Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cách học để đạt điểm cao tác phẩm văn xuôi tự sự doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.9 KB, 24 trang )

Cách học để đạt điểm cao tác phẩm văn xuôi tự sự
Tác phẩm văn xuôi tự sự chiếm tỉ lệ lớn trong các bài học của các em học sinh ôn
thi tốt nghiệp THPT và thi vào đại học. Bài viết sau giúp các em học và có điểm
thi cao về văn xuôi tự sự.
1. Vấn đề tóm tắt cốt truyện tác phẩm văn xuôi tự sự
Tự sự là phương thức tái hiện đời sống qua các sự kiện, biến cố và hành vi con
người trong toàn bộ tính khách quan của nó. Ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà
văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động của con người, nhà văn kể lại, tả
lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện
thực được phản ánh trong tác phẩm là một thế giới tạo hình xác định đang tự tồn
tại, phát triển, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của người viết.



Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư tưởng lẫn
nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt chính xác cốt truyện của nó. Có thể
xem tóm tắt cốt truyện là yêu cầu có tính chất tạo nền, là cơ sở để từ đó tìm hiểu
các vấn đề khác của tác phẩm. Cách tóm tắt cốt truyện thể hiện mức độ thâm nhập
tác phẩm, năng lực bao quát và khả năng diễn đạt cô đúc, gãy gọn của người tóm
tắt.
Hiểu một cách ngắn gọn, cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo
yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định của nhà văn. Nhờ cốt truyện, nhà văn thể
hiện sự hình thành, đặc điểm của mỗi tính cách cũng như sự tác động qua lại giữa
các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ
năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt
truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc.
Mỗi cốt truyện thường bao gồm các thành phần sau:
- Trình bày: giới thiệu thời kì lịch sử, khung cảnh cụ thể của sự việc.
- Khai đoan: nêu tình huống, vấn đề nảy sinh để người đọc chú ý theo dõi.
- Phát triển: diễn tả sự tiến triển của hành động, của tính cách, của mâu thuẫn,
xung đột.


- Đỉnh điểm (hoặc cao trào): hành động, tính cách, mâu thuẫn được phát triển đến
độ cao nhất, căng thẳng nhất.
- Kết cục (hoặc mở nút): giải quyết, kết thúc một quá trình phát triển của mâu
thuẫn.
Đó là kể một cách đầy đủ, theo trình tự thông thường. Tuy nhiên, không phải bất
cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các thành phần như vậy. Mặt khác, trình tự
các thành phần ấy cũng biến hóa sinh động như cuộc sống muôn màu và tùy theo ý
đồ nghệ thuật của nhà văn.
Từ khái niệm xác định như trên, muốn tóm tắt được cốt truyện một tác phẩm tự sự,
trước tiên cần đọc kĩ tác phẩm và trả lời được những câu hỏi sau:
- Hoàn cảnh xã hội, thời kì lịch sử mà tác phẩm phản ánh, tái hiện?
- Chủ đề của tác phẩm?
Cách tổ chức cốt truyện của nhà văn bao giờ cũng gắn với sự thể hiện có hiệu quả
chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Vì thế, hiểu chủ đề, ý đồ tư tưởng của nhà văn
chúng ta mới định hướng đúng dòng phát triển của cốt truyện cũng như nội dung
cụ thể, trực tiếp của tác phẩm.
- Nhân vật chính của tác phẩm và các bước phát triển của tính cách, của số phận
nhân vật ấy? Các chi tiết, sự kiện quan trọng trong tác phẩm tác động tới cuộc đời
nhân vật?
Trên cơ sở đọc kĩ tác phẩm, nắm vững kiến thức cơ bản theo yêu cầu trên mới có
thể đi đến xây dựng văn bản tóm tắt. Một văn bản tóm tắt cốt truyện thông thường
có hai bước chính sau:
- Giới thiệu ngắn gọn về xuất xứ tác phẩm, về đề tài và chủ đề của tác phẩm.
- Tóm tắt các bước phát triển của dòng cốt truyện dựa vào những sự kiện nổi bật,
những chặng đường diễn biến của tính cách, số phận các nhân vật chủ yếu.
Khi tóm tắt cốt truyện, cần chú ý vị trí của các nhân vật và mối quan hệ tương tác
giữa chúng. Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, có vai trò
chi phối đối với các nhân vật khác và góp phần chủ yếu thể hiện nội dung, bộc lộ
chủ đề của tác phẩm. Bởi thế, cần quan tâm đến những bước ngoặt trên đường đời
nhân vật chính. Chẳng hạn, cốt truyện của truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) xoay

quanh trục hai nhân vật điển hình Chí Phèo – Bá Kiến và diễn biến mối quan hệ
giữa hai nhân vật này. Tóm tắt cốt truyện của Chí Phèo, phải dựa vào lai lịch, thân
phận của Chí từ một đứa bé bị bỏ rơi đến đi ở, làm thuê rồi vô cớ bị cụ Bá đẩy đi ở
tù, dựa vào những lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau khi ở tù về để thấy được quá
trình tha hóa tất yếu của Chí khi gặp phải kẻ thống trị xảo quyệt, gian ngoan như
Bá Kiến, thấy được số phận bi thảm của kẻ trượt quá xa khỏi xã hội loài người.
Mặt khác, khi tóm tắt truyện ngắn này, cần đặc biệt chú ý đến thời điểm Chí Phèo
tình cờ gặp Thị Nở, được người đàn bà ấy thương yêu, chăm sóc. Người cố nông
lương thiện với những ước muốn bình dị bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỉ dữ
Chí Phèo sống dậy… Năm ngày đêm được làm người… Rồi Thị Nở đột ngột cự
tuyệt chung sống. Sự kiện này khiến Chí Phèo vỡ lẽ, tự ý thức ra tấn bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người ở mình để từ đó đi đến hành động trả thù quyết liệt cuối tác
phẩm.
Cần chú ý rằng các sự kiện, bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật không phải bao
giờ cũng được bố cục theo trình tự thời gian bởi phụ thuộc vào cách tổ chức nghệ
thuật của nhà văn. Ví dụ, Kim Lân mở đầu Vợ nhặt bằng miêu tả cuộc trở về lạ
lùng của Tràng với người phụ nữ lạ tới căn nhà tồi tàn cuối xóm ngụ cư lúc cuối
chiều. Sự xuất hiện của người phụ nữ đi sau Tràng đã khuấy động không khí tối
sầm của xóm ngụ cư nghèo khổ, khiến mọi người phải chú ý, ngạc nhiên. Rồi
chính Tràng cũng ngạc nhiên với việc mình đã có vợ. Tại sao có cuộc trở về ấy?
Tại sao có những ngạc nhiên ấy? Đặt người đọc trước sự chờ đợi, từ đó, như để
giải đáp, Kim Lân mới ngược dòng thời gian kể lại hai lần tình cờ gặp gỡ, tầm phơ
tầm phào mà được vợ của Tràng. Cốt truyện được nhà văn tổ chức làm sao thể
hiện có hiệu quả nghệ thuật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, làm sao lôi cuốn, hấp
dẫn được người đọc. Đặc biệt, cách tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm thường
gắn với sự lựa chọn điểm nhìn, lựa chọn nhân vật trần thuật. Nguyễn Trung Thành
không đóng vai người kể chuyện để dựng lại trang sử bi hùng của làng Xô Man
mà dành cho cụ Mết – một già làng, chính người trong cuộc - kể lại cho con cháu
nghe (truyện ngắn Rừng xà nu).
Nguyễn Thi cũng chọn tình huống người lính trẻ Việt bị thương nặng sau trận

