Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 28 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I-Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II- Nội dung nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng
2.2. Nguyên nhân
3. Các biện pháp
3.1. Biện pháp 1: Phối hợp tốt với phụ huynh học sinh để thống

4
6
6
6
10
10

nhất biện pháp giáo dục.
3.2. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong giờ Tiếng

12


2
3
4
4
4

việt làm nền tảng cho học sinh nêu miệng và viết câu lời giải trong
giải tốn có lời văn lớp 2.
3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải tốn
có lời văn lớp 2.
3.4. Biện pháp 4: Tạo ra các phong trào thi đua trong lớp
III- Kết quả và ứng dụng của biện pháp.
1. Kết quả nghiên cứu
2. Ứng dụng
III - Kết luận và kiến nghị
1. Ý nghĩa của biện pháp.
2. Bài học kinh nghiệm.
Tài liệu tham khảo

15
19
21
24
24
24
27


2
I - PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục là quốc sách hàng đầu tạo điều kiện tiên quyết góp phần phát
triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội và đặc biệt là góp phần nâng cao chỉ số
con người. Do đó, trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay hệ thống Giáo dục
và Đào tạo cần phải có những thay đổi để tạo ra nguồn nhân lực có chất
lượng, có trình độ, năng động và sáng tạo nhằm đáp ứng những yêu cầu mới
của xã hội. Những năm học vừa qua, ngành Giáo dục vẫn ln triển khai các
kế hoạch đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đạt được những kết
quả tích cực.
Mục tiêu giáo dục bậc Tiểu học là góp phần đào tạo những con người
lao động thông minh, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo và thích ứng.
Bậc Tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông và cũng là nền tảng của dân
trí. Trên cơ sở đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với xu thế chung của
cả nước về yêu cầu giáo dục hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và mơn Tốn nói riêng là cần thiết đối với u cầu hiện nay.
Mỗi mơn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn
học ở Tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, mơn Tốn có vị trí rất quan trọng
vì: Các kiến thức, kĩ năng của mơn Tốn có rất nhiều ứng dụng trong cuộc
sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học
khác và học tiếp Toán ở Trung học cơ sở. Các kiến thức, kĩ năng của mơn
Tốn ở Tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và
thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và
trong đời sống con người.
Xuất phát từ mục đích, u cầu của chương trình Tốn lớp 2. Từ
những hạn chế của tâm lý lứa tuổi. Từ tình hình thực tiễn, trình độ nhận thức
của học sinh Tiểu học nói chung, của lớp tơi nói riêng, các em đa số “Giải
tốn có lời văn” cịn yếu vì nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm



3
sinh lý lứa tuổi, các em thường vội vàng hấp tấp, nên đôi khi chưa hiểu kỹ đề
bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến bài làm của các em cịn nhiều sai sót như câu
lời giải chưa đầy đủ hoặc có những câu lời giải chưa đúng; nhiều em cịn sai
danh số ở kết quả tính ...
Việc nâng cao chất lượng dạy học mơn Tốn ở Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tơi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn
băn khoăn trăn trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 2.
Giáo viên có dạy tốt hay khơng được đánh giá ở chính thành tích học
tập của các em. Kết quả học tập của các em là thước đo quá trình phấn đấu
rèn luyện của chính bản thân mỗi giáo viên. Cho nên khi giảng dạy, mỗi giáo
viên tiểu học phải truyền đạt hết sức mình cho các em học tập.
Bản thân tơi cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp,
giúp các em giải bài Toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có
phương pháp suy luận thơng qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng
tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học tốn. Với
những lý do trên, tơi đã chọn biện pháp “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp
2 học tốt giải tốn có lời văn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của biện pháp là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp
tích cực trong việc dạy và học mơn tốn nói chung và giải tốn có lời văn nói
riêng, góp phần giúp học sinh lớp 2 giải được các dạng tốn có lời văn một
cách tốt nhất. Thông qua các biện pháp này tơi có thể nâng cao kiến thức của
bản thân và ý thức được việc nghiên cứu, tìm ra những phương pháp khả thi
để nâng cao chất lượng học toán cho học sinh Tiểu học nói chung. Học sinh
lớp 2 nói riêng.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU



