, dễ dàng hơn. Ngồi ra, với
việc đa dạng hố các hình thức vay vốn, ngân hàng sẽ đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu vay vốn của khách hàng, mở rộng hoạt động tín dụng.
Thứ ba là năng lực nhân sự: Có thể nói, con người là yếu tố quyết định
mọi thành bại trong các hoạt động ngân hàng nói chung và đặc biệt là hoạt
động cho vay KHDN nói riêng. Nhân sự cao cấp tham gia vào quá trình hình
thành chiến lược, viết quy trình quy chế của ngân hàng; nhân sự cấp dưới
triển khai chiến lược trong các giai đoạn khác nhau… Nhân sự trình độ cao,
có năng lực và khát vọng sẽ khiến ngân hàng phát triển, hoạt động cho vay đa
dạng và có hiệu quả. Nhân sự kém trình độ, tư cách đạo đức yếu sẽ khiến
ngân hàng suy giảm chất lượng trong hoạt động nói chung và tín dụng nói
riêng. Trong mơi trường cạnh tranh hiện nay, vai trò của nhân sự trong hoạt
động của các ngân hàng ngày càng quan trọng và ngày càng được chú trọng
hơn thông qua cơ chế đãi ngộ cũng như các chính sách đào tạo.
Thứ tư là hoạt động Marketing ngân hàng: Trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động marketing có vai trị rất quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt,
thương hiệu và hình ảnh của mỗi ngân hàng không thể tự dưng được khách


22

hàng nhận diện và lưu vào ký ức nếu không có sự tiếp cận, giới thiệu nhiều
lần thơng qua hoạt động marketting. Thông qua hoạt động này, ngân hàng
giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ với khách hàng; tư vấn cho khách hàng; thực

hiện các hoạt động chăm sóc khách hàng,... Đồng thời, thông qua tiếp xúc
khách hàng, ngân hàng sẽ hiểu thêm về các yêu cầu của khách hàng để có
những sản phẩm phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu đó. Ngân hàng nào thực hiện
các hoạt động maketting tốt hơn sẽ xây dựng được hình ảnh tốt, khẳng định
được thương hiệu, thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Thứ năm là chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng ảnh hưởng lớn
đến hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng tốt là
một tín hiệu "bật đèn xanh" cho ngân hàng mở rộng cho vay. Ngược lại, nếu
chất lượng tín dụng kém tức là tỷ lệ nợ xấu cao, ngân hàng sẽ buộc phải tăng
cường kiểm sốt, áp dụng nhiều hơn các biện pháp phịng ngừa, hạn chế cho
vay,… kết quả là việc vay vốn sẽ rất khó khăn, thậm chí là khơng vay được
ngay cả đối với các khách hàng tốt.
Bên cạnh đó, các nhân tố khác như: việc phân quyền phán quyết tín
dụng, hệ thống thơng tin tín dụng; trình độ cơng nghệ; quy mô, thương hiệu
ngân hàng; thái độ phục vụ, chất lượng dịch vụ, chi phí vốn và lãi suất trong
từng thời kỳ, quy mô vốn điều lệ và nguồn vốn huy động... cũng ảnh hưởng
đến khả năng cho vay nói chung và cho vay KHDN nói riêng của mỗi ngân
hàng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
Nhân tố đầu tiên là khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài
chính được hiểu là khả năng về vốn, tài sản của khách hàng để bảo đảm hoạt
động thường xuyên và thực hiện các nghĩa vụ thanh tốn. Khả năng tài chính
là một trong những điều kiện quan trọng nhất để ngân hàng xem xét cho vay.


23

Thông thường, các ngân hàng đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp
trên các khía cạnh: vốn tự có tham gia phương án vay vốn là bao nhiêu? Kinh
doanh có hiệu quả khơng? Khả năng thanh tốn thế nào? Lịch sử quan hệ tín

dụng có tốt khơng?…
Vốn tự có là yếu tố quan trọng phản ánh khả năng tự chủ tài chính của
mỗi doanh nghiệp và là một trong những căn cứ để ngân hàng chấm điểm tín
dụng, xác định mức cho vay tối đa. Theo quy định của các ngân hàng, muốn
vay vốn thì doanh nghiệp phải đảm bảo một phần vốn tự có tham gia vào dự
án, phương án sản xuất kinh doanh. Đây là biện pháp nhằm chia sẻ rủi ro,
nâng cao ý thức sử dụng vốn có hiệu quả của các doanh nghiệp. Chính vì vậy,
nếu doanh nghiệp có vốn tự có lớn tham gia vào dự án, phương án sản xuất
kinh doanh sẽ thuận lợi hơn trong vay vốn ngân hàng. Ngược lại, nếu doanh
nghiệp có vốn tự có tham gia thấp nhưng nhu cầu đầu tư lớn thì sẽ rất khó để
vay được vốn ngân hàng.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp,
là yếu tố quan trọng khi ngân hàng thẩm định cho vay. Thông thường các
doanh nghiệp có lãi sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận vốn vay do khả năng
hoạt động hiệu quả. Trường hợp lỗ thì phải có giải trình hợp lý và có phương
án khả thi khắc phục lỗ đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Dự án, phương
án sản xuất kinh doanh có lãi tức là vốn đầu tư không bị thâm hụt, rủi ro mất
vốn thấp. Trong phần lớn các trường hợp, đây là điều kiện tiên quyết để ngân
hàng xem xét cho vay.
Xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp là để đánh giá mức độ
đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán và cho điểm độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nào có khả năng thanh toán tốt sẽ hạn chế rủi ro phát sinh nợ
xấu, là một trong những điều kiện để ngân hàng xem xét cho vay.


