Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN ĐƯỜNG lối CHUNG để HƯỚNG dẫn học SINH GIẢI một bài TOÁN có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.5 KB, 10 trang )

SKKN : ĐƯỜNG LỐI CHUNG
ĐỂ HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI MỘT BÀI TOÁN CÓ
LỜI VĂN
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp, hình
thành kĩ năng giải toán cho học sinh tiểu học khó hơn nhiều so với
hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hiện các phép tính, vì các bài toán
có lời văn là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ
toán học. Giải toán không phải chỉ là nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi
hỏi học sinh nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, đòi hỏi khả
năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết làm tính thông
thạo, khả năng hiểu biết thực tế cuộc sống.
Để giúp học sinh tiểu học thực hiện hoạt động giải toán có
kêt quả, cần giúp cho các em nắm được một số bước của quy tắc
chung, hướng dẫn các em thực hiện theo 5 bước sau:
* Bước 1: Nghiên cứu kĩ đầu bài.
Cần đọc kĩ bài toán dù bài toán cho ở dạng có lời văn hoàn
chỉnh hay bằng dạng tóm tắt. Học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ
đề toán cho biết cái gì? Bài toán hỏi gì? Ở bước này, tùy từng
đối tượng học sinh mà giáo viên có thể sử dụng các phương
pháp khác nhau để yêu cầu học sinh đọc và tìm hiểu đề. Chẳng
hạn yêu cầu học sinh đọc thầm đề bài và dùng bút chì gạch 1
gạch dưới cái đã cho và gạch 2 gạch dưới cái phải tìm (phương
pháp bút đàm) sau đó cho học sinh thuật lại vắn tắt bài toán mà
không cần phải đọc nguyên văn bài toán đó (tức là đọc lại đề
bài sau khi đã lược bỏ những yếu tố phi toán học).
* Bước 2: Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề bài.
- Minh họa bài toán bằng cách tóm tắt nội dung bài toán
bằng ngôn ngữ, kí hiệu ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ, … Ở
bước này người giáo viên cần giúp học sinh tìm ra cách tóm tắt
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tìm ra cách giải nhất. Chẳng hạn:
Với bài toán: “Một hình chữ nhật có chiều dài hơn chiều


rộng 3cm. Nếu gấp chiều dài lên 5 lần mà vẫn giữ nguyên chiều
rộng thì chiều dài mới sẽ lớn hơn chiều rộng 31 cm. Tính chiều
1


dài của hình chữ nhật đã cho. Ta có thể tóm tắt theo 3 cách như
sau:
Cách 1
Rộng

3

Dài

3

Cách 2
Rộng

3

3

3

5 lần dài
31cm

3


Cách 3
Dài hơn rộng 3cm

Dài

3

Gấp dài lên 5 lần

5 lần dài
3 3

3 3 3

Dài mới hơn rộng
31cm
Dài ..... cm?

31cm
Tuy nhiên:

- Cách 3 vừa dài lại khó nhìn thấy cách giải bài toán.
- Cách 1 vừa ngắn gọn vừa có thể nhìn thấy cách giải ngay
nhưng có nhược điểm là các đoạn thẳng cứ na ná giống nhau khó
phân biệt được đoạn thẳng biểu thị chiều rộng và đoạn thẳng biểu
thị 3cm.
- Cách 2 dễ hiểu, dễ tìm ra cách giải.
* Bước 3: Lập kế hoạch giải toán (phân tích bài toán để
tìm cách giải).
- Lập kế hoạch giải bài toán nhằm xác định hướng giải

quyết, thực hiện các phép tính số học. Có hai hình thức được thể
hiện như: “Đi từ câu hỏi của bài toán đến các số liệu”(Đường lối
phân tích) hoặc đi từ số liệu (dữ kiện) đến các câu hỏi của bài toán
(Đường lối tổng hợp).
Ví dụ 1: Hình chữ nhật ABCD có chiều rộng bằng 3cm,
chiều dài gấp đôi chiều rộng. Tính chu vi và diện tích của hình
chữ nhật đó. (Bài 2 trang 156-SGK Toán 3)
Cách 1: Hướng dẫn “Xuất phát từ câu hỏi đến các dữ kiện
của bài toán”(Đường lối phân tích):
+ Bài toán hỏi gì? (Tính chu vi và diện tích hình chữ nhật)

