Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 74 trang )

Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trị, tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh là một
q trình lâu dài.
Ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã thể hiện những nội dung rất cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Từ năm 1930 đến 1941, tư tưởng Hồ Chí
Minh được thử thách và khẳng định, đưa vào trong đường lối, chủ trương của Đảng.
Đại hội II của Đảng (2-1951) nêu rõ: “Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng
của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch… Toàn Đảng hãy ra sức học
tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy, là điều kiện
tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn” [1]. Qua các kỳ
Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị, sự kiện quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được
khẳng định và khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” được nêu ra một cách đầy đủ hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) đánh dấu một cột mốc quan trọng trong nhận thức
của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại kỳ đại hội này, Đảng khẳng định: “Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [5]. Đồng thời nêu rõ:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể
của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của
Đảng ta và của cả dân tộc” [6].
Tiếp nối quan điểm của Đại hội VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(4-2001), nêu lên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước
ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại”[7].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) đánh dấu bước phát triển cao trong nhận thức của
Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đã xác định khá tồn diện và có hệ thống những vấn đề cốt
yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống


quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta giành thắng lợi” [8].
Khái niệm trên đây đã thể hiện rõ:
- Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm tồn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của
cách mạng Việt Nam.
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện qua luận điểm “... là chủ nghĩa MácLênin, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại” trong khái niệm.
- Ý nghĩa cực kỳ quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do đó, cùng
với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

1


Toàn bộ những quan điểm thể hiện trong di sản mà Người để lại, đó là hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại, mà cốt
lõi là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn được rút ra từ cuộc đời hoạt động, đấu tranh của Hồ Chí
Minh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và những người bị áp bức trên thế giới, như: giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Q trình “hiện thực hóa” hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam, cũng như q trình Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam và của thời đại.
1.1.3. Vị trí của mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
Mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là một mơn học trong hệ thống các mơn học lý luận chính trị được

giảng tại tại các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam (Bao gồm: Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính
trị học Mác-Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí
Minh). Giữa các mơn học đó có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và các mơn Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin,
Chủ nghĩa xã hội khoa học là mối quan hệ giữa hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh với cơ sở của
nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Khơng có yếu tố “chủ nghĩa Mác-Lênin” thì
khơng thể có “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, nếu Hồ Chí Minh khơng tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin
thì khơng có tư tưởng mang tên Hồ Chí Minh.
Nếu tách rời hoặc đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin thì hồn tồn khơng
đúng về mặt lý luận và cả về mặt thực tiễn. Do đó, làm nên hệ tư tưởng của cách mạng Việt Nam hoàn
chỉnh phải bao gồm cả hai yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai thành phần này
là khơng thể thiếu và quan hệ chặt chẽ với nhau trong lý luận chính trị soi đường phát triển của dân tộc
Việt Nam.
- Trong mối quan hệ với môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (hoặc môn Đường lối Cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam), mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh càng có mối quan hệ chặt chẽ
hơn.
Như vậy, để nghiên cứu, học tập tốt môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, cần thiết phải nghiên cứu, học
tập các mơn học thuộc ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời phải nghiên cứu, học tập
tốt môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (hoặc môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam), đó là điều kiện để có thể nghiên cứu, học tập tốt mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Cơ sở phương pháp luận
1.2.1.1. Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách
quan khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc
hiện đại hóa tư tưởng của Người.
1.2.1.2. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc gắn lý luận với thực tiễn
Hồ Chí Minh trong q trình hoạt động luôn bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc và thế giới, coi

trọng tổng kết thực tiễn, xem đây không chỉ để nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn mà cịn để nâng
cao trình độ lý luận. Do đó, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải xuất phát từ thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, quán triệt quan điểm lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải biết vận
dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất
nước.
1.2.1.3. Quan điểm lịch sử - cụ thể

2


Trong nghiên cứu khoa học, theo Lênin, chúng ta không được quên mối liên hệ lịch sử như thế nào,
hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát
triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta
nhận thức được bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1.4. Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải bao quát, nghiên cứu trên tất
cả các mặt, các mối liên hệ, quan hệ... Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống sẽ dẫn đến hiểu
sai Tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1.5. Quan điểm kế thừa và phát triển
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể nước ta. Vì vậy, khi học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải biết kế thừa, vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của
đất nước và quốc tế.
1.2.1.6. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh vừa là một nhà lý luận, đồng thời vừa là người trực tiếp tổ chức lãnh đạo thực hiện.
Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài viết, bài nói mà cần
coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng.
1.2.2. Các phương pháp cụ thể
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ngồi các phương pháp luận chung, với một nội dung cụ

thể cần có phương pháp nghiên cứu phù hợp. Nhìn chung khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
thường sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp
liên ngành, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, trắc lượng, văn bản học, điều tra điền dã,
phỏng vấn nhân chứng lịch sử,...
+ Phương pháp lịch sử: nghiên cứu sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, tồn tại, phát
triển.
+ Phương pháp logic: nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra được cái bản chất vốn có của
sự vật, hiện tượng và khái quát thành lý luận) là hết sức cần thiết trong nghiên cứu, giảng dạy, học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Ngồi ra, trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cịn sử dụng phương pháp liên ngành khoa học
xã hội nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay,
một số phương pháp cụ thể thường được kết hợp sử dụng như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
thống kê trắc lượng, văn bản học, điều tra điền dã, phỏng vấn nhân chứng lịch sử,...
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
1.3.1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác
Sinh viên học tập mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng củng cố lập trường, quan điểm
cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai
trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước; biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra
trong cuộc sống.
Thực tiễn cho thấy, năng lực tư duy lý luận của con người được hình thành và phát triển từ nhiều
nguồn, trải qua nhiều giai đoạn của cuộc sống, nhưng giai đoạn đang nghiên cứu, học tập ở trường cao
đẳng, đại học rất quan trọng, nó gắn với tuổi trẻ của con người. Đặc biệt, những tri thức và kỹ năng của
sinh viên hình thành, phát triển qua nghiên cứu học tập môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là những yếu
tố bồi đắp cần thiết cho năng lực tư duy lý luận để sinh viên có những hành động đúng, trở thành cơng

3



dân có ích cho xã hội Việt Nam trong q trình thực hiện mục tiêu cao cả là đưa Việt Nam trở thành
một nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.3.2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là một tấm gương của một con người suốt đời phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân; một lãnh tụ của Đảng, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ
kiên cường đấu tranh vì độc lập, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và tiến bộ giữa các dân tộc trên thế giới.
Do đó, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên sẽ có những hiểu biết sâu sắc, có điều
kiện trau dồi phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh để lập thân, lập nghiệp, sống có ích cho xã hội, yêu và làm những điều thiện, ghét cái xấu, cái ác;
nâng cao lòng tự hào về đất nước Việt Nam, về chế độ xã hội chủ nghĩa, về Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, sinh viên có động lực “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại”.
Bên cạnh đó, trên cơ sở kiến thức đã được học sẽ giúp sinh viên nâng cao bản lĩnh chính trị, thấy rõ
được ý thức và trách nhiệm công dân, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân mình, hồn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
1.3.3. Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách cơng tác
Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng thể khơng nói tới phong cách của Hồ Chí Minh. Phong cách
Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô
cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hoá kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày:
phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc
dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính
nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đơi với làm, đi vào lịng
người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị;
phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương...
Vì vậy, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có điều kiện xây dựng cho mình
phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh
hoạt phù hợp với thời đại mới theo phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh đã nêu
ra. Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng góp phần giáo dục sinh viên tiếp tục hoàn
thiện nhân cách ngày càng cao đẹp hơn, để trở thành người chiến sĩ tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, góp phần làm cho đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn

như khát vọng của Hồ Chí Minh và của mỗi người Việt Nam yêu nước.
CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Trình bày và phân tích khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh được nêu trong Đại hội XI
của Đảng (tháng 1 – 2011).