đánh ác liệt, lúc mê, lúc tỉnh trên đường bò về đơn vị, hồi tưởng lại những câu
chuyện, những người thân trong gia đình mình (truyện ngắn Những đứa con trong
gia đình). Đó là biện pháp xóa nhòa khoảng cách giữa người trần thuật với nội
dung câu chuyện được trần thuật, đem đến cho người đọc cảm giác gần gũi, tin
cậy. Gặp những cốt truyện như thế, người tóm tắt có thể tháo dỡ, sắp xếp, tổng
hợp lại theo trình tự thời gian. Mặt khác, cũng có thể bám vào bố cục tác phẩm mà
tóm tắt. Dù bằng cách nào cũng cần làm nổi bật được các sự kiện quan trọng, các
chặng đường phát triển của nhân vật chính và mối liên kết chặt chẽ giữa hai phía
đó để giúp người đọc hình dung ra chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.
Để xây dựng văn bản tóm tắt tác phẩm, điểm đáng nói nữa là rèn luyện về lời văn.
Độ dài, ngắn của một văn bản tóm tắt tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể. Song nhìn
chung, lời văn tóm tắt cần gọn gàng, súc tích, hàm chứa lượng thông tin cao.
Tránh lối viết chỉ một ý mà quá nhiều câu, dùng nhiều từ đồng nghĩa ở một mệnh
đề. Bài tóm tắt nên có ngắt đoạn, chuyển ý để người đọc nắm được các phần tác
phẩm, nắm được diễn tiến của dòng cốt truyện.
2. Vấn đề tình huống và phân tích chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
2.1. Vấn đề tình huống.
Trong văn xuôi tự sự tình huống có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể
hiện tính cách và số phận nhân vật, chủ đề tác phẩm.
Có thể xem tình huống là loại hoàn cảnh bất bình thường, hoàn cảnh “có vấn đề”
đòi hỏi con người trong đó phải xử lí, phải vượt qua. Khi được hoặc bị đặt trong
tình huống, con người ta mới bộc lộ tính cách, bản chất của mình một cách đầy đủ,
chân thực nhất. Nếu cuộc sống là một dòng sông thì tình huống là các xoáy nước.
Nó chính là phần đậm đặc nhất của cuộc sống, nơi thể hiện tập trung bản chất một
xã hội, một thời đại.
Đối với thể loại truyện ngắn, tình huống càng có ý nghĩa quan trọng. Nhà văn
Nguyễn Kiên, một cây bút truyện ngắn khá tiêu biểu, từng viết: “Truyện ngắn
cũng có tính cách và số phận như truyện dài. Nhưng vì khuôn khổ của truyện ngắn
bị hạn chế nên không thể nói nhiều, nói đầy đủ như truyện dài. Do đó, điều quan
trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được cái tình thế tự nó bộc lộ ra nét

chủ yếu của tính cách và số phận, tự nó đặc trưng cho một hiện tượng xã hội. Theo
tôi hiểu thì mỗi truyện ngắn chỉ chứa đựng một tình thế như thế nào đó đã xẩy ra
trong đời sống, nếu có hai tình thế trở lên, truyện ngắn sẽ bị phá vỡ”. Nhà văn Nga
A.Tôn xtôi cũng từng khẳng định tính chất cô đúc, chắt lọc của truyện ngắn:
“Truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật khó khăn bậc nhất. Trong các tác phẩm
thể tài lớn, chúng ta có thể “dọn” cho độc giả “no nê” với những món ăn đại loại
như miêu tả cho thật sinh động, đối thoại cho thật sắc… Còn trong truyện ngắn, tất
cả như trong bàn tay anh. Anh phải thông minh, như anh đã phải hiểu biết. Bởi lẽ,
hình thức nhỏ không có nghĩa là nội dung không lớn lao. Anh phải biết nói một
cách ngắn gọn, như nhà thơ chỉ được làm thơ tứ tuyệt”(12). Như thế, tình huống
đối với một truyện ngắn cũng giống như cái tứ đối với một bài thơ.
Nó chính là cốt lõi của nội dung phản ánh, là cơ sở để tổ chức cốt truyện, xây
dựng hình tượng. Trong văn xuôi tự sự, xây dựng tình huống dường như thành
nhiệm vụ tất yếu của nhà văn, trở thành nơi thử thách tài nghệ của nhà văn. Bởi
thế, phân tích tác phẩm thuộc thể loại này, điều quan trọng là phải xác định, khái
quát được tình huống và ý nghĩa của nó. Mối quan hệ giữa tình huống với nhân vật
thể hiện mối tương quan giữa hoàn cảnh và tính cách. Hoàn cảnh càng có tính điển
hình, càng có độ gay cấn thì càng dễ nổi bật tính cách điển hình của nhân vật.
Truyện ngắn Đôi mắt (Nam Cao) xây dựng trên tình huống cuộc gặp gỡ giữa hai
người bạn văn nơi làng quê tản cư ở những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Tình huống ấy tạo cho Nam Cao sự thuận lợi để thể hiện một cách sinh
động, hấp dẫn vấn đề “đôi mắt”. Toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến, lịch sử
dân tộc chuyển sang thời kì mới đặt ra trước văn nghệ sĩ chúng ta vấn đề nhận
đường.
Giờ đây nghệ thuật sẽ tìm đề tài, cảm hứng ở đâu? Khi đem nghệ thuật đến với đời
sống kháng chiến hàng ngày của quần chúng công nông binh thì có hạ thấp nghệ
thuật xuống không, có biến nghệ thuật thành tuyên truyền thô thiển và làm khô cằn
đi cảm hứng sáng tạo hay không? Trước các câu hỏi này, hàng ngũ văn nghệ sĩ đã
diễn ra sự phân hóa. Đối với những người vốn xuất thân từ quần chúng, đã hiểu
được bản chất và sức mạnh của quần chúng thì không khó trả lời. Họ sẵn sàng

