Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " NHU CẦU VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ GIẢM TỔN THẤT TRONG SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 7 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM












HỘI THẢO 1


NHU CẦU VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ
GIẢM TỔN THẤT TRONG SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG








CẦN THƠ, THÁNG 6 - 2006
Mục tiêu hội thảo
Đề án “Điều tra và kiểm soát sự nứt hạt lúa trên đồng ruộng và sau thu hoạch ở


đồng bằng sông MêKông của Việt Nam “ nằm trong chương trình hợp tác phát triển
nông nghiệp và nông thôn (Collaboration for Agriculture and Rural Development
Program, viết tắt là CARD) do Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
(MARD) phối hợp với cơ quan tài trợ của chính phủ Uc (AusAID) nhằm giúp các nông
hộ nhỏ của Việt Nam tăng thu nhập trong sản xuất lúa gạo nhờ hoàn thiện chất lượng
lúa g
ạo nên nông dân sẽ có khả năng bán giá sản phẩm cao hơn. Các hợp tác xã của
nông dân sẽ củng cố năng lực tiếp thị thông qua việc thực hiện đề án này. Các người
liên quan khác như cung cấp dịch vụ và nhân viên khuyến nông sẽ có ích lợi nhờ hoàn
thiện kiến thức và mở rộng cơ hội công việc.
Đề án sẽ tiến hành điều tra và kiểm soát sự nứt hạt lúa cả trên đồng ruộng và sau thu
hoạch ở ĐBSCL trong 3 năm từ tháng 03/2006 đến tháng 03/2009. Sự nứt hạt có tính
tích lũy từ khâu thu hoạch (gặt, đập) cho đến sấy, xay xát. Các thí nghiệm và khảo sát
sẽ tiến hành trên đồng ruộng nhằm đánh giá sự nứt hạt và tổn thất do phương pháp thu
hoạch gây nên. Việc khảo sát thí nghiệm sẽ tiến hành trên nhiều giống lúa ở các mùa vụ
khác nhau. Các hệ thống sấy hiện có ở ĐBSCL sẽ được kh
ảo sát và thí nghiệm nhằm
đánh giá tính năng và hiệu qủa sấy. Tổn thất do xay xát sẽ được khảo sát trên vài hệ
thống máy tiêu biểu liên quan đến qui trình công nghệ sấy. Các kết quả của đề án sẽ
được phổ biến thông qua chương trình khuyến nông phối hợp với các trung tâm khuyến
nông tỉnh.
Để đạt được các mục tiêu trên, hội thảo chuyên đề “ Nhu cầu và biện pháp nâng cao
chất lượng và giảm tổn thất trong sả
n xuất lúa gạo ở ĐBSCL” được tổ chức nhằm
thảo luận hiện trạng và nhu cầu của công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch trong sản
xuất lúa gạo ở ĐBSCL với sự đóng góp ý kiến của đại diện các Sở NN & PTNT và
Trung tâm khuyến nông của các tỉnh cũng như từ phía các nhà sản xuất. Hội thảo sẽ nêu
bật lên các ưu khuyết điểm của từ
ng công nghệ và xu hướng phát triển tương lai. Hội
thảo sẽ giúp tìm ra mối liên hệ giữa kiểm soát sự nứt hạt với sự tăng giá trị và chất

lượng hạt gạo trong sản xuất lúa gạo. Việc tổ chức hội thảo trước khi thực hiện đề án sẽ
giúp tổng kết những vấn đề quan trọng qua kinh nghiệm từ những chương trình trước
đây từ đ
ó đề án sẽ tập trung vào những hướng trọng điểm hơn, thiết thực hơn.