2


+ Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta làm thế nào? (Lấy chiều
dài cộng chiều rộng được bao nhiêu nhân với 2 (cùng một đơn vị
đo))
+ Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm thế nào? (lấy
chiều dài nhân chiều rộng (cùng một đơn vị đo))
+ Chiều dài biết chưa? (Chưa biết)
+ Chiều rộng biết chưa? (Biết rồi)
+ Muốn tìm chiều dài ta làm thế nào? (Lấy chiều rộng nhân
với 2)
(Có thể yêu cầu học sinh suy nghĩ theo gợi ý trên rồi diễn tả
quá trình suy nghĩ đó bằng sơ đồ:
=

Diện tích

=


Chu vi

=

dài

=

(dài + rộng) x 2
rộng x 2

x rộng

rộng x 2)

Cách 2: Hướng dẫn “Xuất phát từ dữ kiện đến câu hỏi của
bài toán”(Đường lối tổng hợp):
+ Bài toán cho biết gì? (Chiều rộng bằng 3cm chiều dài gấp
đôi chiều rộng).
+ Biết chiều rộng bằng 3cm chiều dài gấp đôi chiều rộng ta
có thể biết được cái gì? (Chiều dài). Bằng cách nào? (Lấy 3 nhân
2).
+ Biết chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật ta có thể tìm được
gì? Bằng cách nào?
( - Chu vi. Bằng cách lấy chiều dài cộng với chiều rộng rồi
nhân với 2.
- Diện tích. Bằng cách lấy chiều dài nhân chiều rộng)
Ví dụ 2: Trường tiểu học Đại Tự vừa nhập về 780 cuốn sách
giáo khoa TV1-CGD. Trong đó có 8 bao nhỏ, mỗi bao nhỏ có 10

cuốn sách. Còn lại là một số bao lớn. Tính xem có bao nhiêu bao
lớn (Biết rằng mỗi bao lớn có 20 cuốn sách)?
3


Cách 1: Hướng dẫn “Xuất phát từ câu hỏi đến các dữ kiện
của bài toán”(Đường lối phân tích):
+ Bài toán hỏi gì? (Có bao nhiêu bao lớn?)
+ Muốn tìm số bao lớn ta làm thế nào? (Lấy số sách trong
các bao lớn chia cho số sách trong một bao lớn)
+ Số sách trong các bao lớn biết chưa? (Chưa biết)
+ Số sách trong một bao lớn biết chưa? (Biết rồi)
+ Muốn tìm số sách trong các bao lớn ta làm thế nào? (Lấy
tổng số sách trừ đi số sách trong các bao nhỏ).
+ Tổng số sách biết chưa? (biết rồi)
+ Số sách trong các bao nhỏ biết chưa? (chưa biết).
+ Muốn tìm số sách trong các bao nhỏ ta làm thế nào? (Lấy
số sách trong một bao nhỏ nhân với số bao nhỏ).
Cách 2: Hướng dẫn “Xuất phát từ dữ kiện đến câu hỏi của
bài toán”(Đường lối tổng hợp):
+ Bài toán cho biết gì? (Có 780 cuốn sách. Trong đó có 8
bao nhỏ, mỗi bao có 10 cuốn sách và một số bao lớn, mỗi bao có
20 cuốn sách)
+ Từ 8 bao nhỏ, mỗi bao có 10 cuốn sách có thể biết được
cái gì? (Số cuốn sách trong các bao nhỏ) Bằng cách nào? (Lấy 10
nhân 8)
+ Từ tổng số sách đã cho là 780 cuốn và biết được số sách
trong các bao nhỏ ta có thể biết được cái gì? (Biết được số cuốn
sách trong các bao lớn). Bằng cách nào? (Lấy tổng số sách (780)
trừ đi số sách trong các bao nhỏ vừa tìm được).