đem nghệ thuật đến với công nông binh, tìm ở hiện thực kháng chiến nguồn đề tài,
cảm hứng sáng tạo bất tận cho mình. Nhưng đối với loại nghệ sĩ vốn xuất thân từ
thành phần lớp trên, chưa có nhiều dịp tiếp xúc với quần chúng thì không khỏi băn
khoăn, lúng túng. Thậm chí trong số này có kẻ đã lạc đường. Giữa lúc ấy, Đôi mắt
ra đời như lời giải đáp kịp thời và đúng đắn. Lần tìm đến nơi gia đình Hoàng tản
cư của Độ đã trở thành một “cơ hội” để người bạn cũ ấy “tuôn ra” bao điều bực
bội chất chứa bấy lâu nay. Cuộc trò chuyện ở buổi chiều rồi buổi tối sau đó giữa
Hoàng và Độ trở thành nội dung chính của thiên truyện Đôi mắt và nhờ tình huống
này bản chất Hoàng được bộc lộ một cách tự nhiên, chân thực nhất.
Cần thấy rằng Nam Cao thật khéo léo khi dựng đối thoại, tạo không khí truyện. Ở
đây, Nam Cao đã “giữ miệng” Độ lại, để anh rất ít nói (thỉnh thoảng quá lắm anh
mới rụt rè đưa ra vài nhận xét). ít nói không phải vì đồng ý với các nhận xét của
Hoàng mà trái lại Độ ngày một hiểu ra rằng giá mình có nói đi nữa cũng chẳng thể
nào giúp anh ta thay đổi trong lúc này. Chính vì thế mà Hoàng càng tự nhiên, thoải
mái, càng coi đây là dịp trút ra bao điều tức tối, hằn học về dân quê. Nam Cao đã
không đứng từ bên ngoài mà bàn luận về Hoàng, cũng không lạm dụng sự đánh
giá của Độ mà cứ để Hoàng tự bộc lộ trước mắt người đọc. Chúng ta như được
tham dự vào câu chuyện, được nghe Hoàng nói và tự hiểu ra bản chất con người
ấy… Tình huống độc đáo của truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân) được gửi gắm ngay
từ cách đặt tên truyện. Một chuyện vốn rất nghiêm túc, vốn được xem là một trong
những công việc trọng đại nhất của đời một con người mà lại diễn ra như một trò
đùa.
Một anh chàng đã đứng tuổi, nghèo túng, lại xấu trai, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến
giờ chưa từng được một người con gái nào thèm để ý đến thế mà bỗng dưng được
một người phụ nữ theo về nhà làm vợ hẳn hoi. Càng lạ hơn nữa là Tràng nhặt vợ
về giữa những ngày đói kém, giữa khi cái chết vì đói đang rập rình đe dọa. Kim
Lân đã đem đến cho người đọc một câu chuyện nên vợ nên chồng quả là xưa nay
chưa từng có. Chính cái đói và chỉ vì cái đói mà người phụ nữ nọ đành “theo
không” Tràng về chứ đâu phải vì yêu hay vì nghĩa. Với câu chuyện này và với một
số chi tiết nghệ thuật đầy ám ảnh Vợ nhặt đã tái hiện sinh động những ngày tháng

đói khổ một đi không trở lại trong lịch sử dân tộc. Nhưng điều làm nên “thần bút”
Vợ nhặt đâu chỉ có thế. Một câu chuyện nên vợ nên chồng hoàn toàn tình cờ, ngẫu
nhiên nhưng lại mang màu sắc tự nhiên, tất nhiên, lại toát lên tính tất yếu - đó là
cảm nhận mà Vợ nhặt đem tới cho người đọc. Chúng ta nhận ra rằng những con
người nghèo khổ trong hoàn cảnh ấy tìm đến nhau, cưu mang nhau như một lẽ tự
nhiên. Họ đã cư xử đúng với đạo lí, tình thương ngàn đời của người Việt. Đây là
chuyện lá rách ít đùm lá rách nhiều. Mẹ con Tràng nào có no đủ gì, vẫn đang lo
lắng hàng ngày với cái đói, nhưng vẫn mở rộng lòng cưu mang người phụ nữ kia.
Viết Vợ nhặt, Kim Lân đã khẳng định được rằng trong cái đói người ta càng khát
khao sự sống, những người dân lao động, dù trong hoàn cảnh đói khổ đến mấy,
vẫn sẵn lòng che chở, đùm bọc nhau, vẫn biết vui với cái gì mình đang có và cứ
lấp lánh niềm tin vào tương lai.
Khi phân tích tình huống cần phải chú ý tới hiệu quả nghệ thuật của nó đối với
việc thể hiện chủ đề tác phẩm, tư tưởng của nhà văn. Chúng tôi muốn nói rõ thêm
điều này bằng truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – một
tác phẩm hay về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Lòng yêu quê hương đất nước, truyền thống quật
cường bất khuất của con người miền đất này được Nguyễn Thi khai thác, thể hiện
từ góc độ gia đình. Đối với mỗi con người Việt Nam ta, truyền thống gia đình,
dòng họ vốn thành điều rất máu thịt, thiêng liêng. Nó vừa là ý thức vừa là tâm thức
trong đời sống, trong hành xử. Bởi thế, đọc Những đứa con trong gia đình ta cảm
thấy chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã thấm hòa trong đời sống thường ngày của
mỗi thành viên, mỗi cá nhân. Chuyện cầm súng của hai chị em Chiến, Việt cứ tự
nhiên như cuộc sống đã thế và phải thế.
Viết truyện ngắn này, nhà văn chủ yếu dùng thủ pháp hồi tưởng của chính người
trong cuộc, đã trao quyền trần thuật cho nhân vật Việt. Điều này lại diễn ra trong
tình huống sau trận đánh ác liệt, Việt bị thương nặng, bị lạc đơn vị và đang cố sức
tìm về với đồng đội. Người lính trẻ ấy cứ lúc mê thiếp đi, lúc tỉnh và chập chờn
nhớ lại những kỉ niệm trong gia đình, nhớ những người thân. Tạo tình huống này,
chọn điểm nhìn trần thuật này, Nguyễn Thi có thể tổ chức kết cấu tác phẩm khá

thoải mái, linh hoạt theo ý đồ của mình. Câu chuyện không cần kể, cần nhớ theo
trình tự thời gian. Những hồi tưởng của Việt cứ đứt nối, tưởng chừng rời rạc, linh
tinh nhưng kì thực lại được chọn lọc, sắp xếp theo ý đồ của nhà văn.
2.2. Phân tích chi tiết trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
Một tác phẩm văn xuôi hay lắm khi ở chi tiết sống động.
Trong một tác phẩm thường có nhiều chi tiết nhưng không phải mọi chi tiết đều có
giá trị ngang bằng nhau. Có các chi tiết có thể lướt qua hoặc bỏ đi cũng không sao.
Có các chi tiết thể hiện thần thái nhân vật, cô đọng nội dung, giá trị của tác phẩm,
như một giọt nước mà qua đó có thể thấy cả cốc nước. Bởi thế, người đọc văn,
phân tích văn phải biết lướt qua những chi tiết vụn vặt, ngẫu nhiên, đồng thời nắm
bắt lấy và tập trung phân tích các chi tiết tiêu biểu, đắt giá nhất. Làm được điều
này hay không chính là một căn cứ để đánh giá năng lực cảm thụ tác phẩm, đồng
thời đánh giá phương pháp, kĩ năng của người viết. Nhân đây, cũng xin nói với các
bạn rằng một bài viết hay (cũng như một ca sĩ hát) phải có chỗ đậm chỗ nhạt, chỗ
thăng chỗ trầm chứ không nên đều đều, đơn giọng. Muốn đạt đến điều này đương
nhiên cần nhiều điều kiện, yếu tố, cần phải luyện bút công phu.
Trong đó có một đòi hỏi: người viết phải ý thức rõ đâu là điểm chính, biết dừng lại
phân tích sâu một số chỗ mình tâm đắc. Đã không ít người viết về Vợ chồng A
Phủ, phân tích quá trình trỗi dậy của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị vào
đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình nhưng chưa mấy ai cảm nhận hết ý
nghĩa của hành động Mị uống rượu trong đêm ấy. Tiếng sáo gọi bạn tình ngoài
đầu núi vọng tới bắt đầu đánh thức nỗi nhớ hạnh phúc thời tuổi trẻ, ý niệm về thời
gian trong người phụ nữ đang sống trong đắng cay, bất hạnh. Mị thiết tha bổi hổi
rồi ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo. Khi từ trong buồng bước ra
(căn buồng chật hẹp, tối tăm, chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay bấy lâu nay
giam hãm tuổi xuân của người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa) Mị thấy xung quanh mình
đang rất ồn ào. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, đang
đánh chiêng, ốp đồng, nhảy múa và lại uống rượu bên bếp lửa. Nhìn mọi người
như thế, Mị nghĩ “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu”. Cô lén lấy hũ rượu, uống ực
từng bát.