TS. Trương Vĩnh
Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Chủ nhiệm chương trình CARD – 026/VIE05

TÓM TẮT HỘI THẢO

“Nhu cầu và biện pháp nâng cao chất lượng và giảm tổn thất trong sản xuất lúa gạo
ở ĐBSCL
(MRD) “(Cần Thơ, tháng 6 - 2006)
Hội thảo bao gồm hai phần chính là thứ nhất thảo luận chung về nhu cầu và biện pháp để nâng
cao chất lượng và giảm tổn thất trong sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL và thứ hai là các khía cạnh kỹ
thuật về thu hoạch, sấy và xay xát. Trong thảo luận chung, các báo cáo của Viện lúa ĐBSCL
và Tiểu hợp phần xử lý sau thu hoạch đại diện cho cấp vùng, còn các báo cáo của tỉnh Sóc
Tră
ng và Tiền Giang đại diện cho cấp tỉnh. Trong thảo luận kỹ thuật, công ty Vinappro báo cáo
máy thu hoạch, ĐH Nông Lâm báo cáo sấy, và công ty Bùi văn Ngọ báo cáo xay xát. Ngoài ra
còn có các báo cáo của các tỉnh Bến Tre, Hậu Giang, v.v,.
Theo số liệu của Viện lúa ĐBSCL, có 500-600 máy gặt xếp dãi hiện đang hoạt động ở
ĐBSCL. Đây là một số lượng quá nhỏ so với nhu cầu cơ giới thu hoạch nên hầu hết vẫn thu
hoạch bằng tay. Khâu đập lúa đã
được cơ giới hóa trên 95%. Thu hoạch bằng tay rồi đập máy
năng suất khoảng 2 ha/ngày với tổn thất 3-6%. Báo cáo của Tiểu hợp phần STH cho thấy tổng
tổn thất STH là 10-15%. Từ năm 2002, nông dân đã nhận thức được sấy máy tốt hơn phơi. Do
vậy, tổn thất vẫn cao là vì qui trình sấy của người sử dụng chưa đúng. Tiểu hợp phần STH đề
nghị xây dựng các vùng sả

n xuất lúa đặc trưng chỉ trồng 1-2 giống lúa. Họ cũng đề nghị thiết
lập cầu nối giữa nông dân, các nhà sản xuất công nghiệp, các nhà khoa học và nhà quản lý để
hoàn thiện chất lượng sản xuất lúa gạo. Trung tâm khuyến nông tỉnh Sóc Trăng báo cáo tổng
tổn thất STH là 13.38% của năm 2003. Nhu cầu là 100 máy gặt, và 900 máy sấy cho đến năm
2010. Họ đề nghị tổ chức các khâu từ mua lúa tươi cho đến s
ấy, xay xát, và tiêu thụ ở cấp tỉnh.
Trung tâm khuyến nông tỉnh Tiền Giang báo cáo tổn thất thu hoạch là 4.5%. Theo họ, việc thu
hoạch ở Tiền Giang lúc nào cũng trễ do thiếu lao động và máy thu hoạch. Sấy máy hiện chiếm
25% tổng lúa phơi sấy. Xay xát gặp vấn đề chất lượng hạt không đều và thiết bị cũ. Họ đề nghị
hoàn thiện kiến thức nông dân về trồng lúa liên quan đến công nghệ sau thu hoạch thích hợ
p.
Báo cáo cũng đề nghị chính phủ có chính sách ưu đãi về tài chính cho nông dân đầu tư thiết bị
cơ giới hóa sản xuất lúa gạo.
Công ty Vinappro thảo luận về kinh nghiệm trong quá trình phát triển máy gặt đập liên hợp
(GĐLH). Hầu hết ruộng lúa ở ĐBSCL có kích thước nhỏ nên phù hợp với máy GĐLH cở nhỏ
và trung. Nền đất yếu cũng là vấn đề thách thức sự di chuyển của máy GĐ
LH. Do vậy, công ty
tập trung giải quyết vấn đề này theo hướng chế tạo máy nhẹ và đạt được một số kết quả tốt ban
đầu. Công ty Bui van Ngo tập trung phân tích công nghệ xay xát. Năng lượng tiêu hao của các
hệ thống xay xát hiện tại vào khoảng 35-38kWh/ tấn lúa. Với điều kiện chuẩn, toàn bộ quá
trình xay xát gây nên 8% gạo gãy. Nghĩa là lúa tốt xay bằng máy xay chất lượng trung bình có
thể đạt 60% tỉ lệ gạo nguyên (HRY). Hay nói cách khác, HRY dưới 60% là kết qu
ả hoặc do
máy xay xát kém chất lượng hoặc do xử ly’ sau thu hoạch kém. Họ đề nghị thiết lập các hệ
thống xay xát ở ĐBSCL với năng suất lớn 300 000 đến 500 000 tấn/năm phục vụ mục đích
xuất khẩu. Ngoài ra, chi phí xay xát có thể giảm bằng cách sử dụng trấu làm năng lượng và sản
xuất ethanol từ hạt gạo tấm nhỏ.
Đại học Nông Lâm tham luận công nghệ sấ
y ở ĐBSCL trong quá khứ và 15 năm tới. Sấy lúa
bằng máy có hiệu quả rõ ràng nhưng vẫn chưa đủ thuyết phục nông dân. Số lượng máy sấy đã