4
Biện pháp của tôi tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề cơ sở lí luận của phương pháp giải Tốn có
lời văn, đặc điểm, bản chất, cách thức tiến hành, một số lưu ý khi vận dụng.
- Khảo sát thực tiễn việc vận dụng các phương pháp giải Tốn có lời văn lớp
2
- Xây dựng kế hoạch dạy học có áp dụng các phương pháp giải Tốn có
lời văn lớp 2
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm: Dạy một số bài trong chương trình
Tốn lớp 2 (bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống) ở các lớp khác nhau. Kết
hợp đan xen giữa việc giảng dạy truyền thống và giảng dạy có áp dụng các
phương pháp mới.
- Phát phiếu thăm dị, lấy ý kiến phản hồi sau mỗi tiết dạy. Từ đó, đánh
giá mặt tích cực và hạn chế của phương pháp.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2.
4.2. Phạm vị nghiên cứu
- Học sinh lớp 2C do tôi trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tiến hành dạy thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra, khảo sát hứng thú của học sinh đối với mơn Tốn.
- Phương pháp đàm thoại, gợi mở.
- Phương pháp nêu gương
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
II- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Việc hướng dẫn học sinh lớp 2 giải tốn có lời văn thực chất là hướng

dẫn các em về những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua


5
những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và sự phụ thuộc, có liên
quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài tốn có lời văn
chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy
bản chất tốn học của bài tốn. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được
các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài tốn và tìm được
những câu lời giải, phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải tốn theo u cầu của chương
trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người
trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em
mới phải viết câu lời giải, cịn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì
2 của lớp 3 mới phải viết câu lời giải…Cịn đến nay theo chương trình mới thì
ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải. Đây quả là một bước
nhảy vọt khá lớn trong chương trình mơn tốn ở Tiểu học. Nhưng nếu như
nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 1, lớp 2 thì đến các lớp trên các em
dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành
trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập,
vận dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước
giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận
lơgíc. Thơng qua giải tốn mà học sinh rèn luyện được phong cách của người
lao động mới: Làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt
mài trong công việc.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy
học sinh khi giải các bài tốn có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài
tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều

em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng khơng làm sao tìm được
lời giải đúng hoặc đặt lời giải khơng phù hợp với đề tốn đặt ra. Chính vì thế


6
nhiều khi dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ
thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, lớp 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với
mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, lớp 2 nhất là những tuần đầu dạy
tốn có lời văn ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề…Một số em mới
chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi cơ nêu:
Bài tốn cho biết gì?... Đến khi giải tốn thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa
hay hoặc khơng có câu lời giải… Những ngun nhân trên khơng thể đổ lỗi
về phía học sinh 100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp,
cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.
Đây cũng là lý do mà tôi chọn biện pháp này, mong tìm ra những biện
pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2.
Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài tốn có lời văn khó và
phức tạp ở các lớp trên.
2. SỞ CỞ THỰC TIỄN
2.1. Thực trạng
Năm học 2022-2023 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2C
với tổng số 34 học sinh, Ngay từ những buổi đầu nhận lớp tôi đã rất chú trọng
đến việc rèn học các mơn học cho các em nói chung và đặc biệt là mơn tốn nói
riêng. Trong q trình giảng dạy ở những tuần đầu tơi nhận thấy các em rất thích
học Tốn và thực hiện các phép tính cộng trừ rất nhanh nhưng khi tơi cho các em
học đến dạng tốn có lời văn thì tự nhiên khơng khí lớp trầm lắng xuống, các em
trầm ngâm suy nghĩ nhất là bước tìm và đưa ra câu trả lời cho bài tốn. Có em
thì khơng biết viết gì, có em thì viết được câu trả lời nhưng cịn sai và chưa đủ ý;
có em thì viết sai danh số ở kết quả tính…Trước thực trạng giải tốn có lời văn

như vậy đã làm tôi nhiều đêm trăn trở nhằm tìm ra ngun nhân để giúp các em
lớp tơi học tốt nội dung giải tốn có lời văn.
2.2. Ngun nhân