+ Đã biết được mỗi bao lớn đựng 20 cuốn sách và tìm được
số sách đựng trong các bao lớn thì ta có thể biết được gì? (Biết
được số bao lớn). Bằng cách nào? (Lấy số sách có trong các bao
lớn chia cho 20).
Ví dụ 3: Nước biển chứa 5% muối (theo khối lượng). Hỏi
phải thêm vào 20kg nước biển bao nhiêu ki-lô-gam nước lã để
4


được một loại nước chứa 2% muối? (Bài 49 trang 106- 10 chuyên
đề BD HSG Toán 4-5 của Trần Diên Hiển)
Cách 1: Hướng dẫn “Xuất phát từ câu hỏi đến các dữ kiện
của bài toán”(Đường lối phân tích):
+ Bài toán hỏi gì? (Phải thêm vào 20kg nước biển bao nhiêu
ki-lô-gam nước lã để được một loại nước chứa 2% muối?)
+ Muốn tìm khối lượng nước lã phải thêm vào 20kg nước
biển để được dung dịch 2% muối ta làm thế nào? (Lấy khối lượng
dung dịch 2% muối trừ đi 20kg).
+ Khối lượng dung dịch 2% muối biết chưa? (Chưa biết).
+ Muốn tìm khối lượng dung dịch 2% muối ta làm thế nào?
(Lấy khối lượng muối trong dung dịch 2% chia cho 2/100).
+ Khối lượng muối trong dung dịch 2% như thế nào so với
khối lượng muối trong 20kg nước biển? (Bằng nhau).
+ Muốn tìm khối lượng muối trong dung dịch 2% ta làm thế
nào? (Lấy khối lượng nước biển nhân 5/100)
Cách 2: Hướng dẫn “Xuất phát từ dữ kiện đến câu hỏi của
bài toán”(Đường lối tổng hợp):
+ Bài toán cho biết gì? (Có 20kg nước biển chứa 5% muối.
Đổ một số ki-lô-gam nước lã vào 20kg nước biển thì được dung
dịch chứa 2% muối)

+ Biết có 20kg nước biển chứa 5% muối ta có thể tìm được
gì? (Khối lượng muối). Bằng cách nào? (Lấy 20 nhân 5/100 (Bài
toán 2-Tỉ số phần trăm)).
+ Biết khối lượng muối trong 20kg nước biển ta có thể biết
được cái gì? (Biết khối lượng muối trong dung dịch 2% muối). Vì
sao? (Đổ nước lã vào nước biển thì khối lượng muối không đổi).
+ Biết khối lượng muối trong dung dịch 2% muối ta có thể
tìm được gì? (Khối lượng dung dịch 2% muối). Bằng cách nào?
(Lấy khối lượng muối chia cho 2/100 (Bài toán 3-Tỉ số phần
trăm))

5


* Qua ba ví dụ trên, ta thấy hai cách hướng dẫn học sinh suy
nghĩ để tìm cách giải bài toán có lời văn ở trên đều có những ưu
điểm và tồn tại nhất định. Cụ thể là:
Đường lối tổng hợp rõ ràng, dễ hiểu nhưng lại có nhược
điểm là không nêu rõ lí do của mỗi việc làm.
Còn đường lối phân tích thì ngược lại, học sinh luôn hiểu rõ
lí do của mỗi việc làm, hiểu rõ vì sao lại chọn phép tính này mà
không chọn phép tính kia. Như vậy suy nghĩ luôn có phương
hướng xác định, tính tích cực, chủ động được phát huy. Song nếu
hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải toán bằng phương pháp này
thì bài giảng thường dài hơn, tốn nhiều thời gian hơn. Vả lại với
học sinh có khó khăn trong học tập môn toán hoặc với những bài
toán khó như ví dụ 3 thì dùng phương pháp này sẽ khó thu được
hiệu quả như mong muốn.
Như vậy tùy từng đối tượng học sinh, tùy nội dung bài cụ thể
mà giáo viên có thể lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh

phân tích đề bài toán để tìm cách giải một cách phù hợp và hiệu
quả.
* Bước 4: Hướng dẫn trình bày bài giải bài toán:
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu
trong kế hoạch giải bài toán và trình bày bài giải.
Để thực hiện được việc này phải dựa vào bước 3. Nếu bước
3 ta làm theo cách 1 (Đường lối phân tích) thì ta đi ngược từ cuối
lên để thực hiện các phép tính và viết bài giải. Còn nếu bước 3 ta
làm theo cách 2 (Đường lối tổng hợp) thì ta đi xuôi từ trên xuống
để thực hiện các phép tính và viết bài giải. Chẳng hạn ở ví dụ 2 ta
có thể trình bày bài giải như sau:
Bài giải:
Số cuốn sách có trong các bao nhỏ là:
10 x 8 = 80 (cuốn)
Số cuốn sách có trong các bao lớn là:
780 – 80 = 700 (cuốn)
Số bao lớn có là:
6


700 : 20 = 35 (bao)
Đáp số: 35 bao lớn
Hiện nay, ở tiểu học, học sinh có thể áp dụng một trong các
cách trình bày các phép tính như trình bày các phép tính riêng biệt
(ở trên) hay có thể trình bày theo dưới dạng biểu thức như gộp vào
phép tính lại với nhau.
* Bước 5: Kiểm tra kết quả của bài toán.
Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả
của bài toán đã tìm ra là một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục
các em đức tính cẩn thận, chu đáo, ý thức trách nhiệm với công

việc mình làm.
Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải của bài toán
đúng hay sai. Nếu sai thì sai ở chỗ nào để sửa chữa. Nếu cách giải
đúng thì ghi đáp số. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các cách
kiểm tra kết quả của bài toán như:
- Cách 1: Kiểm tra xem đã tính đúng chưa, viết câu trả lời đã
hợp lí chưa? Đáp số đã thỏa mãn các điều kiện của đề bài chưa?
- Cách2: Giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau nếu có
cùng kết quả thì bài toán làm đúng.
- Cách 3: Xây dựng bài toán ngược rồi giải bài toán đó.
* Ví dụ minh họa:
Hướng dẫn học sinh giải bài toán:
“An có 15 viên bi và có ít hơn Bình 2 viên bi. Chi có số bi
nhiều hơn An nhưng lại ít hơn Bình. Hỏi cả ba bạn có bao nhiêu
viên bi?” (Đề kiểm tra BDGV- PGD Yên Lạc)
Bước 1: Cho học sinh đọc và tìm hiểu đề.
H: + Bài toán cho biết gì? (- An có 15 viên bi
- An có ít hơn Bình 2 viên bi
- Chi có số bi nhiều hơn An nhưng
lại ít hơn Bình)
+ Bài toán hỏi gì? (Cả ba bạn có bao nhiêu viên bi?)
7


Bước 2: HD HS tóm tắt đề bằng sơ đồ đoạn thẳng
15
An
Bình
Chi


2
? viên bi

Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải.
+ Bài toán hỏi gì? (Cả ba bạn có bao nhiêu viên bi?)
+ Muốn biết số bi của cả ba bạn ta làm thế nào? (Lấy số bi
của An cộng với số bi của Bình cộng với số bi của Chi)
+ Số bi của An biết chưa? (Biết rồi)
+ Số bi của Bình và của Chi biết chưa? (Chưa biết)
+ Muốn tìm số bi của Bình ta làm thế nào? (Lấy số bi của An
cộng với 2)
+ Muốn tìm số bi của Chi ta làm thế nào? (So sánh để tìm số
lớn hơn số bi của An và nhỏ hơn số bi của Bình)
(có thể yêu cầu học sinh suy nghĩ theo những gợi ý trên rồi diễn tả
quá trình suy nghĩ đó bằng sơ đồ:
Ba bạn
//
An +
Bình +
Chi
//
//
An +2 An Bước 4: Trình bày bài giải.
Số bi của Bình là:
15 + 2 = 17 (viên bi)
Số bi của Chi nhiều hơn số bi của An nhưng lại ít hơn số bi
của Bình nên số bi của Chi là số lớn hơn 15 và bé hơn 17. Vậy số
bi của Chi là 16 viên bi.
Số bi của cả ba bạn là:

15 + 16 + 17 = 48 (viên bi)
8


Đáp số: 48 viên bi
Bước 5: Kiểm tra kết quả và tìm hướng giải khác.
Hướng dẫn học sinh đặt bài toán ngược với bài toán trên rồi
giải để kiểm tra kết quả. Chẳng hạn cho học sinh đặt đề và giải bài
toán sau nếu số bi của An bằng 15 viên và số bi của Bình ít hơn số
bi của Chi và nhiều hơn số bi của An thì bài toán trên làm đúng:
“Ba bạn An, Bình và Chi có tất cả 48 viên bi. Bình có 17
viên bi và có nhiều hơn An 2 viên bi. Hãy so sánh số bi của Bình
với số bi của An và số bi của Chi.”
Tóm lại, để giúp học sinh tiểu học có thể làm tốt dạng toán
có lời văn, người giáo viên cần thực hiện tốt và đầy đủ 5 bước trên
(có tài liệu ghi là 4 bước song vẫn đủ các việc làm trên), không
xem nhẹ bất cứ bước nào. Song tùy từng đối tượng học sinh, tùy
từng nội dung cụ thể mà linh hoạt thực hiện kĩ một số bước nào
đó. Chẳng hạn:
- Với học sinh lớp 1, 2 và những học sinh có khó khăn trong
học tập môn toán ta không những cần phải hướng dẫn kĩ, tỉ mỉ 3
bước 1; 2; 3 mà còn phải hướng dẫn thật tỉ mỉ bước 4. hướng dẫn
kĩ từ cách viết câu trả lời đến cách viết phép tính, viết đơn vị và
đáp số. Hay ở bước 3 cần có thêm các câu hỏi phụ gợi ý để học
sinh có thể tìm ra cách giải.
- Với học sinh lớp 3, 4, 5 ta chỉ cần hướng dẫn thật kĩ 3 bước
trên thì việc trình bày bài giải và kiểm tra lại kết quả không còn là
vấn đề đối với các em. Hay:
- Khi hướng dẫn học sinh giải các dạng toán điển hình
(không phải là bài mới), chẳng hạn, với bài toán: “Số lít nước

mắm loại I nhiều hơn số lít nước mắm loại II là 12l. Hỏi mỗi loại
có bao nhiêu lít nước mắm, biết rằng số lít nước mắm loại I gấp 3
lần số lít nước mắm loại II?” (Bài 2 trang 18-SGK Toán 5) thì sau
khi thực hiện tốt bước 1 và bước 2, ở bước 3, chỉ cần hướng dẫn
học sinh nhận ra đây là “bài toán về tìm hai số khi biết hiệu và tỉ
số của hai số đó” và nhắc lại cách làm loại toán điển hình này rồi
áp dụng các bước giải của loại toán điển hình này để thực hiện
bước 4.
9


- Với đối tượng học sinh giỏi, ta lại đặc biệt chú trọng bước
5 “Kiểm tra kết quả bài toán”. Ở bước này, ta nên hướng học sinh
giỏi ngoài cách kiểm tra tính hợp lí của đáp số còn nên kiểm tra
kết quả bằng cách giải bài toán bằng các cách khác nhau và cách
đặt bài toán ngược để giải. Như vậy, ta phát triển tư duy sáng tạo
của các em, giúp các em linh hoạt, sáng tạo hơn đồng thời phát
triển năng lực tự học của các em.
Trên đây là phương pháp hướng dẫn học sinh tiểu học giải
toán có lời văn mà bản thân tôi đã học hỏi được trên sách, báo, tài
liệu và áp dụng vào thực tế giảng dạy. Tuy nhiên do năng lực và
kinh nghiệm của bản thân có hạn nên bài viết còn nhiều hạn chế.
Kính mong bạn đọc góp ý, bổ sung giúp tôi có phương pháp
hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn một cách hiệu quả
nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
Đại Tự, ngày 06 tháng 9
năm 2015
Người viết
Nguyễn Quế Anh


10



×