tăng gần đây nhưng vẫn còn rất xa so với nhu cầu. Chính phủ nên kiểm soát mạnh mẽ công
nghệ sấy. Các nhà khoa học và nhà sản xuất phải làm việc cật lực hơn nữa để thay đổi suy nghĩ
của nông dân.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM











HỘI THẢO 2



TỔNG KẾT 1 NĂM HOẠT ĐỘNG
CHƯƠNG TRÌNH CARD 026/VIE05
THẢO LUẬN MÔ HÌNH GIA TĂNG LỢI ÍCH
CHO NÔNG DÂN NGHÈO TỪ NHỮNG TIẾN BỘ
CỦA CÔNG NGHỆ THU HOẠCH VÀ SAU THU
HOẠCH


TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 06/2007
TỔNG KẾT HỘI THẢO

“TỔNG KẾT 1 NĂM HOẠT ĐỘNG CHƯƠNG TRÌNH CARD026/VIE05-
THẢO LUẬN MÔ HÌNH GIA TĂNG LỢI ÍCH CHO NÔNG DÂN NGHÈO TỪ NHỮNG TIẾN
BỘ CỦA CÔNG NGHỆ THU HOẠCH VÀ SAU THU HOẠCH”

Hội thảo “Tổng kết 1 năm hoạt động chương trình CARD026/VIE05-Thảo luận mô hình gia
tăng lơi ích cho nông dân nghèo từ những tiến bộ của công nghệ thu hoạch và sau thu hoạch”
là cơ hội để các bên liên quan như
Đại học Nông Lâm TP.HCM, Sở Nông nghiệp và Khuyến
nông các tỉnh thành, các trung tâm khuyến nông và đại diện của các hợp tác xã ở khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) báo cáo kết quả đạt được và trao đổi kinh nghiệm của các
chuyên gia trong từng lĩnh vực. Các báo cáo tại hội thảo tập trung vào các hoạt động chính của
dự án cũng như tình hình sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL, như là khảo sát tổn thất do thời đi
ểm thu
hoạch, phương pháp thu hoạch và sấy lúa. Hội thảo cũng đề cập đến các đánh giá về tình hình
sử dụng trang thiết bị trong xay xát và sấy lúa ở ĐBSCL. Ngoài ra, Hội thảo còn thảo luận về
nâng cao kỹ thuật sấy đối với máy sấy tĩnh và các vấn đề kỹ thuật liên quan.