7
- Do các em học sinh mới chuyển từ lớp 1 lên cộng thêm thời gian nghỉ
hè dài (3 tháng) nên còn nhiều học sinh đọc còn ngập ngừng, chưa lưu lốt,
chưa trơi chảy, Chính vì vậỵ khi dạy cho các em học giải tốn có lời văn thì
giáo viên càng gặp khó khăn hơn.
- Do học sinh cịn qn và một số em chưa nắm chắc được các bước giải
tốn có lời văn ở lớp 1 nên khi giải tốn có lời văn ở lớp 2 đầu năm học nhiều
em còn chưa biết viết câu trả lời hoặc trả lời đúng nhưng lại viết câu trả lời sau
phép tính do thói quen được rèn ở lớp 1; một số em xác định sai danh số.
- Do giáo viên chưa tạo ra môi trường học tập để khich lệ tinh thần học
tập của học sinh trong mơn Tốn.
- Đại đa số phụ huynh lớp tơi cịn trẻ đều là cơng nhân đi làm xa nên
việc phối hợp với giáo viên để cùng thống nhất phương pháp giải tốn có lời
văn lớp 2 cho các em chưa được kịp thời.
Từ những thực trạng nêu trên sau 3 tuần thực dạy, tôi đã tiến hành
cho học sinh cả lớp giải một bài tốn có lời văn ở tuần 4 (sách kết
nối tri thức với cuộc sống trang 30) như sau:
Bài toán: Để giúp đỡ các bạn học sinh ở vùng khó khan, lớp em đã quyên
góp được 8 thùng quần áo và 5 thùng sách vở. Hỏi cả quần áo và sách vở, lớp
em đã quyên góp được bao nhiêu thùng?
Qua quá trình khảo sát, chấm nhận xét tơi nhận thấy có một số em hồn
thành tốt bài giải tốn có lời văn mà tơi đưa ra, nhưng bên cạnh đó vẫn cịn
nhiều em khi giải bài tốn cịn mắc một số lỗi. Lỗi mà các em thường hay
mắc phải đó là: viết câu lời giải chưa hoàn chỉnh, câu lời giải khơng đúng
với u cầu của bài ra, nghĩa là cịn có những em đặt câu lời giải khơng có từ

chìa khóa của bài. Bên cạnh đó các em cịn hay nhầm lẫn danh số của kết
quả tính. Ngồi ra trình bày bài chưa khoa học. … Trong số những bài làm
của các em mắc phải các lỗi như vừa nói trên thì bài làm của một số học sinh
dưới đây nói lên thực trạng đó.


8

Bài làm của học sinh trước khi áp dụng biện pháp


9

Bài làm của học sinh trước khi áp dụng biện pháp.