Chương 2
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Cơ sở khách quan
2.1.1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
- Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó:
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (Đế
quốc chủ nghĩa), và trở thành một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa cấu
kết với nhau để nơ dịch các dân tộc nhỏ yếu. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn vốn có trong lịng chủ

4


nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, và mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc với chủ nghĩa Đế quốc ngày càng phát triển gay gắt; phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi:
Từ những cuộc đấu tranh sôi nổi của giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới mà đỉnh cao là Cách mạng
Tháng Mười Nga (1917). Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong
kiến, thiết lập chính quyền Xơ Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

- Quốc tế Cộng sản ra đời:
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3-1919), phong trào công
nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa phương Đơng càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc.
b) Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hồn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động. Trước khi
thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước phong kiến độc lập, tự chủ với một nền kinh tế nơng
nghiệp lạc hậu, trì trệ, dưới sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước khuất phục
và lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ, cai trị của thực dân Pháp trên toàn cõi
Việt Nam. Xã hội Việt Nam từ xã hội phong kiến độc lập trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có sự biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Giai cấp
cơng nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản bắt đầu xuất hiện bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến
và nông dân. Trong xã hội lúc này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn giữa nông dân Việt Nam với
địa chủ phong kiến, và mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Trước
tình hình đó, các phong trào đấu tranh chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra với nhiều khuynh hướng khác
nhau, tiêu biểu như:
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Phong trào hưởng ứng chiếu Cần Vương của
vua Hàm Nghi (1885-1896) - Phong trào Cần Vương với các cuộc khởi nghĩa diễn ra ở cả ba miền đất
nước: khởi nghĩa Ba Đình (Phạm Bành, Đinh Công Tráng), khởi nghĩa Bãi Sậy (Nguyễn Thiện Thuật),
khởi nghĩa Hương Sơn-Hương Khê, Hà Tĩnh (Phan Đình Phùng), cùng với đó là phong trào nơng dân
n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913). Tất cả các phong trào yêu nước này diễn ra và
đều thất bại.
- Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua sách báo của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tấm
gương Duy Tân của Nhật Bản, cùng với cuộc vận động hiến pháp ở Trung Quốc (1898), Cách mạng
Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) ảnh hưởng sâu rộng tới nước ta và lơi cuốn nhiều sĩ phu u nước. Từ
đó, làm cho các phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với
các phong trào tiêu biểu như: Đông Du (1904-1908) do Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân do Phan
Chu Trinh lãnh đạo, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền khởi xướng,

phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất bại. Trong bối cảnh
lịch sử đó, sự ra đời giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã
làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta xuất hiện “dấu hiệu mới” của một thời đại mới
sắp ra đời.
Cùng với các phong trào yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX là mảnh đất tốt
để lý luận cách mạng mới của chủ nghĩa Mác-Lênin nảy mầm, ra hoa kết trái. Và chính Hồ Chí Minh
là người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu

5


nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước hồn thành về cơ bản Tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
2.1.1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm đã hình thành nên cho dân tộc Việt Nam những
truyền thống vô cùng đặc sắc và cao quý, trở thành tiền đề tư tưởng, lý luận hình thành Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là:
- Chủ nghĩa yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước.
- Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong
hoạn nạn, khó khăn và ý thức cố kết cộng đồng.
- Truyền thống lạc quan, yêu đời, ln vượt qua khó khăn thử thách. Trong mn nguy, ngàn khó,
người Việt Nam vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”.
- Cần cù, dũng cảm, thông minh, tài sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, quý trọng hiền tài, khiêm
tốn tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu cho văn hoá dân tộc…
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử xây dựng và phát
triển của dân tộc Việt Nam, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lịng dũng cảm của người Việt Nam, là
chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước thơi thúc Hồ Chí

Minh quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Trong lãnh đạo nhân dân ta xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng
kế thừa, phát triển một nội dung cơ bản trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Yêu nước gắn liền với
yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các
dân tộc lân bang. Quan điểm con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành cơng của cách
mạng.
b) Tinh hoa văn hố nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng và văn hóa phương Tây trở thành nét
đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
- Văn hố phương Đơng:
+ Nho giáo:
Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ đã được nghiền ngẫm kinh điển Nho
gia. Trong thực tế, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo như: triết lý hành
động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hoà mục, hoà
đồng, là triết lý nhân sinh; tu thân dưỡng tính; đề cao văn hố lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.
Người cũng phê phán những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động của Nho giáo như: tư tưởng đẳng cấp,
khinh lao động chân tay, coi thường phụ nữ,...
Hồ Chí Minh cũng chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để quản lý xã hội. Kế thừa
và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó cơng bằng, bác ái,
nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình, khơng
có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Người chú ý kế thừa, đổi mới, phát
triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong
công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
+ Phật giáo:
Phật giáo xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm và khi truyền bá vào nước ta nó được tiếp biến, khúc xạ
qua nền văn hóa bản địa Việt Nam, và dần trở nên phù hợp, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống tinh thần
của nhân dân ta.
Những mặt tích cực của Phật giáo Việt Nam đã đi sâu vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân
lao động và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã kế thừa, tiếp thu và chịu ảnh hưởng


6


sâu sắc những tư tưởng tích cực của Phật giáo như: tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông, cây cỏ. Nếp sống có đạo
đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng
cấp. Đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; sống không xa lánh
việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù
dân tộc,... Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của Đạo Phật được Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo để đoàn kết đồng bào theo Đạo Phật, đồn kết tồn dân vì nước một Việt Nam hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đồng thời, Người chú ý kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân
bản, đạo đức tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện
nay. Bên cạnh tiếp thu những giá trị tích cực, Người cũng phê phán những yếu tố hạn chế trong tư tưởng
Phật giáo như: an phận thủ thường, khơng cổ vũ đấu tranh.
+ Lão giáo:
Là một nhà “trí thức phương Đơng”, Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng của Lão giáo và Người chú
ý kế thừa, phát triển những tư tưởng tích cực như: khuyên con người nên sống gắn bó, hồ đồng với
thiên nhiên, phải biết bảo vệ mơi trường sống; thốt khỏi mọi ràng buộc của vịng danh lợi. Hồ Chí
Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ mơi trường sinh thái cho chính
cuộc sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thốt mọi ràng buộc của
vịng danh lợi trong Lão giáo. Đối với cán bộ, đảng viên, Người khuyên ít lòng tham muốn về vật chất.
Thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng
với quy luật tự nhiên, xã hội.
Bên cạnh những tư tưởng tích cực, Hồ Chí Minh cũng thấy được hạn chế của Lão giáo là: yếm thế,
thốt tục, có tính chất mê tín, huyền bí, dùng bùa chú, thuật pháp mê hoặc dân chúng. Những tư tưởng
tích cực của Lão giáo được thấm nhuần trong tư duy và hành động, được thể hiện rất rõ trong sự
nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh cịn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường
phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử,...
Là nhà Mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa

phương Đơng để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
+ Chủ nghĩa “Tam dân” của Tôn Trung Sơn:
Nội dung của chủ nghĩa Tam dân là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, Người
đã tìm thấy ở đó có “những điều thích hợp với điều kiện của nước ta”. Hồ Chí Minh chắt lọc những
tinh hoa nhất của chủ nghĩa Tam dân và vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam. Điều đó được thể
hiện rõ qua mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: độc lập
- tự do - hạnh phúc. Theo chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn thì độc lập cho các dân tộc, cịn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và q trình
cách mạng đó phải dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Văn hố dân chủ và cách mạng phương Tây
Ngay từ khi còn học ở Trường Tiểu học Đông Ba, Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được
làm quen với văn hóa Pháp và những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp về “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái”. Những năm tháng sống ở Pháp, Mỹ và Anh, Người chú ý tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó
qua nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội. Người đã tiếp thu
những giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ
(1776), các giá trị tự do, bình đẳng, bác ái trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách
mạng Pháp (1791).
Ngồi ra, Hồ Chí Minh trực tiếp tìm hiểu tư tưởng dân chủ, bình đẳng, nhân văn, nhân đạo qua các
tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp như: Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ… Cùng với những hoạt động

7


thực tiễn phong phú, sôi nổi, Người đã hấp thụ những tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân
chủ cho chính mình.
Tóm lại, trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu trí tuệ của mình
bằng vốn trí tuệ của thời đại, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa
chọn, kế thừa, đổi mới, vận dụng và phát triển. Có thể thấy rõ điều này qua nhận xét sau đây của Hồ
Chí Minh: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêxu có ưu

điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ
nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêxu,
Mác, Tơn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho
loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hơm nay họ cịn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ,
tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố
gắng làm học trị nhỏ của các vị ấy” [9].
c) Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết chính trị do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập, được V.I. Lênin
phát triển và hoàn thiện, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp cơng nhân, là cơ sở lý luận của các Đảng
Cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết nghiên cứu những quy luật tổng quát của sự phát triển
xã hội, học thuyết bàn về mục tiêu, điều kiện và phương pháp giải phóng triệt để giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động, giải phóng dân tộc và con người khỏi áp bức, bóc lột, tha hóa, nghèo đói. Chủ
nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất cách mạng và khoa học; là cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì:
+ Chỉ ra con đường phải đi và cái đích phải đến của cách mạng Việt Nam: đó là con đường cách
mạng vơ sản, cái đích của nó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản, là độc lập, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân.
+ Tìm ra quy luật phát triển tất yếu của nhân loại, sớm hay muộn các dân tộc sẽ đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản.
+ Trang bị cho Người một phương pháp luận đúng đắn để tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân
loại, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hoá
tinh tuý được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu biết phong phú. Quá trình tiếp nhận chủ
nghĩa Mác-Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất là chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa
chọn vững chắc. Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới những
nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của các
ông một cách có chọn lọc, khơng rập khn máy móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý
luận Mác-Lênin theo phương pháp Mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập
trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề

thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
2.1.2. Nhân tố chủ quan
2.1.2.1. Nhân cách, phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy, trí tuệ Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm cá nhân do Người sáng tạo trên cơ sở điều kiện khách quan,
chủ quan. Do đó, nội dung tư tưởng phụ thuộc rất lớn vào nhân cách, phẩm chất, đặc biệt là năng lực
tư duy, trí tuệ của Người.
- Trước hết, là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận
xét, đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh.
- Là bản lĩnh kiên định, ln tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái
mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn.

8


Sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước
chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, sẵn sàng
chịu đựng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
- Là phẩm chất đạo đức trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, cống hiến hết
mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng thế giới.
2.1.2.2. Năng lực hoạt động thực tiễn
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú. Những năm tháng hoạt động
trong nước và bôn ba khắp thế giới, Người đã không ngừng quan sát, học tập, nghiên cứu làm phong
phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những
thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận về sau.
Ngoài ra, trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã
hội, đời sống văn hoá và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý
luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hoà của những điều kiện khách quan và chủ quan,
của truyền thống văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại
được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hoá tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng

Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại và trở nên bất diệt.
2.2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19-5-1890 tại làng Hoàng Trù, lớn lên ở
làng Sen, thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho u nước.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một nhà nho có tấm lịng u nước, thương
dân sâu sắc. Sau này, tấm gương, những lời răn dạy và kiến thức học được từ người cha đã ảnh hưởng
sâu sắc đối với quá trình hình thành nhân cách và mục tiêu lý tưởng mà Hồ Chí Minh thực hiện.
Hồ Chí Minh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tình cảm của người mẹ, bà Hoàng Thị Loan. Bà là người
mẹ Việt Nam điển hình về tính cần mẫn, tần tảo, đảm đang, hết mực thương yêu chồng, con và ăn ở
nhân đức với mọi người, được bà con láng giềng hết lòng mến phục.
Nghệ Tĩnh là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, là quê hương của nhiều
anh hùng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung... và các lãnh
tụ yêu nước thời cận đại, như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu... Chính q hương và gia đình đã
thơi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước về sau.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh lớn lên trong bối cảnh đất nước nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp,
ngay từ nhỏ, Người đã chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp đến cùng cực của đồng bào ta; sự thất
bại của phong trào Cần Vương và phong trào yêu nước dân chủ tư sản của các vị anh hùng tiền bối đầu
thế kỷ XX; chứng kiến nông dân bị các thứ thuế khóa, tơ tức nặng nề, cơng nhân bị bóc lột… Khi ở kinh
thành Huế, Hồ Chí Minh đã chứng kiến tội ác của Pháp, thái độ ươn hèn, bạc nhược của vua quan triều
đình nhà Nguyễn; ở đây, Người làm quen và bước đầu tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Tây. Từ đó, đã
hun đúc ý chí và tinh thần u nước, hình thành chí hướng cứu nước trong con người Hồ Chí Minh.
2.2.2. Thời kỳ từ năm 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Ngày 3-6-1911, một thủy thủ của tàu Amiran Latusơ Tơrêvin dẫn Nguyễn Tất Thành với cái tên
mới Văn Ba, lên gặp thuyền trưởng Maixen và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 5-6-1911,
tàu rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Mácxây, mang theo khát vọng cứu nước với tấm lòng yêu
nước thương nòi sâu sắc. Một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời của người thanh niên Nguyễn
Tất Thành.
Để thực hiện hồi bão của mình, Nguyễn Tất Thành đã đi và sống ở nhiều nước thuộc châu Âu,

châu Á, châu Phi, châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các dân