1. Ảnh hưởng của thời điểm thu hoạch

Thí nghiệm được thực hiện tạ
i 3 địa điểm bao gồm Cần Thơ, Kiên Giang và An Giang trên
nhiều giống lúa và ở các mùa vụ khác nhau. Kết quả điều tra cho thấy đa số nông hộ không thu
hoạch lúa đúng thời điểm sinh trưởng tối ưu (50-90% nông dân thu hoạch lúa trễ 1-3 ngày do
thiếu nhân công). Ngoài ra, chất lượng gạo (tỉ lệ gạo gãy và hệ số thu hồi gạo nguyên) bị ảnh
hưởng bởi cả hai yếu tố là thời đi
ểm thu hoạch và giống gạo. Hầu hết các giống lúa nói chung
được thu hoạch sau ngày chín sinh lý (90 ngày đối với các giống OM1490, OM2718, AG24 và
98 ngày đối với giống Jasmin) có tỉ lệ gạo gãy cao hơn và hệ số thu hồi gạo nguyên thấp hơn
so với thu hoạch trước ngày chín sinh lý. Sau ngày chín sinh lý, thu hoạch càng trễ sẽ dẫn đến

tỉ lệ gạo gãy càng cao. Hội thảo cũng khuyến cáo các nông hộ nên gieo trồng các giống gạo
vốn có tỉ lệ gạo gãy thấ
p như AG24. Bên cạnh đó, nông hộ cũng cần hết sức chú ý đến việc thu
hoạch đúng hạn đối với các giống gạo có tỉ lệ gạo gãy cao như OM1490. Hội thảo cũng đề
nghị các kết quả trên nên được thông tin rộng rãi đến nông dân thông qua các hội thảo, bộ phận
khuyến nông và chương trình tập huấn. Bên cạnh đó, các nguyên nhân dẫn đến thu hoạch trễ
hạn như thiếu nhân công, t
ổ chức lao động tại địa phương, cơ giới hóa các hoạt động thu hoạch
cũng được đề cập trong Hội thảo.
Tóm lại, thu hoạch đúng hạn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để giảm thiểu hiện
tượng nứt hạt và hệ số thu hồi gạo nguyên thấp.

2. Ảnh hưởng của phương pháp thu hoạch

Theo kết quả đi
ều tra, phương pháp thu hoạch phổ biến hiện nay ở các nơi là thủ công. Dựa
theo khảo sát sự nứt hạt và tỉ lệ gạo nguyên thu hồi bằng nhiều phương pháp thu hoạch khác
nhau trên một vài giống lúa trong vụ Xuân Hè (06/07) thực hiện ở Cần Thơ và Long An, cơ
giới hóa việc thu hoạch cho tỉ lệ gạo nguyên cao hơn thu hoạch bằng phương pháp thủ công.
Ngoài ra, cơ giới hóa việc thu hoạch còn giúp rút ngắn thời gian thu hoạ
ch và do đó làm giảm
sự tác động của thời tiết cũng như sự nứt hạt do thu hoạch trễ hạn gây nên. Các vấn đề này đã
được đề câp ở phần trên. Tuy nhiên, nông hộ không thể tự trang bị máy móc do thiếu vốn đầu
tư. Thông qua hội thảo, dự án đã tài trợ máy gặt và máy gặt đập liên hợp cho Hợp tác xã. Các
trang thiết bị này sẽ được sử dụng cho các bộ phận khuyến nông và phục vụ công tác t
ập huấn.

3. Tổn thất do rơi vãi trong quá trình thu hoạch và tổn thất do đập lúa

Bên cạnh các yếu tố gây nên tổn thất trong và sau quá trình thu hoạch như đã thảo luận ở các

phần trên, Hội thảo cũng đề cập đến các tổn thất do đập lúa và rơi vãi trên đồng gây nên. Kết
quả thí nghiệm cho thấy bất cứ phương pháp đập lúa nào, cơ giới lẫn thủ công, đều làm giảm tỉ
lệ
thu hồi gạo nguyên với tổn thất vào khoảng 1-4%. Ngoài ra thu hoạch trễ hạn cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến gia tăng tổn thất do đập lúa. Hơn nữa, tổn thất do đập lúa sẽ
thấp hơn so với thu hoạch bằng phương pháp thủ công nếu sử dụng máy gặt xếp dãi hay máy
gặt đập liên hợp để thu hoạch lúa.