Cần lí giải hành động uống rượu của Mị lúc ấy thế nào? Đó chính là một phản ứng
từ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy. Là con người, ai chẳng có quyền uống chút
rượu ngày Tết. Người ta uống thì Mị cũng phải uống để chứng tỏ mình còn là một
con người. Thế là ý thức về quyền làm người, quyền bình đẳng đã trở lại trong Mị.
Mị uống đến thế để dằn nén xuống nỗi uất ức và cả khát vọng sống đang trỗi lên
trong mình. Mị uống đến thế cho bõ tức, bõ hờn, uống như sự trả thù lũ người độc
ác kia. Chi tiết trong văn chương là thế – vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều ý
nghĩa. Lắm khi qua một chút bên ngoài ta phải đọc ra thế giới nội tâm của nhân
vật.
Chúng ta cũng có thể nói như trên chẳng hạn với chi tiết Tràng khoe chai dầu với
người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân). Bấy lâu nay tối đến mẹ con Tràng nào có dầu
mà thắp đèn. Nhưng hôm nay được một người phụ nữ theo mình về nhà làm vợ,
người đàn ông này mới quyết định mua hai hào dầu trên chợ tỉnh. Vậy mà Tràng
đâu đã dám nói với người vợ nhặt. Mãi đến khi đi đến chỗ khuất, không có ai nhìn
theo nữa, Tràng mới chậm bước lại, đi sát người vợ nhặt rồi giơ cái chai dầu vẫn
cầm lăm lăm một bên tay lên khoe…
Kim Lân đã miêu tả hành động, những lời trêu đùa của Tràng và người vợ nhặt khi
ấy bằng đôi mắt nheo cười thật hóm hỉnh. Phải thấu hiểu, trân trọng niềm vui hạnh
phúc bình dị ở người dân nghèo đến chừng nào mới viết nổi chi tiết ấy, mới để
Tràng chặc lưỡi nói: “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ
chưa tối đã rúc vào ngay, hì hì…”. Cũng thế, không sống sâu sắc với nhân vật của
mình, làm sao diễn tả được cảm giác: “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy
ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó mơn man, ôm ấp khắp da thịt Tràng, tựa hồ như
có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.” Khi phân tích chi tiết, cần đặt nó trong dòng
cốt truyện, trong nội dung phản ánh của tác phẩm để xác định đúng vị trí, ý nghĩa
của chi tiết ấy. Cảm nhận được giá trị của các chi tiết tiêu biểu rồi thì phải tập
trung phân tích, bàn luận về nó.
3. Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
Trong thực tế học văn, làm văn, khá nhiều học sinh còn lúng túng khi gặp kiểu bài
phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự. Lúng túng này do nhiều nguyên nhân. Có

phần do cách đọc và nắm tác phẩm để dẫn chứng khi làm bài. Có phần do chưa
thuần thục phương pháp, kĩ năng, chưa biết tìm ra các vấn đề phân tích. Lại có
phần bởi chưa thực hiểu mục đích, ý nghĩa của việc mình đang làm. Việc gì cũng
thế, khi chưa thật hiểu mục đích công việc thì khó có thể làm tốt, làm một cách có
ý thức cao được.
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi mang
chở nội dung phản ánh, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về
con người, về nhân sinh của nhà văn. Bởi thế, phân tích nhân vật trở thành con
đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm,
để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng
thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho
một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó.
Không phải không còn những người chưa hiểu thật đầy đủ rằng nhân vật trong tác
phẩm văn học là “con đẻ”, là sản phẩm sáng tạo của một nhà văn nhất định. Nó là
kết quả của một quá trình khám phá, chiêm nghiệm. Nó là sản phẩm từ sự tổng
hợp, nhào nặn. Cũng do thế, nhân vật mang dấu ấn của cá nhân sáng tạo ra nó.
Không ít người còn đối chiếu máy móc nhân vật với hiện thực lịch sử, với sự thực
cuộc đời để đánh giá đúng, sai, hay, dở mà quên đi một sự thực khác: nhân vật có
thể mang màu sắc “siêu thực”, có thể đi lối riêng theo cách dẫn dắt, theo ý đồ và
bút pháp nghệ thuật của nhà văn. Phân tích nhân vật còn để nhận ra tài năng, đặc
điểm bút pháp của nhà văn, để thêm thú vị khi thưởng thức một giá trị thẩm mĩ.
Việc phân tích một nhân vật cần được soi tỏ dưới các ánh sáng trên. Khi phân tích
một nhân vật phải vươn lên khái quát được các giá trị trên. Nhắc lại mấy điều này,
chúng tôi xin lưu ý các bạn hai nhược điểm mà không ít người phân tích nhân vật
thường mắc phải:
Thứ nhất, biến bài phân tích nhân vật thành một bài miêu tả, ca ngợi một con
người nào đó ngoài đời (nhất là khi phân tích loại nhân vật chính diện có các phẩm
chất, vẻ đẹp cao quí). Quá trình phân tích một nhân vật văn học cần gắn với sự
cảm thụ, đánh giá bút pháp nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Chữ phân tích ở đây
không nên hiểu chỉ là một thao tác nghị luận (chỉ ra các đặc điểm của nhân vật) mà

bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá bằng cảm thụ, suy nghĩ của mình.
Thứ hai, bài phân tích nhân vật chỉ dừng ở cấp độ cụ thể mà không nâng lên tầm
khái quát để rút ra tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Nên nhớ rằng khi xây dựng
một nhân vật (nhất là nhân vật chính) bao giờ nhà văn cũng muốn gửi gắm qua đó
một cách nhìn nhận về xã hội, một quan niệm nhân sinh. Nếu phân tích nhân vật
mà chỉ dừng ở nhân vật nghĩa là chưa ý thức được vị trí của nhân vật ấy trong chủ
đề, tư tưởng của tác phẩm.
Bây giờ chúng ta cùng nhau xác định phân tích nhân vật là phân tích những gì.
Một nhân vật văn học thành công cũng như một con người sinh động ngoài đời
vậy. Đó là “con người này” trong sự phân biệt với con người khác. Nó có tính
cách riêng, số phận riêng không thể lẫn. Bởi thế, suy cho cùng, phân tích một nhân
vật làm sáng tỏ một tính cách, một số phận. Song vấn đề là nhà văn không trực
tiếp bước vào tác phẩm mà nói lên điều ấy. Tính cách, số phận nhân vật hiện lên
sinh động trong tác phẩm qua nhiều phương diện cụ thể. Đó chính là những
phương diện người đọc, người phân tích cần lưu ý.
3.1. Lai lịch
Đây là phương diện đầu tiên góp phần hình thành đặc điểm tính cách, chi phối con
đường đời của nhân vật cũng như mục đầu tiên ta thường khai trong bản “Sơ yếu lí
lịch” là thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình vậy. Hoàn cảnh mồ côi từ nhỏ,
hành vi vô giáo dục khi ở với người bác họ (để rồi bị đuổi ra khỏi nhà) cùng
những thành tích bất hảo trong cuộc sống lang thang hè đường xó chợ của Xuân
Tóc Đỏ đã góp phần tạo nên tính cách lưu manh, láu lỉnh của y sau này (Số đỏ Vũ
Trọng Phụng). Ngay từ khi được sinh ra đã bị vứt khỏi lề cuộc sống, được người ta
nhặt về nuôi rồi hết đi ở cho nhà này sang nhà khác, không bà con thân thích,
không thước đất cắm dùi – hoàn cảnh xuất thân ấy là một nguyên nhân tạo nên số
phận cô độc thê thảm của Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao). Vốn xuất thân từ tầng
lớp trên, quen hưởng cuộc sống giàu sang, lại ít có dịp gần gũi với quần chúng lao
động nên văn sĩ Hoàng (Đôi mắt Nam Cao) dễ có cái nhìn đen tối, khinh miệt đối
với người nông dân kháng chiến. Tính cách nhân vật được lí giải một phần bởi
thành phần xuất thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện sinh hoạt trước đó.

