Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Một số điều nên và không nên trong giảng dạy toán/5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.41 KB, 3 trang )

Một số điều nên và không nên trong
giảng dạy toán/5

Nên: Luôn luôn quan tâm đến câu hỏi “để làm gì?”
Không nên: Không cho học sinh biết họ học những thứ giảng
viên dạy để làm gì, hay tệ hơn là bản thân giảng viên cũng
không biết để làm gì.
Quá trình học (tiếp thu thông tin, kiến thức và kỹ năng mới) là
một quá trình tự nhiên và liên tục của con người trong suốt cuộc
đời, xảy ra ở mọi nơi mọi lúc (ngay cả giấc ngủ cũng góp phần
trong việc học) chứ không phải chỉ ở trường hay khi làm bài tập
về nhà. Những cái mà bộ não chúng ta tiếp thu nhanh nhất là
những cái mà chúng ta thấy thích, và/hoặc thấy dễ hiểu, và/hoặc
thấy quan trọng. Ngược lại, những cái mà chúng ta thấy nhàm
chán, vô nghĩa, không quan trọng, sẽ bị bộ não đào thải không
giữ lại, dù có cố nhồi vào. Bởi vậy, muốn cho học sinh tiếp thu
tốt một kiến thức nào đó, cần làm cho học sinh có được ít nhất
một trong mấy điều sau: 1) thích thú tò mò tìm hiều kiến thức
đó; 2) thấy cái đó là có nghĩa (liên hệ được nhiều với những hiểu
biết và thông tin khác mà học sinh đã có trong đầu); 3) thấy cái
đó là quan trọng (cần thiết, có nhiều ứng dụng). Tất nhiên 3
điểm đó liên quan tới nhau. Ở đây tôi chủ yếu nói đến điểm thứ
3, tức là làm sao để học sinh thấy rằng những cái họ được học là
quan trọng, cần thiết.
Một kiến thức đáng học là một kiến thức có ích gì đó, “để làm gì
đó”. Nếu như học sinh học một kiến thứ với lý do duy nhất là
“để thi đỗ” chứ không còn lý do nào khác, thì khi thi đỗ xong rồi
kiến thức sẽ dễ bị đào thải khỏi não. Những môn thực sự đáng
học, là những môn, mà kể cả nếu không phải thi, học sinh vẫn
muốn được học, vì nó đem lại sự hiểu biết mà học sinh muốn có
được và những kỹ năng cần cho cuộc sống và công việc của học


sinh sau này. Còn những môn mà học “chỉ để thi đỗ” có lẽ là
những môn không đáng học.
Cũng may là phần lớn giảng viên không rơi vào tình trạng “dạy
môn không đáng học”, mà là dạy môn học đáng học, với một
chương trình gồm các kiến thức đáng học. Tuy nhiên, giảng viên
có thể biết là “học chúng để làm gì”, “vì sao đáng học”, trong
khi mà học sinh chưa chắc đã biết. Chính bởi vậy luôn cần đặt
câu hỏi “để làm gì”, khuyến khích học sinh đặt câu hỏi đó, và
tìm những trả lời cho câu hỏi đó. Một trả lời giáo điều chung
chung kiểu “nó quan trọng, phải học nó” ít có giá trị, mà cần có
những trả lời cụ thể hơn, “nó quan trọng ở chỗ nào, dùng được
vào trong những tình huống nào, đem lại các kỹ năng gì, v.v.”
Tiếc rằng việc giải thích ý nghĩa và công dụng của các kiến thức
cho học sinh còn bị coi nhẹ, không chỉ ở Việt Nam. Có lần tôi
hỏi một lớp đại học ngành toán đang học đại số tuyến tính ở Việt
Nam là “đại số tuyến tính dùng làm gì ?”. Họ trả lời là không
biết. Có lần tôi hỏi một nhóm sinh viên ngành “Life Sciences” ở
Pháp mới học xong môn phương trình vi phân tuyến tính, rằng
họ có biết vị dụ phương trình nào xuất phát từ các vấn đề thực tế
không. Họ cũng trả lời là không hề biết. Nếu như giảng viên giới
thiệu cho học sinh biết các công dụng của những kiến thức họ
được học qua các ví dụ (ví dụ như những phương trình vi phân
tuyến tính xuất hiện thế nào trong các mô hình về tăng trưởng),
thì có thể họ sẽ thấy những cái họ học có nghĩa hơn, đáng để học
hơn, dễ nhớ hơn.
Trong công việc sau này của học sinh khi đã ra trường, thì câu
hỏi “để làm gì” lại càng đặc biệt quan trọng. Mọi hoạt động của
một tổ chức hay doanh nghiệp tất nhiên đều phải có mục đích.
Ngay trong công việc nghiên cứu khoa học, có nhiều người
không làm được kết quả nghiên cứu quan trọng nào (tạm định

nghĩa quan trọng = được nhiều người khác sử dụng) không phải
là vì “dốt” mà là vì “không biết lựa chọn vấn đề để nghiên cứu”,
mất thời giờ nghiên cứu vào những cái ít ý nghĩa, ít ai quan tâm
đến. Bởi vậy học sinh cần làm quen với việc sử dụng câu hỏi
“để làm gì” từ khi đi học, như một vũ khí lợi hại trong việc chọn
lựa các quyết định của mình.

×