Tóm lại, cơ giới hóa giúp giảm thiểu các thất thoát trong thu hoạch lúa
ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Kết quả thu được trong Hội thảo là một minh chứng thuyết phục cho khuynh hướng cơ
giới hóa công tác thu hoạch để đạt được mục tiêu phát triển sản xuất lúa gạo trong tương lai.

4. Ảnh hưởng của tác nhân sấy lên sự nứt hát và tỉ lệ gạo nguyên

Báo cáo thí nghiệm sấy trình bày sơ bộ kết quả thí nghiệm so sánh tỉ lệ gạo nguyên thu được
bằng nhiều phươ
ng pháp sấy khác nhau như sấy bằng máy và phương pháp sấy truyền thống là
phơi nắng và phơi trên đồng. Mặc dù thông số đầu vào trong thí nghiêm này chưa đồng bộ,
nhưng sấy bằng máy móc cho tỉ lệ gạo nguyên thu hồi cao hơn phơi nắng khoảng 2.17-6.03%.
Kết quả thí nghiệm này phù hợp với các báo cáo trước là phơi trên đồng làm giảm 8% tỉ lệ gạo
nguyên. Nhìn chung, tỉ lệ gạo nguyên thất thoát do phơi nắng và phơi trên
đồng vào khoảng
8.7%. Hội thảo cũng đề nghị cần thiết thực hiện nhiều hơn nữa các thí nghiệm trong mùa vụ tới
để đánh giá chính xác các tổn thất do phơi nắng gây ra và lợi ích của việc cơ giới hóa công tác
sấy. Trên cơ sở đó, sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp.

5. Ảnh hưởng của quá trình xay xát đến tỉ lệ gạo nguyên

Hội thảo cũng cung cấ

p cho đại biểu các thông tin và số liệu liên quan đến công tác xay xát ở
Tiền Giang và Kiên Giang. Hầu hết các nhà máy xay xát (khoảng 95%) là những nhà máy vừa
và nhỏ. Thật sự mức đầu tư và trang thiết bị chưa đồng bộ đã dẫn đến giảm chất lượng gạo. Ví
dụ, các nhà máy xay xát lớn hơn cho tỉ lệ gạo nguyên cao hơn những nhà máy vừa và nhỏ
(55% so với 51%). Do đó, kích cỡ của nhà máy cũng là một yếu tố làm gi
ảm tổn thất sau thu
hoạch. Hội thảo cũng xác định rằng trong tình hình hiện nay, cần thiết phải hạn chế sự gia tăng
số lượng của các nhà máy nhỏ và nhân rộng các nhà máy vừa ở địa phương. Bên cạnh đó,
thông qua các hoạt động khuyến nông và hội thảo như đã thực hiện lần này, các cán bộ khuyến
nông, các chủ nhà máy xay xát và nông dân được cập nhật thông tin cần thiết trong lĩnh vực
s
ản xuất lúa gạo để nâng cao chất lượng sản phẩm.
6. Đánh giá tổng tổn thất
Tổng tổn thất trong quá trình thu hoạch và sau thu hoạch đã được trình bày trong Hội thảo.
Dựa theo kết quả sơ bộ, ước lượng con số thất thoát từ 9-19%. Các tổn thất do sấy và phương
pháp thu hoạch cần được thực hiện nhiều thí nghiệm hơn nữa trước khi đưa ra con số chính
xác. Hội thảo cũng nhấn mạnh rằng nếu làm chủ được các công đoạn trong sản xuất lúa gạ
o
như phơi sấy trên đồng, thu hoạch đúng hạn, áp dụng đúng kỹ thuật sấy sẽ giúp giảm được 7%
thất thoát. Tính toán sơ bộ trên 5 triệu tấn gạo được sản xuất ở ĐBSCL trong vụ Hè Thu, con
số giảm thiểu thất thoát này (7%) tương đương với 60 triệu Mỹ kim.

×