9


tộc thuộc địa, đời sống người lao động các nước tư bản và trực tiếp tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản
điển hình. Ngày 18-6-1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc
gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm gửi tới Hội nghị Vécxây, địi chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Đây là hành động đấu tranh
trực tiếp đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc vào giới chủ tư bản Pháp nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do
cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo L’Humanité, một tạp chí của Đảng Cộng sản Pháp. Bản
Luận cương đã khiến Người “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng… vui mừng đến phát khóc...”
[15]. Luận cương của V.I.Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc
và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở Người.
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), và cùng
những đảng viên tiến bộ nhất trong Đảng Xã hội Pháp tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở
thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên tham gia vào tổ chức này. Sự kiện đó đã đánh dấu bước
chuyển biến về chất trong tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, từ
giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là cơng lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí
Minh. Đó là con đường giải phóng mà Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và
tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
2.2.3. Thời kỳ từ năm 1920-1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Trong những năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và lý luận hết sức
phong phú, sôi nổi để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
- Tại Pháp (1921-1923), Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa
của Pháp lập ra Hội liên hiệp Thuộc địa (1921), xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) do Nguyễn
Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và một

số nước thuộc địa khác, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp sang Liên – Xô quê hương của V.I.Lênin và Cách mạng
tháng Mười Nga, tham dự các hội nghị và đại hội như: Hội nghị Quốc tế Nông dân, Đại hội V của
Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu Tế đỏ,...
Cũng trong thời gian ở Liên Xô (6-1923 đến 11-1924), Người trực tiếp học tập, nghiên cứu kinh
nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Lênin, tận mắt chứng kiến khí thế lao động sơi nổi,
những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa của nhân dân Liên Xô. Người viết nhiều
bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản.
- Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người cùng các nhà
cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan… thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.
- Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – một tổ chức có tính chất
quần chúng rộng rãi nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước, thành lập cơ quan
tuyên truyền của Hội là báo Thanh niên, từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận cách
mạng cho những người yêu nước.
- Từ 1925 đến 1927, Hồ Chí Minh mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo đội
ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Tính đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở được 3 khóa
huấn luyện cho khoảng 75 người.
Sau này, tất cả các bài giảng tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, được Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức xuất bản thành tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Tác phẩm chỉ rõ cách mạng Việt Nam
phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo; lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là tồn thể nhân dân Việt
Nam, trong đó nịng cốt là liên minh cơng nông.

10


- Tại Thái Lan (1928-1929), Hồ Chí Minh gây dựng và thành lập các tổ chức quần chúng yêu nước
người Việt tại Xiêm như: Hội hợp tác, Hội Việt kiều thân ái, Hội Phụ nữ, Hội Thiếu niên… Các Hội
này đều được nhà chức trách và nhân dân địa phương giúp đỡ, ủng hộ.
- Từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương

trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này cùng với Bản án chế độ thực dân Pháp và
Đường Cách mệnh,... đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam.
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng trên đây của Nguyễn Ái Quốc được giới thiệu trong các tác
phẩm của Người, cùng các tài liệu mácxít khác, theo những đường dây bí mật truyền về trong nước,
tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển theo xu
hướng mới của thời đại.
2.2.4. Thời kỳ từ 1930-1941: Vượt qua thử thách, kiên định giữ vững đường lối, phương pháp
cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
Vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối bởi
khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Biểu hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng (từ ngày 14 đến 31-10-1930), tại Hương Cảng (Trung Quốc) theo sự chỉ đạo
của Quốc tế Cộng sản. Hội nghị đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất “nguy hiểm”, vì “chỉ lo
đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”.
Ngày 6-6-1931, thực dân Anh cấu kết với thực dân Pháp, bắt giam Hồ Chí Minh (Tống Văn Sơ) ở
số 186 Tam Lung - Hồng Kông và sau đó giam tại nhà tù Victoria. Đảng Cộng sản Đông Dương phối
hợp với Quốc tế Cứu tế Đỏ, gia đình Luật sư Lơdơbi đấu tranh, Hồ Chí Minh được trắng án. Đầu năm
1934, Hồ Chí Minh trở lại Liên Xơ, vào học Trường Đại học Lênin. Sau đó, Người làm nghiên cứu
sinh tại Ban Sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản.
Những năm 1934-1938 là khoảng thời gian nhiều khó khăn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí
Minh. Thời gian này, đã có những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế và của Đảng ta, diễn
ra cuộc đấu tranh gay gắt về đường lối cách mạng. Trong hồn cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì
bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa và cách mạng vơ sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh, biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới đã chứng minh quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là hoàn
toàn đúng đắn. Tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả” trong
phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất vì hịa bình, chống chủ
nghĩa Phát xít. Ngày 6-6-1938, Hồ Chí Minh gửi thư cho một lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, đề nghị được

phép trở về nước hoạt động. Trong đó, có đoạn viết: “Xin đồng chí giúp đỡ tơi thay đổi tình cảnh đau
buồn này... Đừng để tơi sống q lâu trong tình trạng khơng hoạt động và giống như là sống ở bên
cạnh, ở bên ngồi của Đảng” [17]. Nguyện vọng đó của Người đã được Quốc tế Cộng sản chấp thuận.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, chủ trì Hội
nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941) họp tại Pắc Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam, nhấn mạnh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Từ
đây, cách mạng Việt Nam trở về với những quan điểm, nguyên tắc giải quyết đúng đắn mối quan hệ
dân tộc và giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, mà Người khởi thảo trong “Chính
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng vào đầu năm 1930.
Điều đó chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh đã chiến thắng và sẽ dẫn dắt, soi đường cho cách mạng Việt
Nam đến những chiến thắng vĩ đại.
2.2.5. Thời kỳ từ 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện và tỏa sáng

11


Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, lãnh
đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công (1941-1945), tiến hành các cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và từng bước xây dựng chế độ xã hội mới. Cũng trong
thời kỳ này, Tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, hồn thiện trên nhiều vấn đề cơ bản.
Ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh sáng lập Mặt trận Việt Minh; ngày 22-12-1944, sáng lập Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18-8-1945, chớp thời
cơ, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Đây là thắng lợi to lớn đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Việt Nam.
Từ ngày 2-9-1945 đến ngày 20-12-1946, Hồ Chí Minh đề ra chiến lược, sách lược cách mạng đúng
đắn, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; lãnh đạo Đảng và chính quyền cách mạng non trẻ thực hiện khơn
khéo sách lược hịa hỗn với kẻ thù, từng bước đưa đất nước vượt qua thử thách “ngàn cân treo sợi
tóc”. Từ 1946-1954, dân tộc ta tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Người

đề ra đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh; hoàn thiện lý luận cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, và từng bước hình thành tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân pháp ở Việt Nam thắng lợi, mở ra
thời kỳ sụp đổ của hệ thống thuộc địa kiểu cũ trên phạm vi tồn thế giới. Hịa bình lập lại ở miền Bắc
Việt Nam; và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ 1954-1969, Hồ Chí Minh lãnh đạo thực hiện cùng một lúc 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam nhằm giành độc lập dân tộc, hịa bình, thống nhất đất nước.
Cũng trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, hồn thiện hệ thống quan điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực triết học, chính trị, kinh tế, qn sự, văn hố và đạo đức.
Sau đó, di sản tư tưởng của Người được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát
triển trong thực tiễn, trở thành ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Trước khi đi xa, Người để lại Di chúc, một văn kiện lịch sử vơ giá, kết tinh tư tưởng, trí tuệ, tâm
hồn, đạo đức của một lãnh tụ thiên tài, anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa, suốt đời vì dân vì
nước. Đến nay, mọi người dân Việt Nam đang phấn đấu thực hiện điều mong mỏi cuối cùng của Hồ
Chí Minh là: “Tồn Đảng, tồn dân ta đồn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
[19]. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
2.3. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.3.1. Đối với cách mạng Việt Nam
2.3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt
đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cho cách mạng Việt
Nam và chính thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh, khẳng định tính đúng đắn,
giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một hệ thống những quan điểm lý luận về chiến lược,
sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về sự cải
biến cách mạng với xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, về xây dựng những điều kiện đảm bảo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối cùng, đó là

xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất và các đồn thể chính trị xã hội, xây dựng đại đồn kết dân
tộc gắn với đoàn kết quốc tế,… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống mở đầy sức sống được Đảng