10
Từ bài khảo sát của học sinh tôi tổng hợp được kết quả của cả lớp
như sau.

Sĩ số
34

Sĩ số
34

Số HS viết câu trả lời
đúng

Số HS viết câu trả lời

chưa đúng

SL

TL

SL

TL

20

58,8%

14

41,2%

Số HS đúng danh số

Số HS chưa đúng danh số

SL

TL

SL

TL


22

64,7%

12

35,3%

3. CÁC BIỆN PHÁP:
3.1. Biện pháp 1. Phối hợp tốt với phụ huynh học sinh để thống
nhất biện pháp giáo dục.
Như chúng ta đều biết, học sinh lớp 2 đến trường còn phụ thuộc hoàn
toàn vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cơ. Các em chưa có ý
thức học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn. Vì vậy, chúng ta
cần phải:
* Phối hợp tốt với các bậc phụ huynh thông qua cuộc họp phụ
huynh học sinh đầu năm học.
Do phụ huynh lớp tơi cịn trẻ, hầu hết đều là công nhân đi làm cả ngày,
mỗi tuần chỉ đưọc nghỉ vào một ngày chủ nhật nên vào đầu năm học, theo kế
hoạch của nhà trường, tôi mời 100 % phụ huynh đến trường để họp. Để có
được tất cả phụ huynh đến họp tôi đã liên lạc với từng phụ huynh qua số điện
thoại hoặc thông qua nhóm zalo của lớp 1 chuyển giao. Chính vì vậy cuộc
họp phụ huynh đầu năm học 2022-2023 lớp tôi đã đủ 34/34 phụ huynh có
mặt. Trước khi họp tơi đã chuẩn bị trước nội dung, trong đó nội dung quan
trọng nhất là làm thế nào để phụ huynh thấy được việc chuẩn bị chu đáo sách


11
vơ, đồ dùng học tập cho con trước khi đến trường hay thường xuyên nhắc nhở

các em để các em có ý thức tốt trong học tập chính là đã góp phần khơng nhỏ
để giáo viên nâng cao chất lượng nói chung và nâng cao chất lượng dạy học
giải tốn có lời văn nói riêng.
Việc đầu tiên trong cuộc họp, tôi trao đổi với các bậc phụ huynh phải
thường xuyên quan tâm nhắc nhở để các em có ý thức trong việc chuẩn bị bài
ở nhà, chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng học tập trước khi đến trường. Có
như thế các em mới có thể tiếp thu và làm bài chu đáo.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của
nhiều em chưa cao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học và giúp cho phụ
huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao
đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu
cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng – cách
hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các ông bố vào buổi
tối cố gắng bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ đài, ti
vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập…. Cuối buổi họp
phụ huynh tôi đã dành một chút thời gian để trao đổi với các bậc phụ huynh
về một dạng tốn mà học sinh lớp tơi đang gặp nhiều khó khăn khi làm bài,
đó là giải bài tốn có lời văn ở lớp 2. Trong buổi họp đó tôi đã thống nhất với
các bậc phụ huynh về các bước giải bài tốn có lời văn, tơi lấy ví dụ minh họa
và giải mẫu cho tất cả các bậc phụ huynh được biết để từ đó phụ huynh có
cách hướng dẫn kèm con them ở nhà vào buổi tối. Việc làm của tôi đã được
tất cả các phụ huynh ủng hộ, nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu
nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em
ở nhà theo sách giáo khoa mới. Sách mới cịn nhiều kí hiệu, các lệnh, yêu cầu
của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu bài tập. Riêng trong phần bài tập của
sách Tốn, tơi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các
đề tốn, luyện nói và trả lời câu lời giải của bài toán.


12

* Gặp gỡ trực tiếp với phụ huynh có học sinh có năng lực giải
tốn chậm.
Mặc dù trong buỏi họp phụ huynh đầu năm tất cả phụ huynh đều đi họp
đày đủ nhưng hàng tháng, tôi vẫn dành thời gian để tới thăm và gặp mặt một
số phụ huynh là cha mẹ của những học sinh có năng lực giải tốn chậm.. Đối
tượng này tơi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà về phương pháp dạy tốn có
lời văn cho các em. Các gia đình này phần lớn trình độ văn hố của bố mẹ cịn
thấp, thậm chí họ không biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc
nhở con: “ Học bài đi” rồi con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không
hay…Đối với những em này, tôi phải hướng dẫn phụ huynh nhiều hơn đồng
thời kết bạn Zalo riêng để mỗi khi gặp vướng mắc gì là phụ huynh kịp thời
liên lạc chụp bài của học sinh gửi cho tôi.
Kết hợp ba mơi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội tôi nhận
thấy học sinh trong học tập đã có sự chuyển biến rõ rệt nhất là trong việc tìm
ra và trình bày câu trả lời của dạng giải tốn có lời văn lớp 2. Các em đã
khơng cịn bị nhầm lẫn khi viết câu trả lời sau phép tỉnh như đã được học ở
lớp 1, nhiều em đã có câu trả lời đúng chính xác chỉ sau buổi họp phụ huynh
từ 1 đến 2 tuần. Điều đó làm tôi rất mừng.
3.2. Biện pháp 2. Rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong giờ Tiếng
việt làm nền