3.2. Ngoại hình
Trong văn học, nhà văn miêu tả ngoại hình nhân vật thường với hai mục đích. Thứ
nhất, để cá thể hóa nhân vật, nghĩa là tạo ấn tượng riêng về nhân vật ấy (không thể
lẫn vào các nhân vật khác). Thứ hai, qua vẻ bề ngoài mà phần nào hé mở tính cách,
bản chất của nhân vật ấy. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét khắc họa
chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của
một nhân vật nào đó. Một nhân vật thành công bao giờ cũng là “con người này”
khác với con người kia, con người nọ… Miêu tả nhân vật Hoàng – một kiểu trí
thức trưởng giả, không yêu một ai, chẳng chịu làm việc gì, chỉ có tài chửi đổng –
Nam Cao đâu quá kĩ lưỡng, rườm rà. Qua mắt Độ, nhà văn miêu tả: dáng người to
béo, bước đi khệnh khạng, vừa đi vừa như bơi hai cánh tay ra hai bên vì những
khối thịt ở dưới nách kềnh ra, bàn tay múp míp, bộ mặt đầy đặn và trên mép một
cái vành móng ngựa ria trông như chiếc bàn chải nhỏ. Chừng ấy chi tiết đủ giúp
người đọc hình dung rõ một con người kiểu cách, luôn tỏ ra bề trên, một lối sống
sung túc, dư thừa giữa lúc nhân dân đang gian khổ kháng chiến. Trái lại, khuôn
mặt với đôi gò má cao đầy tàn hương, bàn tay có những ngón rất to ở nhân vật
Đào (Mùa lạc Nguyễn Khải) đã “nói” với người đọc về số kiếp “quân tử gian nan,
hồng nhan vất vả”, về những năm tháng long đong, nhiều sương gió của người phụ
nữ này. Trong truyện ngắn Vi hành, mượn lời người con trai (đôi nam nữ thanh
niên người Pháp đi trên toa xe điện ngầm), tác giả Nguyễn ái Quốc đã phác họa
chân dung Khải Định: “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn
cái mặt bủng như vỏ chanh ấy đấy à?”. Các chi tiết này vừa có giá trị tả thực về
Khải Định vừa ám chỉ thật sâu cay tính cách hèn kém, chẳng có mấy thiên lương
của ông vua bù nhìn An Nam. Đến với Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), chúng ta ấn
tượng bởi hình ảnh một cô gái lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Nhà
văn đặc tả một hình dáng khi nào cũng cúi mặt nhìn đất mà không dám ngẩng cao,
nhìn xa một chút. Một khuôn mặt xinh đẹp là thế mà mang nỗi u sầu thăm thẳm.
Chi tiết này khiến ta ấn tượng với thân phận tủi nhục của người con dâu gạt nợ.
Khi cảm nhận, phân tích ngoại hình nhân vật cần thấy rằng phần lớn trường hợp,
đặc điểm tính cách, chiều sâu nội tâm được thống nhất với vẻ bề ngoài. Song cũng

có những trường hợp cái bên trong và vẻ bên ngoài của nhân vật “trật khớp”, thậm
chí trái ngược nhau. Bên trong cái thân hình xấu xí, dị dạng của Quadimôdô (nhân
vật trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà của Vichto Huygô) lại là một tâm hồn cao
thượng, trái tim thánh thiện. Lão Hạc (truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao) thân
hình nhỏ thó, bộ mặt nhăn nheo như quả trám nhưng lòng tự trọng, tình thương
yêu thì lớn lao, cao cả ít ai bằng.
Trong phân tích nhân vật, cần qua các chi tiết ngoại hình mà “đọc” đúng nội tâm,
bản chất của đối tượng.
3.3. Ngôn ngữ
Qua lời ăn tiếng nói, qua cách dùng từ, giọng điệu của một người, chúng ta có thể
nhận ra nghề nghiệp, trình độ văn hóa, nhận ra tính cách của con người ấy. Ngôn
ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là
mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều
nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. Người ta hay nói tới tài cá thể hóa
ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan trong truyện ngắn trào phúng. Nhân
vật của ông quả ai nói ra người ấy, đúng với nghề nghiệp, bản chất xã hội của họ.
Nhắc tới nhân vật cố Hồng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng chúng ta nhớ ngay đến câu gắt đầu cửa miệng “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”
mặc dầu ông ta chẳng biết cho ra đầu ra đũa việc gì cả. Cho đến khi trở thành “nhà
cải cách thẩm mĩ”, “đốc-tờ Xuân”, “giáo sư quần vợt”, “cố vấn báo Gõ mõ”…
được cả xã hội thượng lưu thành thị trọng vọng, Xuân Tóc Đỏ vẫn đầu cửa miệng
mấy chữ “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì”. Điều ấy chứng tỏ cái bản chất lưu manh, vô
học của y không sao gột rửa nổi. Hãy chú ý đến ngôn ngữ của Hoàng (Đôi mắt
Nam Cao) – một bậc đàn anh trong văn giới đồng thời là tay chợ đen chợ đỏ rất tài
tình: “ông thanh niên”, “bà phụ nữ”, “bố tự vệ”, “ cái Số đỏ”, “Tôi cho rằng cuộc
Cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãng
đạo cừ”, “Bộ Đông chu mất ở Hà Nội, không đem đi được. Thế mới sầu đời chứ!
Hận quá. May mà bộ Tam quốc lại để ở ngoại thành, đem đi được. Nếu không thì
buồn đến chết.”. Ngay đến cách vỗ đùi, đến giọng “chửi yêu” Tào Tháo cũng rất…
Hoàng. Trong Rừng xà nu ngôn ngữ của nhân vật Tnú nhiều khi ngắn gọn, chắc