24

Xem xét lịch sử quan hệ tín dụng của KHDN để đánh giá uy tín cũng
như thái độ và ý thức hoàn trả khoản vay của doanh nghiệp. Trong kinh doanh
bao giờ cũng có tính chu kỳ, việc gặp khó khăn của doanh nghiệp là không

thể tránh khỏi. Tuy nhiên, những doanh nghiệp có ý thức giữ chữ tín, nỗ lực
tìm kiếm các phương án để hồn trả nợ vay sẽ được đánh giá cao hơn các
doanh nghiệp cố tình chây ỳ. Lịch sử quan hệ tín dụng cũng phản ánh khả
năng quản lý tài chính cũng như kinh doanh hiệu quả của khách hàng.
Nhân tố thứ hai là trình độ tổ chức quản lý, khả năng lập và thuyết
trình dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: khả năng tổ
chức quản lý một cách khoa học sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí,
tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt, việc tổ chức
bộ máy theo dõi, quản lý tình hình tài chính đảm bảo thơng tin thường xun
được cập nhật, phản ánh đầy đủ, chính xác tình hình tài chính của doanh
nghiệp theo đúng các quy định của nhà nước về chế độ thơng tin, báo cáo tài
chính sẽ giúp doanh nghiệp tạo được niềm tin với ngân hàng. Bên cạnh đó,
khả năng lập dự án dựa trên những căn cứ chính xác, những dự tính đáng tin
cậy và được thuyết trình một cách mạch lạc, rõ ràng bởi những cán bộ có
trình độ, có kinh nghiệm sẽ giúp doanh nghiệp thuyết phục được ngân hàng
về tính khả thi và hiệu quả của dự án - cơ sở để ngân hàng xem xét cho vay.
Nhân tố thứ ba là tài sản đảm bảo tiền vay: Đây là yếu tố khá quan
trọng trong việc ra quyết định cho vay của các Ngân hàng, đặc biệt là đối với
các KHDN là DNNVV. Ngoại trừ các yếu tố nêu trên như: tính hiệu quả của
phương án vay vốn, tính rõ ràng minh bạch và chắc chắn của dịng tiền kỳ
vọng, uy tín, khả năng quản lý cũng như thị trường của doanh nghiệp… thì
TSĐB tiền vay cũng là 1 phương án dự phịng thu hồi nợ trong trường hợp rủi
ro khơng trả nợ xảy ra.


25

Ngoài ra, các nhân tố khác thuộc về bản thân doanh nghiệp như: trình
độ khoa học cơng nghệ; triển vọng phát triển; uy tín, thương hiệu của doanh
nghiệp trên thị trường,… cũng có ảnh hưởng đến khả năng cho vay của ngân

hàng đối với các doanh nghiệp.
Các nhân tố vĩ mơ như: chính sách kinh tế, ưu đãi vùng miền, luật
pháp, cơ chế thuế, lãi suất, lạm phát, tỷ giá, hạn mức tăng trưởng tín dụng
trong năm, sự ổn định kinh tế vĩ mơ và những ảnh hưởng của tình hình kinh tế
thế giới đều ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay KHDN của các NHTM.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động mạnh mẽ đến sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế, và do đó, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động của các ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay KHDN nói riêng.
Các chính sách ưu đãi vùng, ngành kinh tế đều có ảnh hưởng quan trọng đến
việc ra quyết định mở rộng hay thu hẹp khách hàng mục tiêu của các ngân
hàng thương mại.
Thực tế quá trình đổi mới kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế cùng phát triển đã tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho các loại hình
doanh nghiệp, tạo tính cạnh tranh cùng phát triển qua đó tạo ra lượng khách
hàng lớn, tiềm năng cho hoạt động của các NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật là yếu tố không thể thiếu. Hệ
thống luật pháp đồng bộ, nhất quán, minh bạch và được tuân thủ chặt chẽ sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra trôi chảy
đồng thời hỗ trợ lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong hoạt
động ngân hàng, các quy định pháp luật về thành lập và hoạt động của doanh
nghiệp, thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp; về quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng tín dụng; các quy định về mua bán nợ; thực hiện các
biện pháp bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản làm bảo đảm tiền vay; … có ý


×