tảng cho học sinh nêu miệng và viết câu lời giải trong

giải toán có lời văn lớp 2.
Để giúp cho học sinh viết được câu trả lời trong giải tốn có lời văn ở
lớp 2 được tốt thì yếu tố quan trọng là học sinh phải đọc thơng, viết thạo.
Chính vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã tập trung vào rèn cho học sinh các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết.
Học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tốt khơng những giúp các em
học tốt mơn Tốn nói chung mà cịn giúp các em học tốt trong việc giải tốn

có lời văn nói riêng. Đọc tốt sẽ giúp các em đọc và hiểu nội dung bài tốn từ
đó sẽ phân tích được nhanh bài tốn (bài tốn cho biết gì? và hỏi gì?). Kĩ năng


13
viết sẽ giúp cho học sinh viết đúng, viết đẹp và không viết sai câu trả lời cũng
như danh số của bài tốn.
Theo chương trình SGK mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải
tốn có lời văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu
tiếp câu hỏi để hồn chỉnh đề toán, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và
chưa yêu cầu lời giải hay. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không
quá 40 phút, với nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn
luyện nhiều. Vì vậy, khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải tốn
có lời văn, nhiều em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo
viên đã hướng dẫn các em nêu đề tốn, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời
giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em chưa được thành
thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em ở những tiết tốn có bài tốn
giải tơi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn

kĩ và sữa chữa giúp

các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ: u cầu học sinh đọc đề toán ở trang 79 SGK Toán 2 (Bộ kết nối
tri thức với cuộc sống).
“Nam có 57 viên bi, Mai cho Nam thêm 15 viên bi. Hỏi lúc này Nam
có bao nhiêu viên bi?”.
Sau đó yêu cầu các em thực hiện các bước tiếp theo như sau:
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài tốn:
Nam có :


57 viên bi.

Mai cho Nam thêm : 15 viên bi
Nam có:… viên bi?
Qua đó giúp cho các em hiểu rõ ràng hơn về bài toán, biết được mối
quan hệ giữa các yếu tố có trong bài tốn.
- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Nam có số viên bi là:
- Học sinh nêu miệng phép tính:

57 + 15 = 72 (viên bi)


14
Tiếp đó, học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề tốn bằng lời
sau đó nêu cách giải rồi tự giải. Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học
sinh luyện nêu miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ nội dung bài tốn.
Ví dụ: Bài tập 2 (trang 80 - SGK Toán 2 (Bộ kết nối tri thức với cuộc
sống).
Tóm tắt
Con bê nặng:

47 kg

Con nghé nặng hơn: 18kg.
Con nghé nặng: ... kg?
Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng
lời theo yêu cầu.
Học sinh: Con bê cân nặng 47 kg. Con nghé nặng hơn con bê 18 kg.
Hỏi con nghé cân nặng bao nhiêu ki-lơ-gam?

Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Con nghé cân nặng số ki-lơ-gam là: 47 + 18 = 65(kg)
Trình bày bài giải:
Bài giải
Con nghé cân nặng số ki-lô-gam là:
47 + 18 = 65(kg)
Đáp số: 65 kg
Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời. Vì thế
người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp,
tổ chức các trị chơi học tập, được trao đổi, luyện nói, luyện viết nhiều trong
các giờ học Tiếng Việt giúp các em có vốn từ nhất định để giao tiếp, để vận
dụng trong việc giải tốn có lời văn; trong các tiết học các em có thể nhận xét
và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà khơng rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo
viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc
độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu
cầu mà các bài tập nêu ra.


15
Tóm lại: Để giúp học sinh giải tốn có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn
chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các
giờ học Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thơng, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy”
giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải tốn một cách thành thạo. Các em có
đọc thơng, đọc lưu lốt thì các em mới hiểu được bài tốn cho biết gì ?; bài
tốn u cầu làm gì ?. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong bài là gì ?. Từ đó
các em mới làm đúng theo yêu cầu bài ra.
3.3.Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải tốn
có lời văn lớp 2.
3.3.1. Giúp học sinh nắm được các dạng tốn về giải tốn có lời
văn ở lớp 2.

Theo sách giáo khoa Toán lớp 2 bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống
nội dung chương trình giải tốn có lời văn ở lớp 2 được chia làm hai dạng:
Dạng 1: Học sinh giải tốn có lời văn với các phép tính cộng, trừ
( Củng cố bài tốn về "thêm, bớt". . . ở lớp 1; Bài toán về "nhiều hơn",
"ít hơn" một số đơn vị ở lớp 2).
Dạng 2: Học sinh giải tốn có lời văn với các phép tính nhân, chia.
Ví dụ:
Dạng 1: Học sinh biết giải tốn và trình bày bài giải các bài tốn giải
bằng một phép tính cộng, trừ. Trong đó có:
Bài tốn về "Thêm" một số đơn vị: Bài 2 trang 36 SGK
Có 8 bạn đang chơi kéo co, có thêm 4 bạn chạy đến cùng chơi. Hỏi lúc
đó có tất cả bao nhiêu bạn chơi kéo co?
Bài toán về "Bớt" một số đơn vị: Bài 2 trang 37 SGK
Trên xe có 14 bạn, đến điểm dừng có 3 bạn xuống xe. Hỏi lúc đó trên
xe cịn lại bao nhiêu bạn?
Bài tốn về "Nhiều hơn" một số đơn vị: Bài 2 trang 51 SGK
Trong sân có 14 con gà, số vịt nhiều hơn số gà là 5 con. Hỏi trên sân có
bao nhiêu con vịt?


16
Bài tốn về "ít hơn" một số đơn vị: Phần khám phá trang 51 SGK
Mai gấp được 8 thuyền, Nam gấp được ít hơn Mai 2 cái. Hỏi Nam gấp
được mấy cái thuyền?
Dạng 2: Học sinh biết giải và trình bày bài giải các bài toán giải
bằng một phép về tính nhân hoặc chia. Chủ yếu là các bài tốn tìm tích
của hai số trong phạm vi các bảng nhân 2, 5 và các bài toán về chia thành
phần bằng nhau, chia theo nhóm trong phạm vi các bảng chia 2, 5.
Ví dụ: Bài tốn bằng một phép tính nhân: Bài 4 trang 11 SGK
Một con cua có 2 càng:

a, 5 con cua có bao nhiêu càng?
b, 7 con cua có bao nhiêu càng?
Bài tốn giải bằng một phép tính chia: Bài 2 trang 109 SGK
Có 12 cái kẹo chia đều cho 2 bạn. Hỏi mỗi bạn được mấy cái kẹo?
3.3.2. Quy trình "
giải tốn có lời văn"
Thơng thường khi dạy giải tốn có lời văn, tơi dạy theo các bước sau:
- Bước 1: Tìm hiểu đề tốn
- Bước 2: Tóm tắt bài tốn
- Bước 3: Tìm cách giải
- Bước 4: Trình bày bài giải
- Bước 5: Kiểm tra lại bài giải
* Tìm hiểu đề tốn:
Để hiểu được nội dung bài toán, yêu cầu học sinh tự đọc, tri giác nhận
biết đề tốn.
Tơi tổ chức cho các em đọc kĩ đề tốn, hiểu rõ một số từ khóa quan
trọng: Nhiều hơn, ít hơn, . . .
Sau khi học sinh đã nhận dạng được bài tốn, tơi u cầu học thảo luận
theo cặp tìm cái đã cho và cái cần tìm.
Ví dụ: Bài 4 trang 31 SGK
Tịa nhà thứ nhất có 16 tầng, tịa nhà thứ có ít hơn tịa nhà thứ nhất 4