12


Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi mới hiện nay và
trong tương lai.
2.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
trong thời đại hiện nay
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng định hướng, soi đường, chỉ đạo sự phát triển
của cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam là của chính người Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
tiếp tục soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong suốt những chặng đường cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường,
là kim chỉ nam định hướng hành động cho Đảng ta và nhân dân ta. Khi nào làm đúng với tư tưởng Hồ
Chí Minh thì cách mạng thắng lợi. Khi nào xa rời hoặc làm sai với tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách
mạng Việt Nam bị tổn thất hoặc thất bại.
Tất cả các quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều là
nhằm tới mục tiêu: Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, dân chủ cho nhân dân, công bằng và hạnh phúc
cho mọi người, hịa bình và hữu nghị cho các dân tộc với sự phát triển các quan hệ văn hóa, nhân văn của
thời đại.Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đường lối
cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam đi tới
thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn, bất diệt cùng với sự phát triển vững mạnh của dân tộc
Việt Nam.
2.3.2. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại
C. Mác khái quát “Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại của nó, và nếu nó khơng
tìm ra những người như thế…, nó sẽ nặn ra họ” [20]. Hồ Chí Minh là nhân vật vĩ đại, không chỉ là sản
phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam, mà là sản phẩm của thời đại, nhân loại tiến bộ và

là người anh hùng giải phóng dân tộc tiêu biểu của thế kỷ XX.
2.3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân tộc
gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người
Cống hiến lý luận đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản, được tiến
hành bởi tồn thể nhân dân với nịng cốt liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách
mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, có thể thắng lợi trước cách mạng vơ
sản ở chính quốc, bằng con đường bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh
vũ trang. Đó là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm một hệ thống các luận điểm giải
quyết một cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa, dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, về cách mạng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người, góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin.
2.3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân
chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới
Hồ Chí Minh là một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản, cơng nhân quốc tế và phong trào vì hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Hồ Chí
Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với các phong trào cách mạng, tiến bộ, hịa bình trên thế giới.Người
chủ trương hịa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài giữa các nước, không chỉ xuất phát từ những mục tiêu
chính trị vì độc lập dân tộc mà cịn vì sự phát triển chung của nhân loại.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến
kịp các nước tiên tiến và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn với những chuyển biến của
thời đại về chính trị, kinh tế, giữ vững độc lập của dân tộc mình và tôn trọng độc lập của các dân tộc

13


khác; kiên định nguyên tắc hợp tác bình đẳng cùng có lợi; phát huy sức mạnh nội lực kết hợp sức
mạnh thời đại, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế.

Ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh được giương cao đã thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam trong q
trình hội nhập, đồng thời góp phần tích cực củng cố hịa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác và
phát triển giữa các quốc gia trên thế giới ngày nay. Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn cịn sống mãi với thời gian.
CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Phân tích những tác động của giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đến sự hình
thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 2: Trong các tiền đề tư tưởng, lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, tiền đề tư tưởng
lý luận nào là quan trọng nhất, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh? Hãy chứng minh.
Câu 3: Phân tích những tác động của giá trị văn hóa phương Đơng đến sự hình thành Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chương 3
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
3.1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
3.1.1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân trở thành nội dung xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh, chi phối mọi suy nghĩ hành động của Người. Trên hành trình cứu nước, giải phóng dân tộc, năm
1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây bản
Yêu sách của nhân dân An Nam, với u cầu chính: địi quyền bình đẳng về mặt pháp lý cho nhân dân
An Nam và quyền tự do, dân chủ cho nhân dân An Nam.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Trả lời câu hỏi của thư ký đại hội Rôdơ: “Tại
sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế”, Hồ Chí Minh thẳng thắn khẳng định: “Rất đơn giản…
Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa… Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [5].
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục tiêu chính trị
của Đảng là:

“a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra Chính phủ cơng nơng binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông” [7].
Tháng Tám năm 1945, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng mười lăm tuổi, nhân dân ta đập tan
xiềng xích, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phát xít, lập nên nhà nước mới ở Việt Nam - Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Khi đó, Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự
do của dân tộc bằng câu nói bất hủ: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã
thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [9].
Ý chí và quyết tâm trên cịn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(19-12-1946), Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân
tộc - giá trị thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả,

14


chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [11]. Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng
cường mở rộng chiến tranh, chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam, tiến hành chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” và đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong hồn cảnh đó, Hồ
Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại: “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.
Với những cống hiến của Hồ Chí Minh cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới, Người được tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, đối với các
dân tộc thuộc địa Người là tấm gương vĩ đại cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
3.1.1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
a) Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân
Sinh thời, Hồ Chí Minh đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn: Dân tộc độc lập,
dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Người cho rằng những điều đó rất phù hợp với điều kiện thực
tế ở Việt Nam. Bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong khi viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân

quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải ln
được tự do và bình đẳng về quyền lợi” [14], Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên
cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi “Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được” [15].
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng đã xác định rõ ràng mục tiêu đấu tranh của cách
mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập… dân chúng được tự do… thủ tiêu hết các thứ
quốc trái… thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo… thi hành luật ngày làm 8 giờ” [16].
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nước nhà được độc lập và một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng
định độc lập phải gắn với tự do của nhân dân. Người nói: “Nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” [17]. Tháng 2-1946, khi nói chuyện với đại diện
chính phủ Pháp, Người nêu rõ: Độc lập về câu chữ đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng đối
với tơi là nội dung của nó. Chúng tơi muốn sống tự do.
Ngồi ra, theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc phải gắn liền với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân. Do đó, chúng ta phải thực hiện ngay: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho
dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành” [18]. Theo Người đây là vấn đề lớn, bởi vì, người dân chỉ
hiểu rõ giá trị thực sự của độc lập khi “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [19].
3.1.1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hồn tồn và triệt để
Trong q trình đi xâm lược thuộc địa, bọn thực dân đế quốc dùng mọi thủ đoạn để mị dân, thành
lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, “tung ra luận điệu hịa bình giả dối, độc lập giả hiệu và những cải
cách lừa bịp” nhằm làm giảm bớt tinh thần chiến đấu của nhân dân các dân tộc thuộc địa bị áp bức. Hồ
Chí Minh đã nhìn thấy rõ âm mưu của bọn thực dân đế quốc, Người khẳng định: “Chúng ta quyết
kháng chiến đến cùng, tranh cho kỳ được thống nhất và độc lập, thống nhất và độc lập thật sự, chứ
không phải cái thứ thống nhất và độc lập bánh vẽ mà thực dân vừa thí cho bọn bù nhìn” [20].
Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải thực sự, độc lập hoàn toàn và triệt để, phải thể hiện độc lập về mọi
mặt: chính trị, kinh tế, an ninh quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ… Trong đó, độc lập về chính trị là quan
trọng nhất, Người nói: “Độc lập mà khơng có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân
Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy” [21].
Độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để phải gắn liền với quyền tự quyết dân tộc. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln qn triệt ngun tắc: nước Việt Nam là của
người Việt Nam, mọi vấn đề do người Việt Nam tự giải quyết, khơng có sự can thiệp nước ngồi, và

quyết khơng chấp nhận bất kỳ sự can thiệp nào. Điều đó được Người khẳng định khi trả lời ơng
Vaxiđéprao, thơng tín viên hãng Roitơ: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi cơng việc của
chúng tơi, khơng có sự can thiệp ở ngoài vào” [22].
3.1.1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