nịch, chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, dứt khoát: “Chỉ còn thằng chỉ huy dưới
hầm. Kêu nó không lên. Bỏ lựu đạn, nó có ngách. Người chỉ huy mình hỏi: Ai
xuống? Tôi xuống. Tối lắm. Tôi mò thấy nó. Nó bắn. Tôi giật được súng nó. Nó
vật tôi. Nhưng tôi mạnh hơn. Tôi tống đầu gối lên ngực nó. Tôi bóp đèn pin lên
mặt nó: Dục, mày còn nhớ tau không? Nó lắc đầu. Được, đây này, hai bàn tay tau
đây này, nhớ chứ? Tau vẫn cầm được súng! Mắt nó trắng giã. Tôi nói: Này, tau có
súng đây, tau có cả dao găm đây. Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không
đâm mày bằng dao nghe chưa! Dục! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này
thôi, tau bóp cổ mày thôi!”. Quả là đôi bàn tay dồn nén căm hờn, đôi bàn tay quả
báo. Con người miền núi là thế: yêu ai, yêu hết lòng, ghét ai, ghét tận độ. Từ ngày
thằng Dục dẫn lính về đàn áp dân làng, đánh đập chết mẹ con Mai, Tnú khắc sâu
mối thù. Cái tên thằng Dục in đậm trong tâm khảm… Anh muốn chứng tỏ với kẻ
thù rằng đôi bàn tay từng bị hành hạ dã man trước đây để dập tắt mộng cầm súng,
mỗi ngón đã bị cụt một đốt, lúc này vẫn thừa sức trả thù. Ngôn ngữ ấy, những lời
hỏi, lời cảnh cáo cùng cách trả thù ấy chứng tỏ một tính cách mạnh mẽ, một hành
động quyết liệt.
3.4. Nội tâm
Khi phân tích nhân vật cần quan tâm đến thế giới bên trong với những cảm giác,
cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ… Thế giới bên trong này thường tương tác với thế
giới bên ngoài (môi trường thiên nhiên, sự biến chuyển của đời sống xã hội, quan
hệ và hành vi của các nhân vật khác xung quanh) đồng thời cũng có qui luật vận
động riêng của nó. Một nghệ sĩ tài năng thường cũng là một bậc thầy trong việc
nắm bắt và diễn tả tâm lí con người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống nội tâm
nhân vật là chỗ thử thách tài nghệ nhà văn và cảm nhận, phân tích được một cách
kĩ lưỡng, thuyết phục mặt này cũng thành nơi chứng tỏ năng lực của người phân
tích tác phẩm. Bố cục truyện ngắn Hai đứa trẻ vận động theo dòng cảm giác bâng
khuâng, tâm trạng buồn man mác của nhân vật Liên trong không gian phố huyện
nhỏ trước giờ khắc ngày tàn rồi dần về đêm. Tính trữ tình, sự tinh tế của ngòi bút
Thạch Lam thể hiện qua việc diễn tả bao biến thái nhẹ nhàng của cảnh vật và sự
hòa điệu của lòng người. Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, hay nhất có lẽ là những

trang Tô Hoài diễn tả sự trỗi dậy từng bước của sức sống tiềm tàng trong lòng Mị,
quá trình hồi sinh của tâm hồn cô trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình
và diễn biến tâm trạng, hành động của Mị trong đêm mùa đông cắt dây trói giải
thoát cho A Phủ rồi bất ngờ chạy theo người ấy. Sống trong tâm trạng thiết tha bổi
hổi rồi ngày càng rạo rực của nhân vật khi bỗng nghe tiếng sáo, Tô Hoài diễn tả
chân thực quá trình hồi sinh này qua các bước tâm trạng, cử chỉ và hành động. Về
hành động uống rượu của Mị, chúng tôi đã phân tích ở trước.
Cũng tương tự như thế, hãy chú ý hành động thắp sáng thêm đĩa đèn của người
phụ nữ này sau đó: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…”. Hành động này có ý nghĩa
gì? Bấy lâu nay Mị có bận tâm gì đến bóng tối hay ánh sáng xung quanh mình đâu.
Cuộc đời đối với người con dâu gạt nợ chỉ như một đêm dài thăm thẳm. Nhưng
giờ đây có lẽ Mị không còn chịu nổi bóng tối đang vây bọc quanh mình nữa. Thắp
sáng thêm đĩa đèn hay là người phụ nữ này đang muốn thắp sáng lại cuộc đời
mình? Tiếp theo hành động uống rượu để lòng càng nhớ về ngày trước, để thấy
mình còn trẻ, hành động này chứng tỏ phản kháng âm thầm mà quyết liệt, chứng
tỏ sóng cuộn trong chiều sâu tâm trạng từ khi nghe tiếng sáo gọi bạn yêu lấp ló
ngoài đầu núi, lửng lơ bay ngoài đường. Đến khi diễn tả tâm trạng, hành động
nhân vật Mị ở đêm mùa đông giá lạnh sau đó, ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi
theo nỗi lòng người phụ nữ này để dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ
khác. Chúng ta vừa bất ngờ trước hành động táo bạo cắt dây trói cho A Phủ lại
ngỡ ngàng trước việc Mị vùng chạy theo (dù trước đó vài giây vẫn đang nghĩ
chuyện ở lại mà chết thay) với câu nói trong cơn gió thốc lạnh buốt “ ở đây thì
chết mất!”. Nhưng ngẫm ra thì những hành động bất ngờ này lại rất tự nhiên và
hợp lí bởi đúng với hoàn cảnh cụ thể ấy, với tính cách ấy. Thâm nhập thế giới nội
tâm phong phú của một nhân vật nào đó trở thành hành trình đầy thú vị của nhà
văn, cũng là điều hấp dẫn đối với người đọc, người phân tích tác phẩm sau đấy.
Điều đáng lưu ý mà qua các dẫn chứng nêu trên các bạn đã thấy là diễn biến nội
tâm thường gắn liền cùng từng cử chỉ, hành động của nhân vật, thường được “hữu
hình hóa” qua cử chỉ, hành động. Tất nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng có

thể “đọc xuôi” nỗi lòng qua cử chỉ, hành động bởi không phải bao giờ hai phía này
cũng trùng khít, thậm chí chúng có thể đối lập nhau.
3.5. Cử chỉ, hành động
Không phải ngẫu nhiên mà khi miêu tả nhân vật Hoàng trong buổi chiều rồi buổi
tối tiếp chuyện Độ, Nam Cao (qua mắt Độ) hay đặc tả những động tác khác
thường ở nhân vật này. Chúng ta hãy thử liệt kê: “Anh cười gằn một tiếng, nhìn
bao trùm cả người tôi, hỏi”, “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu
môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối”, “Anh trợn mắt
bảo tôi…”, “Hoàng nhếch một khóe môi lên, gay gắt”, “Anh chộp lấy câu của tôi,
nhanh như một con mèo vồ con chuột”… Qua những động tác, cử chỉ ấy, chúng ta
đủ hiểu Hoàng khinh miệt, ghê tởm dân quê đến mức nào, tính hiếu thắng, kẻ cả
trong trò chuyện của anh ta ra sao. Đó cũng là một cái tài của Nam Cao khi khắc
họa nhân vật
Bản chất của con người ta bộc lộ chân xác, đầy đủ nhất qua cử chỉ, hành động.
Phân tích nhân vật, vì thế, cần tập trung khai thác kĩ phương diện này. Đó là sự
thật hiển nhiên. Nhưng đáng chú ý là bản chất nhân vật không chỉ bộc lộ ở việc
nhân vật ấy làm mà còn qua cách làm việc ấy của nhân vật nữa. Vế sau này cũng
là một phương diện vô cùng quan trọng để nhà văn cá tính hóa nhân vật. Nghị
Hách (Số đỏ của Vũ Trọng Phụng) đúng là Nghị Hách ở hành động vỗ bụng Thị
Mịch mà ỡm ờ đùa cợt, ở hành động say sưa diễn thuyết và nhỏ nước mắt tỏ lòng
thương xót bình dân. Nam Cao đã dựng lên trước mắt ta một Chí Phèo bằng xương
bằng thịt với tính cách điên khùng, uất ức, với số phận tuyệt đối cô độc và bi thảm
không thể lẫn với bất kì một ai khác. Quả là rất Chí Phèo từ bộ mặt đầy những vằn
ngang vạch dọc, dáng đi ngật ngưỡng đến cách chửi, từ kiểu rạch mặt ăn vạ, kiểu
uống rượu đến lối làm tình với Thị Nở, Từ hành động xách dao ra đi trả thù đến
cách đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cũng trừng trị người nô lệ song
cái cách thống lí Pá Tra hành hạ A Phủ chỉ vì anh để hổ bắt mất một con bò nhà nó
mới độc ác làm sao, càng chứng tỏ cái quyền lực ghê gớm và bộ mặt tàn bạo của
giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi. Khi điển hình hóa nhân vật, một nhà văn
có tài thường “lựa chọn” cho nhân vật những hành động độc đáo, gây ấn tượng sâu