17
tầng. Hỏi tịa nhà thứ hai có bao nhiêu tầng?
- Cái đã cho: Tịa nhà thứ nhất có 16 tầng, tịa nhà thứ hai ít hơn tịa nhà
thứ nhất 4 tầng.
- Cái cần tìm: Tịa nhà thứ hai có bao nhiêu tầng?
Tuy nhiên trong q trình giải tốn khơng phải tất cả đề bài đều cho
biết cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đơi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm

trước rồi mới biết cái đã cho.
* Tóm tắt bài giải:
Mỗi bài tốn có các cách tóm tắt khác nhau, tuy nhiên các em cần lựa
chọn cách tóm tắt sao cho phù hợp từng bài để dễ hiểu, đơn giản và ngắn gọn
nhất. Có những bài tốn nên tóm tắt bằng lời song cũng có những bài tốn nên
tóm tắt bằng sơ đồ.
Ví dụ: Tóm tắt bằng lời Bài 1 trang 50
Trong một lớp học bơi có 9 bạn nam, số bạn nữ nhiều hơn số bạn nam
là 2 bạn. Hỏi lớp học bơi có bao nhiêu bạn nữ?
Nam: 9 bạn
Nữ nhiều hơn nam: 2 bạn
Nữ: … bạn?
- Tóm tắt bằng sơ đồ: Phần khám phá trang 50
Có 6 bơng hoa màu đỏ, số bơng hoa màu vàng nhiều hơn số bông hoa
màu đỏ là 3 bông. Hỏi có bao nhiêu bơng hoa màu vàng?

6
Nhiều hơn 3

Hoa màu đỏ
Hoa màu vàng

?


18
Phần tóm tắt bài tốn là cần thiết khi học sinh giải bài tốn có lời văn,
đối với học sinh lớp 2 khơng nhất thiết phải trình bày tóm tắt vào vở. Sau khi
tóm tắt xong tơi u cầu học sinh nhìn vào tóm tắt đọc lại được một bài tốn
hồn chỉnh đúng theo ý đề bài đã cho.

* Tìm cách giải:
Cũng như các mơn học khác để tìm được bài giải thì học sinh cần xác
định xem bài tốn u cầu chúng ta làm gì? Từ đó để tìm cách giải, thiết lập
mối quan hệ giữa các dữ kiện của đề bài với phép tính tương ứng.
Ví dụ: Bài 2 trang 52 SGK
Trong ngày hội cồng chiêng, đội Một có 11 người tham gia, đội Hai có
số người tham gia ít hơn đội Một là 4 người. Hỏi đội Hai có bao nhiêu người
tham gia ngày hội?
- Yêu cầu học sinh nêu đội Một cồng chiêng có bao nhiêu người tham
gia? ( 11 người).
- Yêu cầu học sinh phân tích đội Hai (đội Hai có số người tham gia ít
hơn đội Một là 4 người).
- Giáo viên cho học sinh ghi phép tính tìm đội Hai có bao nhiêu người
tham gia vào giấy nháp ( 11 - 4 = 7).
- Giáo viên theo dõi giúp đỡ học sinh yếu.
* Trình bày bài giải:
Về trình bày bài giải, học sinh viết được câu lời giải và phép tính tương
ứng. Tơi kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời, sau đó viết câu
lời giải. Lúc đầu học sinh có lúng túng giáo viên nên chấp nhận cách diễn đạt
tuy có "vụng về" nhưng đúng ý là được. Cái khó nhất của giải tốn có lời văn
ở lớp 2 chính là trình bày câu lời giải, do đó giáo viên tập cho học sinh diễn
đạt câu lời giải theo nhiều cách khác nhau, không vội vàng mà làm thay cho
học sinh. Tôi hướng dẫn học sinh diễn đạt câu lời giải bàng các cách sau:
Ví dụ: Phần hoạt động SGK Trang 51
Trong hội thi hát quan họ, thôn Thượng tham gia 9 tiết mục, thôn Hạ tham