15


Thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là cái “dĩ bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự tiếp
nối truyền thống và ý chí dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh từng nói: “nước
Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và khơng một lực lượng nào trên
thế giới có thể chia cắt nổi Việt Nam” [23]. Do đó, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh “quyết dùng tất cả sức mình để giành được nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ”
[24]. Trong Di chúc, Người thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống
nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế
quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc
nhất định sẽ sum họp một nhà” [25].
3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
3.1.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Sự thất bại của những phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã phản ảnh
sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cách mạng và giai cấp lãnh đạo. Hồ Chí Minh quyết định ra đi
tìm một con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc. Qua thực tế tìm tịi, khảo nghiệm, Hồ Chí
Minh thấy rằng con đường cách mạng tư sản là không triệt để, Người nói: “Mỹ tuy rằng cách mệnh
thành cơng đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ
hai” và “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng
thốt khỏi vòng áp bức” [27].
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn tới Hồ Chí Minh trong việc lựa
chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách

mệnh Nga là đã thành cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các
nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong
thế giới” [28].
Trong 2 số ngày 16 và 17-7-1920 trên báo L’Humanité - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp
đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bài
báo đã thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi đọc Luận cương, Người đã tìm thấy con đường
phù hợp với cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vơ sản. Từ đó, Người hồn tồn tin theo
Lênin và tin theo Quốc tế thứ ba, Người nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [29], từ đó, Hồ Chí Minh
đi tới khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vơ sản” [30].
Con đường cách mạng đó được Hồ Chí Minh thể hiện trên những nội dung sau:
- Thứ nhất, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước
hết, trên hết. Theo Mác và Ăngghen, con đường cách mạng vô sản ở châu Âu là đi từ giải phóng giai
cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng con người. Cịn theo Hồ Chí Minh, ở Việt
Nam và các nước thuộc địa phải là: giải phóng dân tộc - giải phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải
phóng con người.
- Thứ hai, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm
1930, ghi rõ: phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Phương hướng này vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại, vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan, cụ thể mà cách mạng Việt
Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

16


Như vậy, việc tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản là
đóng góp lớn của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Với sự lựa chọn này, Người đã đặt nền

móng đúng đắn cho đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.1.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: giai cấp cơng nhân muốn hồn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, phải tự mình trở thành dân tộc, phải tự tổ chức ra chính đảng của chính mình, từ đó,
đấu tranh mới có thể đảm bảo giành thắng lợi trọn vẹn. Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải có sự lãnh đạo của Đảng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh,
Người nói: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”.
Nhưng theo Người, muốn làm cách mệnh, “trước phải làm cho dân giác ngộ... phải giảng giải lý luận
và chủ nghĩa cho dân hiểu”. “Cách mệnh phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân...
Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có Đảng cách mệnh” [31].
Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng cần có Đảng lãnh đạo mới đảm bảo giành thắng lợi. Nhưng
điều đó khơng có nghĩa cứ có Đảng thì cách mạng thành cơng. Người nói: “Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ
nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” [32].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, Đảng mang bản chất
giai cấp cơng nhân. Bên cạnh đó, phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, Người
cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc Việt
Nam”, “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày
và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và
nhân dân” [33].
Từ quan điểm này, Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí
Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp cơng nhân và cả dân tộc
Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, giúp cho Đảng nắm ngọn
cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi
thắng lợi của cách mạng.
3.1.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn dân, lấy liên

minh công - nông làm nền tảng
Đề cập đến vấn đề lực lượng cách mạng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và kế thừa truyền thống lâu đời của lịch
sử dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn
kết toàn dân, lấy liên minh cơng - nơng làm nền tảng. Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí
Minh ln đánh giá cao sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người nói: “Dễ mười lần khơng dân cũng
chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Dựa vào dân và đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh tạo nên
mọi chiến thắng, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử và tiếp tục được kế thừa trong thời đại Hồ
Chí Minh.
Năm 1930, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao
gồm: đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… lơi kéo họ về phía vơ sản giai cấp;
cịn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai,

17


Hồ Chí Minh thiết tha kêu gọi mọi người khơng phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái… đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(12-1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc” [35].
Người cho rằng, muốn giải phóng dân tộc là phải dựa vào lực lượng đại đồn kết tồn dân, nhưng
Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò cách mạng của giai cấp cơng nhân và nơng dân. Người phân
tích: giai cấp cơng nhân và nơng dân có số lượng đơng nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp
bức bóc lột nặng nề nhất, nên “lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết... cơng nơng là tay
khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan
góc” [36]. Từ đó, Người đi đến nhận định, cơng nơng “là gốc cách mệnh”.
Khẳng định vai trị động lực cách mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ

so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó. Tuy nhiên, với góc nhìn vừa biện chứng vừa lịch
sử, Hồ Chí Minh một mặt nhìn nhận được mặt tích cực, nhưng mặt khác cũng nhìn ra hạn chế của giai
cấp nơng dân. Người chỉ ra hạn chế của giai cấp nông dân là họ khơng có hệ tư tưởng, khơng thể tự
mình trở thành lực lượng độc lập, cũng như khơng có khả năng lãnh đạo cách mạng. Người nói: “Sự
nổi dậy của nơng dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng
lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực, thì ngun
nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo” [37]. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công
nhân phải thu phục và lãnh đạo được giai cấp nông dân “Đảng cách mạng phải hiểu rằng phong trào
nơng dân, cho dù có quy mơ to lớn tới đâu đi nữa, cũng khơng mong gì giành được những thắng lợi
quyết định nếu như giai cấp công nhân không hành động” [39].
Trên cơ sở coi giai cấp công nhân và nơng dân là gốc của cách mạng, Hồ Chí Minh không xem nhẹ
khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người chỉ rõ: “học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy
chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [40].
3.1.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên Quốc tế cộng sản có
lúc xem nhẹ vai trị của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ
sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế cộng sản năm 1928 đã thông qua Những luận cương về phong
trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có quan điểm: chỉ có thể thực
hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này vơ hình chung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của cách
mạng thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã ý thức được mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới. Trên hành trình cứu nước của mình, Hồ Chí Minh thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức
với mục đích thức tỉnh, tinh thần đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Trong tuyên ngôn của Hội,
Người kêu gọi: “chúng ta nên sớm kết đồn lại! Hãy hợp lực để địi quyền lợi và tự do của chúng ta!
Hãy hợp lực để cứu lấy nịi giống chúng ta!” [42]. Từ đó, Người xác định: “Làm cho các dân tộc thuộc
địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vơ

sản” [43].
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh muốn giành thắng lợi, thì cách mạng vơ sản ở chính quốc và thuộc
địa phải đoàn kết và liên hiệp với nhau. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người
viết: “chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một
cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu

18


của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” [44]. Vì vậy, theo
Hồ Chí Minh cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng, chứ khơng phải là quan hệ phụ thuộc, hay mối quan hệ
chính - phụ.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh tích cực đấu tranh với những nhận thức mơ hồ,
không đúng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Theo Người, “các thuộc địa cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc”
[45]. Từ đó, Người đã phê phán các quan điểm “khinh thường thuộc địa”. Theo Hồ Chí Minh, cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải được tiến hành chủ động không nên trông chờ, ỷ
lại vào cách mạng vô sản ở chính quốc, phải phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường “lấy
sức ta mà giải phóng cho ta”, bằng sức mạnh của dân tộc mà giải phóng cho dân tộc mình thốt khỏi
kiếp ngựa trâu, nơ lệ.
Hơn nữa, theo Hồ Chí Minh: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khơng chỉ có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc mà cịn có những tác động tích cực
đến sự nghiệp cách mạng của những người “anh em” ở chính quốc. Người nói: “An Nam dân tộc
cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách
mệnh cũng dễ” [47] và “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để
gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa

đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn
tồn” [48].
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng vị trí, vai trị chiến lược của cách mạng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng vơ sản ở chính quốc. Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng
như phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã thành công những năm 60, trong khi cách mạng vơ
sản ở chính quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc
đáo, sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn.
3.1.2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách
mạng, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và từ kinh nghiệm của lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh
khơng một chút ảo tưởng về lòng nhân từ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người nói: “Độc lập tự do
khơng phải cầu xin mà có được” và “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của
kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa”
[49]. Cho nên, để chiến thắng chủ nghĩa thực dân, giành độc lập tự do cho dân tộc, chúng ta khơng cịn
con đường nào khác là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng. Quán triệt quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: bạo lực cách mạng
là bạo lực của quần chúng, là sức mạnh của tồn dân, vì vậy, phải biết dựa vào dân, tập hợp lực lượng
quần chúng nhân dân, đây cũng là đặc trưng trong quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh.
Về hình thức, bạo lực cách mạng được thực hiện bởi hai lực lượng chính trị và qn sự, với hai
hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị của quần
chúng là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ
trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng qn sự và âm mưu thơn tính của thực dân
đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Việc xác định hình thức đấu tranh phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể mà áp dụng cho thích hợp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc
xâm lược. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo, hòa bình thống nhất biện
chứng với nhau. Yêu thương con người, u chuộng hịa bình, tự do, cơng lý, tranh thủ mọi khả năng hòa

19



bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi khơng thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến
hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, giữ và bảo vệ hịa bình, vì độc lập, tự do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ
yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để
kết thúc chiến tranh.
3.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM
3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
3.2.1.1. Tính tất yếu của việc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vận dụng học thuyết của C. Mác về sự phát triển tất yếu của xã hội lồi người theo các hình thái
kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng: Thời gian, cách thức, tốc độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi
quốc gia, dân tộc diễn ra một cách khác nhau nhưng đó là một q trình tất yếu, tuân theo những quy
luật khách quan, trước hết là các quy luật trong sản xuất vật chất.
Thực tiễn Việt Nam, hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến, thực dân,
nhiều khuynh hướng cứu dân, cứu nước đã được thử nghiệm nhưng đều không đem lại kết quả. Hồ Chí
Minh nhận thấy: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ
những bức tường dài ngăn cản con người yêu đoàn kết, yêu thương nhau” [51].
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn, theo Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nhân loại nói chung, của Việt Nam nói riêng là tất yếu của lịch sử.
3.2.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hồn chỉnh, là con đường để
giải phóng nhân loại khỏi áp bức bất cơng.
Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa Cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hồ thế giới chân chính,
xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những
người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau” [52].
- Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên một số mặt nào
đó của nó như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu cơng cộng của chủ nghĩa xã hội và phân
phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã
hội: “chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,... làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai
làm ít thì ăn ít, ai khơng làm thì khơng ăn, tất nhiên trừ người già cả đau yếu và trẻ con” [53].
Về chính trị, đó là chế độ xã hội dân chủ. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ từ Trung ương đều do dân
cử ra”, “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân” [54]. Như vậy,
chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội phát triển cao về dân chủ. Nhân dân thực sự là chủ thể của toàn bộ
đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện để thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền và
trách nhiệm làm chủ của người dân.
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội bằng cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích Tổ quốc,
của nhân dân, “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”, là “nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”, làm cho mọi người được ăn
no, mặc ấm, là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [55].
- Hồ Chí Minh nêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
của toàn dân tộc. Cho nên, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh toàn dân tộc

20


kết hợp với sức mạnh thời đại. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân
dân để xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội” [56].
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội thuộc giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản,
một xã hội khơng cịn áp bức, bóc lột, do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
3.2.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
a) Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên chủ
nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Đó là nền kinh tế
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn
luôn phát triển trên nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
khoa học kỹ thuật của nhân loại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại
trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: công cụ lao động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất đã
phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa xã hội được
Hồ Chí Minh diễn đạt là: “Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,... làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc
về nhân dân”. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ cơng hữu tư liệu sản xuất cơ bản trong chủ
nghĩa xã hội.
b) Chủ nghĩa xã hội thực hiện nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Để tiến tới chủ nghĩa xã
hội, trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng vô sản, giai cấp vô sản phải thực hiện được nền chun
chính của mình” [58].
Hồ Chí Minh cho rằng, chế độ nào cũng có chun chính. Vấn đề là ai chuyên chính ai? Dưới chế
độ phong kiến, tư bản, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ
dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại
lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân. “Trong nền chun chính đó, cần phải có
sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân
dân” [59].
Như vậy, đặt trong mối quan hệ với các chế độ xã hội khác, chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
c) Chủ nghĩa xã hội có trình độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức
Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện trước hết ở các quan hệ xã
hội. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình đẳng, khơng có áp bức
bóc lột bất cơng. Đó là xã hội khơng cịn hiện tượng người bóc lột người; con người được tơn trọng,
được đảm bảo đối xử cơng bằng, bình đẳng và các dân tộc đồn kết, gắn bó với nhau. Hồ Chí Minh
cho rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “Chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho
nó được thỏa mãn… chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện

đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình” [60].
3.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.2.2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội
a) Mục tiêu chung
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là
độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người đề cập trực tiếp,
chủ nghĩa xã hội: “Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và

21


tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [62]. Người quan niệm đây là mục tiêu cao
nhất của chủ nghĩa xã hội. Có khi Người lại diễn giải mục tiêu tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể:
“Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”
[63].
b) Mục tiêu cụ thể:
- Thứ nhất, về chính trị, phải do nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” [64]. Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Nhà nước có hai chức năng: Dân chủ với nhân dân
và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó khơng tách rời mà luôn luôn đi đôi với
nhau.
- Thứ hai, về kinh tế, phải đạt mục tiêu có nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu
về chính trị
Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, là “một nền kinh tế thuần nhất, dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” [65]. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát
triển tồn diện các ngành, trong đó những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp,
trong đó cơng nghiệp và nơng nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà.

Ngồi ra, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến sự hỗ trợ của thương nghiệp trong q trình phát
triển nơng nghiệp, bởi theo Người, thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ cho nông dân,
thương nghiệp đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là
vấn đề được Hồ Chí Minh quan tâm. Người nhấn mạnh chế độ khốn là một trong những hình thức kết
hợp lợi ích kinh tế.
Mục tiêu về kinh tế phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị. Người viết: “Chế độ kinh tế và
xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ
nghĩa ngày càng phát triển …” [66].
- Thứ ba, về văn hố, phải mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của
nhân loại
Về vai trị của văn hóa, Người khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân được nâng cao sẽ góp
phần phát triển dân chủ, góp phần xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất độc lập, dân
chủ và giàu mạnh” [67]; nền văn hóa phát triển là điều kiện cho nhân dân tiến bộ.
Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa
về nội dung và dân tộc về hình thức [68]; phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ
dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp
thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất
dân tộc, khoa học và đại chúng.
- Thứ tư, về xã hội, phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.
Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ”, “dân là chủ” nên theo
Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có
quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngơn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử. Mọi cơng dân đều bình
đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi
dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân [69].
Đây chính là xã hội tôn trọng con người, chống chủ nghĩa cá nhân, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình,
phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình trong sự hài hịa với đời sống chung, lợi ích chung
của tập thể.