đậm đối với người đọc.
3.6. Lời các nhân vật khác về nhân vật
Để khắc họa tính cách, bản chất một nhân vật, nhà văn còn mượn lời nói, lời đánh
giá của các nhân vật khác. Lắm khi, nhà văn còn “tổ chức” cho các nhân vật khác
thảo luận, bàn bạc về nhân vật ấy. Viết Vi hành, Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo tạo
tình huống lầm lẫn thú vị để mượn cuộc đối thoại của đôi nam nữ thanh niên
người Pháp trên xe điện ngầm ở Pa ri mà dựng chân dung, đả kích ông vua bù nhìn
Khải Định. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, sinh động mà hình ảnh ông vua An
Nam lần lượt hiện lên khá toàn vẹn (từ lối ăn mặc, trang sức xa hoa, lòe loẹt, khoe
của một cách kệch cỡm đến điêu bộ nhút nhát, lúng ta lúng túng, từ cái mũi tẹt, đôi
mắt xếch, cái mặt bủng như vỏ chanh đến hành vi ám muội…). Tác giả đã mượn
lời đôi nam nữ thanh niên Pháp mà bàn luận, định giá thật đích đáng về Khải Định.
Ông vua này được xem như một trò giải trí, mua vui cho người dân Pháp giữa lúc
mọi trò quảng cáo trên báo chí đương thời không hấp dẫn được công chúng nữa.
Mỉa mai thay trò giải trí này lại không hề tốn một đồng xu (không bằng vợ lẽ nàng
hầu vua Cao Miên, tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô).
Thậm chí, Khải Định được ví như vai rối mà ông bầu nhà hát Múa rối có định kí
giao kèo thuê. Đã là con rối thì không thể tự thân chuyển động mà phải tuân theo
sự điều khiển, giật dây của những ai đó. Khải Định chỉ là một con rối trên sân
khấu chính trị đương thời. Mọi hành động, mọi lời nói của ông vua này đều nhất
nhất tuân theo sự điều khiển của quan thầy Pháp! Đến với truyện ngắn Rừng xà nu,
lời cụ Mết nói với con cháu Xô Man lại cho ta hiểu được phần nào hoàn cảnh gia
đình và tính cách của Tnú: “Anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu
lần rồi đó. Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một
đêm, cấp trên cho nó về một đêm, có chữ kí người chỉ huy, chị bí thư coi rồi. Nó
đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời
nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta…”. Trong tác phẩm văn học,
các nhân vật thường ở giữa những mối quan hệ tương tác, ràng buộc nhiều khi rất
phức tạp, thường nhận (hoặc chịu) sự nhận xét, đánh giá của các nhân vật khác.
Tất nhiên, không phải lời nhận xét, đánh giá nào cũng đúng và đều là ý kiến của

nhà văn.
Sau khi trình bày sáu phương diện cụ thể lúc phân tích nhân vật trong tác phẩm tự
sự, chúng tôi muốn lưu ý các bạn mấy điểm:
Thứ nhất: Không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các
phương diện này (lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, nội tâm, cử chỉ, hành động, qua
lời các nhân vật khác). Tùy trường hợp mà có chỗ nhiều, chỗ ít, chỗ đậm, chỗ nhạt.
Bởi thế, không phải cứ máy móc tìm đủ, phân tích đủ mà cần biết tập trung, xoáy
sâu vào các phương diện thành công nhất của tác phẩm. Cũng không cứ phải tuần
tự theo sáu phương diện như thế mà nên sắp xếp theo thực tế, làm sao cho bài văn
của mình hấp dẫn.
Thứ hai: Tránh lầm lẫn cấp độ của những phương diện phân tích. Có thể xem sáu
phương diện đã nêu đồng đẳng và đều là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa của tính cách,
số phận nhân vật. Không nên xem tính cách như một phương diện ngang bằng các
phương diện ấy (như một vài cuốn sách về làm văn lâu nay vẫn sắp xếp). Điều này
không đúng về mặt lí luận và sẽ gây lúng túng trong thực tế làm bài.
Thứ ba: Nắm vững sáu phương diện cơ bản đã nêu khi phân tích nhân vật chính là
điều có ý nghĩa định hướng cho việc đọc tác phẩm tự sự. Biết đọc tác phẩm tự sự
nghĩa là hiểu được, nhớ được nội dung phản ánh của tác phẩm và mối quan hệ
giữa các nhân vật, nắm được tính cách, số phận của các nhân vật chính. Để có căn
cứ phân tích, để có chất liệu làm bài, khi đọc tác phẩm cần ghi nhớ các chi tiết, các
hình ảnh về từng phương diện ấy.
4. Phân tích điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật trong tác phẩm văn xuôi tự
sự
Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm
nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ
ra vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện
trong tác phẩm. Nó chính là cách kể, phương thức kể, là tình huống diễn ngôn.
Như thế, điểm nhìn trần thuật có mối quan hệ mật thiết với cấu trúc nghệ thuật,
giọng điệu của tác phẩm, với cách cảm thụ thế giới, thái độ của nhà văn. Khi
nghiên cứu một cấu trúc văn bản, chúng ta cần quan tâm đến điểm nhìn, chỗ đứng

mà tác giả lựa chọn. Chính điểm nhìn, chỗ đứng này chi phối cách miêu tả, đánh
giá sự việc, câu chuyện và thành cơ sở để người đọc chúng ta cân nhắc, lựa chọn
thái độ đối với hiện thực, nhân vật được phản ánh. Xét về mặt nào đó, quá trình
hiện đại hóa của văn học, quá trình phát triển của tư duy nghệ thuật nhân loại gắn
liền với sự thay đổi, cách tân điểm nhìn trần thuật. Văn học truyền thống thường
chỉ sử dụng một điểm nhìn trần thuật từ người kể chuyện (có thể cứ trần thuật một
cách khách quan hay xưng tôi).
Ở đây, người kể chuyện là người toàn thông, nắm rất rõ và biết tất cả về nhân vật,
về nội dung câu chuyện. Trong khi kể, họ đưa ra những nhận định, đánh giá về
nhân vật, sự kiện và thế là vô hình trung họ đã áp đặt cách nghĩ, cách đánh giá của
mình lên độc giả. Đến văn học hiện đại, nội dung trần thuật không chỉ diễn ra theo
trình tự thời gian mà có sự xáo trộn, đan xen, không chỉ có một chủ thể trần thuật
từ đầu đến cuối mà có sự trần thuật đa chủ thể, cùng với tác giả trần thuật còn có
nhân vật tự kể, hoài niệm, còn có các nhân vật trần thuật, đánh giá cho nhau, về
nhau (Trong văn học phương Tây, người đầu tiên hoàn thiện tính hiện đại trong
cách kể, kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn trần thuật là Kapka. Ở Việt Nam,
những nhà văn đầu tiên có những cách tân đáng ghi nhận về phương diện này là
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học trong một số sáng tác ở những năm 20 của thế kỉ
trước). Phân tích tác phẩm văn học hiện đại cần chú ý đến sự dịch chuyển, kết hợp
linh hoạt nhiều điểm nhìn trần thuật. Lắm khi, nhà văn “trao bút” cho nhân vật, để
nhân vật tự kể, tự nói về mình. Ở đây, nội dung nghệ thuật không chỉ được truyền
đạt duy nhất từ người kể chuyện mà còn bởi các nhân vật khác, bằng cả những
tiếng nói bên trong mang nhận thức, tình cảm của nhân vật. Chúng tôi xin minh
họa điều này bằng phân tích một chi tiết trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Ai từng đọc Vợ chồng A Phủ chắc đều thấm thía ý nghĩa của tiếng sáo gọi bạn tình
vào đêm mùa xuân. Từ khi hiểu rằng mình chưa thể chết, đành chấp nhận kiếp nô
lệ để cứu bố, Mị cứ lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Tuổi xuân của người phụ nữ
xinh đẹp, tài hoa ấy bị giam hãm trong những không gian chật hẹp, tăm tối, trong
căn buồng chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài kia cứ thấy một
màu mờ mờ trắng trắng không biết là sương hay là nắng.