19
gia ít hơn thơn Thượng 3 tiết mục. Hỏi thơn Hạ tham gia bao nhiêu tiết mục?
- Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán bỏ bớt từ "Hỏi" ở đầu câu và

"bao nhiêu " thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số”, rồi thêm từ "là" ở cuối câu để
có câu lời giải: "Thơn Hạ tham gia số tiết mục là:".
- Cách 2: Cũng như trên dựa vào các câu hỏi của bài toán đưa từ "tiết
mục" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ "Số" ở đầu câu,
bỏ từ "Bao nhiêu", rồi thêm từ "là" ở cuối câu để có: "Số tiết mục thơn Hạ
tham gia là".
Tơi vẫn khuyến khích học sinh trình bày câu lời giải đầy đủ và hồn
chỉnh như cách 1 và cách 2. Sau đó cho học sinh yếu kém nhắc lại. Từ đó
khắc sâu và nhấn mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng
với yêu cầu của bài toán phải dựa vào cái cần tìm ( đây cũng chính là câu hỏi
của bài tốn ). Đối với học sinh khá giỏi, tơi khích lệ học sinh tìm câu trả lời
khác mà vẫn đúng yêu cầu cần tìm.
* Kiểm tra lại bài giải:
Học sinh tiểu học nói chung cũng như học sinh lớp 2 nói riêng thường
có thói quen làm bài xong khơng kiểm tra lại bài làm. Vì vậy tơi ln nhắc
nhở và tạo cho học sinh có thói quen khi làm bài xong phải kiểm tra lại câu
lời giải; phép tính; danh số; đáp số của bài toán. Nếu thấy câu trả lời chưa
đúng thì cần đọc lại câu hỏi của bài tốn để có câu trả lời đúng, trong trường
hợp học sinh viết sai danh số, thì tơi cho học sinh đọc lại câu hỏi của bài tốn
để tìm được danh số đúng (danh số của phép tính thường là những từ viết sau
từ: “bao nhiêu”; “mấy”.
3.4. Biện pháp 4: Tạo ra các phong trào thi đua trong lớp
Bác Hồ của chúng ta từng nói: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải
thi đua”. Để nói rằng một đất nước muốn có sự phát triển thì những con người
trong đất nước đó phải có sự thi đua nhau.


20
Đối với học sinh, thi đua mang lại cho các em sự vui thích, thú vị, hào hứng
đơi khi chỉ vì mong được cơ thầy khen. Chính vì thế để các em học tốt giải tốn

có lời văn ở lớp 2 tôi đã đưa các em vào các phong trào thi đua của lớp.
- Phong trào “ Đôi bạn cùng tiến”
- Phong trào học tập
* Phong trào đôi bạn cùng tiến là phong trào đôi bạn cùng bàn biết giúp
đỡ lẫn nhau trong học tập cùng tiến bộ. Cuối tuần Ban cán sự lớp sẽ báo cáo
nhóm làm tốt và nhóm làm chưa tốt. Từ đó các em sẽ biết phát huy, hay khắc
phục nhược điểm của nhau để cùng tiến bộ.

Phong trào đôi bạn cùng tiến



×