22


3.2.2.2. Động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội
Người khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, nhân dân lao động, nòng
cốt là liên minh cơng - nơng - trí thức. Xem con người là động lực của chủ nghĩa xã hội và là động lực
quan trọng nhất. Người nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã
hội (sức mạnh cộng đồng). Người cho rằng, khơng có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng
của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết
cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân. Đó là những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp, động
lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
Người cũng rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải phóng mọi
năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế với
kỹ thuật, kinh tế với xã hội. Cùng với động lực kinh tế, Người cũng quan tâm đến văn hóa, khoa học,
giáo dục, coi đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Ngồi các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp được với sức mạnh thời đại, đoàn kết
với quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học kỹ thuật thế giới.
Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là chỉ ra yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực
vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đó là: Căn bệnh thối hố, biến chất của cán bộ;chủ nghĩa cá nhân - kẻ
thù hung ác của chủ nghĩa xã hội ; tham ơ lãng phí - bạn đồng minh của thực dân phong kiến ; bè phái
mất đoàn kết nội bộ; chủ quan, bảo thủ, giáo điều; lười biếng…Theo Hồ Chí Minh, các căn bệnh trên
sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng mà
Người gọi là giặc nội xâm.
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, cịn ngoại lực là
quan trọng. Chính vì vậy, Người thường nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh, nhưng
cũng luôn chú trọng, tranh thủ sự giúp đỡ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của
thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở đảm bảo các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, chung sống hịa
bình và phát triển.

3.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.2.3.1. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
a) Về tính chất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh nhận định rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội là công cuộc biến đổi xã hội cũ thành xã hội
mới - một xã hội hồn tồn chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta nên nó là cơng cuộc biến đổi khó
khăn nhất, sâu sắc nhất; “thậm chí nó cịn gian nan, phức tạp hơn cả việc đánh giặc” [70].
Về tính chất khó khăn và phức tạp của thời kỳ này, Người lí giải:
- Thứ nhất, là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời sống xã hội cả lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và địi hỏi đồng thời phải giải quyết hàng loạt các
mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là
một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng và toàn dân ta.
- Thứ hai, là công việc mới mẻ đối với Đảng ta, phải vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Đảng,
nhà nước và nhân dân ta chưa có nhiều kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ lỗi thời.
- Thứ ba, sự nghiệp của chúng ta bị các thế lực phản động trong và ngồi nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ q độ, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nơn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề là
phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, biết kết hợp các
khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội địi
hỏi một năng lực lãnh đạo, nguyên tắc khoa học, vừa hiểu biết về quy luật vận động khách quan, vừa
phải có nghệ thuật khơn khéo cho thật sự sát với tình hình thực tế.

23


b) Về đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh kinh tế nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu nên “nhiệm vụ quan trọng nhất của thời kỳ quá độ
là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; xây dựng tiền đề về kinh tế, chính trị,

văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội; cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đưa miền Bắc tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Và đặc biệt,
“Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh
tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài [71]. Phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; “phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ
giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới khơng có bóc lột, áp bức; phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc” [72].
Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh rằng, phải kết hợp sức mạnh của nhiều yếu tố mới thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của thời kỳ quá độ nhưng trước hết và quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của thời kỳ quá độ.
3.2.3.2. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta
a) Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung quan trọng nhất là giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nịng cốt là liên minh cơng nhân,
nơng dân, trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố tăng cường sức mạnh của tồn bộ hệ thống
chính trị và các thành tố của nó.
b) Trong lĩnh vực kinh tế: Người nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa. Người quan niệm lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố
thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế ngành, cơ
cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và lãnh thổ.
Chủ trương đa dạng hố các loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất; đồng thời coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế, sử dụng hình thức và
phương tiện của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kẻ thù muốn đè bẹp ta về kinh tế thay
bằng quân sự, vì vậy ta phải phát triển kinh tế.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng
thành phần kinh. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ
nghĩa xã hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức
hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống
chủ quan, gị ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ

quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi
vào con đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản cơng thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân
tộc dân chủ, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây
dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất
và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế
nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước.
Trong quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bảy
trong phát triển sản xuất. Người chủ trương chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng. Hồ Chí Minh cũng bước
đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Theo Người, chế độ khoán là một điều kiện của chủ nghĩa
xã hội, nó khuyến khích người cơng nhân ln ln tiến bộ cho nhà máy tiến bộ, làm khốn là ích
chung và lợi riêng.

24


c) Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, xã hội
Người đặc biệt lưu ý, phải khắc phục sự yếu kém về kiến thức, sự bấp bênh về chính trị, sự trì trệ
về kinh tế, lạc hậu về văn hố, tất cả sẽ dẫn đến những biểu hiện xấu xa, thoái hoá cán bộ, đảng viên, là
khe hở mà chủ nghĩa tư bản dễ dàng lợi dụng.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, muốn cải tạo xã hội chủ nghĩa thì phải cải tạo chính mình, nếu khơng có
tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì khơng làm việc xã hội chủ nghĩa được. Người cho rằng, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có học thức, cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã
hội với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vơ tận. Người cũng coi trọng nâng cao
dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.
3.2.3.3. Nguyên tắc và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
a) Về nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Thứ nhất, mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ
Chí Minh quan niệm cuộc cách mạng mà giai cấp cơng nhân thực hiện chỉ có thể đạt được thành tựu
trên cơ sở trung thành với những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải không ngừng học lập

trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác-Lênin
cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi.
- Thứ hai, phải giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết của mỗi dân tộc;
còn đặt trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc trường tồn với
đầy đủ ý nghĩa chân chính của nó.
- Thứ ba, phải đồn kết, học tập kinh nghiệm của các nước. Hồ Chí Minh quan niệm, sự đoàn kết
giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa và sự đồn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và cơng nhân tất
cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Trong sự đoàn kết này, cách mạng Việt Nam phải học tập
kinh nghiệm của các nước anh em song không được áp đặt những kinh nghiệm ấy một cách máy móc mà
phải vận dụng nó một cách sáng tạo. Mặc dù đánh giá rất cao thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô, song Hồ Chí Minh cũng cho rằng, Việt Nam khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có phong tục
tập quán khác, có lịch sử địa lý khác, Việt Nam có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
b) Về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Cùng với các nguyên tắc, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Người đã chỉ đạo một số cách làm cụ thể: Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, xây dựng làm chính; Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành
hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau trong phạm vi một quốc gia; Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế
hoạch, biện pháp, quyết tâm thực hiện thắng lợi kế hoạch.
Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản quyết định lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là
phải huy động hết các nguồn lực vốn có trong dân để làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
3.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
3.3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, độc lập phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, và hơn nữa độc lập dân tộc cũng phải gắn liền với tự
do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, độc lập dân tộc là tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Thực tế cho thấy, khi có độc lập tự do, có hồ bình mới có điều kiện xây dựng và tổ chức tốt cho

đồng bào. Nhưng độc lập ở đây phải là một nền độc lập thực sự chân chính độc lập trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, văn hố, độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ. Chỉ có độc lập thực sự, độc lập hồn
tồn thì mới đảm bảo cho dân tộc tự vạch đường đi, phương hướng phát triển của chính mình theo con

25


×