Mị xem mình sống mà như đã chết, xem cuộc đời mình như một đêm dài bất tận.
Ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen cái khổ rồi. Thậm chí, đến khi người bố già chết
đi, cô cũng chẳng nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà thống lí nữa. Ai ngờ tiếng sáo gọi
bạn tình trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ý niệm về thời gian, đánh thức hoài
niệm về tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phúc trong con người tưởng đã chai lì, câm
lặng đi trong đau khổ. Ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng Mị để diễn
tả quá trình trỗi dậy của một sức sống tiềm tàng theo các bước ngày càng cao,
càng nồng nàn.
Cũng từ đây, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật của nhà văn bắt đầu
chuyển đổi. Không hoàn toàn khách quan nữa mà lúc này có sự kết hợp với điểm
nhìn trần thuật từ nhân vật, xuất hiện lời trần thuật nửa trực tiếp. Thử đọc lại một
đoạn văn của Tô Hoài: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả.
Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy,
nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A
Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị đã ngồi xuống giường,
trông ra cái lỗ cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Trong đoạn văn này, đang trần thuật khách quan
(từ chỗ đứng người kể chuyện) đến ba câu cuối có sự dịch chuyển, kết hợp tự
nhiên các điểm nhìn, giọng điệu. Tô Hoài đã viết liên tiếp ba câu văn ngắn cùng
một chủ ngữ là Mị. Lời văn từ đây bỗng hối hả, bỗng dồn dập như cùng khát vọng
sống đang trào dâng trong lòng Mị. Lời nhà văn hay lời nhân vật? Không thể phân
định rạch ròi. Tô Hoài không đứng bên ngoài mà tả, mà kể nữa, lại nhập thân vào
Mị, thổn thức cùng Mị ở thời khắc ấy để từ trong đó viết ra.
Khi trần thuật bằng lời nửa trực tiếp như thế, ý thức của nhân vật được hiện diện,
người đọc được thâm nhập vào ý nghĩ thầm kín của nhân vật, được sống cùng
nhân vật. Trong sáng tác của Nam Cao, sự dịch chuyển linh hoạt điểm nhìn thần
thuật, sự đan xen nhiều giọng điệu trần thuật trở thành một đặc điểm nổi bật, một
nét thú vị của phong cách. Không ít người dùng chữ “đa thanh” khi nói về lời văn
Nam Cao mà chưa thực hiểu đúng khái niệm này. Chưa hẳn là đa thanh khi trong

một đoạn văn mà bao gồm nhiều giọng điệu theo kiểu phép cộng các số hạng. Chỉ
lúc nào trong bản thân lời của người này, nhân vật này có lời của người khác, nhân
vật khác, chỉ lúc nào nhân vật độc thoại nội tâm trong tâm thế hướng tới người
khác, đối thoại với người khác hoặc đối thoại mà như tự soi chiếu, tự trò chuyện
với chính mình thì mới có giọng điệu đa thanh.
Hãy ngẫm nghĩ chẳng hạn từ đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo hay đoạn nhân
vật Hộ tự cảm nhận, xỉ vả mình là một kẻ khốn nạn, bất lương trong nghề văn
trong Đời thừa… ở những đoạn này, lời người trần thuật (tác giả) và lời nhân vật
trong sự đối chọi với chính mình, đối thoại với người đời không thể tách rời. Nam
Cao thường rất tự nhiên trao quyền trần thuật cho nhân vật và người đọc văn ông
cũng được tự nhiên hòa vào, sống trong dòng ý thức ấy.
Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật như trên tất yếu liên quan với lời văn, giọng
điệu của tác phẩm. Mọi nhân vật, mọi sự kiện, chi tiết, hình ảnh… trong tác phẩm
văn xuôi đều được diễn tả bằng lời văn, bằng giọng điệu. Lời văn không bao giờ là
một công cụ trung lập, vô sắc thái. Nhiều năm trước đây, trong tư duy của không ít
người, văn xuôi và thơ ca được tách xa về hai phía. Có lẽ do nhấn mạnh tính chủ
quan của thơ trữ tình mà trong sự tách bạch ấy người ta chưa chú ý đúng mức đến
yếu tố giọng điệu của lời văn.
Nếu như nhà thơ “có quyền” bộc lộ trực tiếp thái độ, xúc cảm cá nhân thì người
viết văn xuôi cũng khó thể dấu cái nhìn, tình cảm của mình qua giọng điệu tác
phẩm. Bởi thế, lời văn là một căn cứ tin cậy để chúng ta nhận ra chỗ đứng, nhận ra
ý đồ của nhà văn khi xây dựng tác phẩm. Khi viết Rừng xà nu, Nguyễn Trung
Thành đã không đóng vai người kể chuyện mà dựng lại lịch sử bi hùng của làng
Xô Man. Nếu làm thế, giữa người kể và câu chuyện được kể sẽ có một khoảng
cách. Nhà văn đã trao quyền kể cho nhân vật cụ Mết – một già làng, một người
trong cuộc. Cụ Mết là người từng chứng kiến bao biến cố trọng đại của làng Xô
Man, là người phát động, tổ chức cuộc khởi nghĩa bất khuất đầu tiên của làng.
Hơn nữa, chính cụ là người trực tiếp trừng trị thằng Dục ác ôn. Có thể xem cụ Mết
như một pho sử sống của làng Xô Man, là cây xà nu cổ thụ vững chãi của đất rừng
Tây Nguyên.

Cụ như chiếc gạch nối giữa truyền thống bất khuất tự ngàn xưa với hiện tại đau
thương, hùng tráng. Chỉ con người như thế mới đủ uy tín, uy quyền dựng lại lịch
sử quê hương và răn dạy con cháu. Việc chọn cụ Mết làm nhân vật người kể
chuyện đã tạo nên giọng điệu sử thi trang trọng, thiêng liêng đặc biệt cho thiên
truyện. Giọng nói của cụ trầm ấm, vang vọng như tiếng nói của núi rừng. Trong
nhiều truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu ở thời kì đổi mới như Bức tranh,
Bến quê cũng có sự dịch chuyển, kết hợp linh hoạt các điểm nhìn, giọng điệu trần
thuật. Ở những tác phẩm này, từ điểm nhìn trần thuật khách quan, nhà văn thường
dịch chuyển tự nhiên sang trần thuật bằng quan điểm nhân vật cùng độc thoại nội
tâm. Những đoạn văn như thế thường có giọng điệu tự vấn, tự soi xét hoặc ăn năn,
tự cảm thương. Nhờ thế, tác phẩm thâm trầm với chiều sâu triết lí, có khả năng lay
thức bạn đọc.
PGS – TS Lê Quang Hưng, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội

×