Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Triển khai chương trình quản lý tổng hợp dịch hại trên cây điều ở Việt Nam với ứng dụng kiến vàng là nhân tố chính - MS10" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.4 KB, 10 trang )


1

Ministry of Agriculture & Rural Development




MS10: Đánh giá năng lực







Renkang Peng, Keith Christian và Lã Phạm Lân













Tháng 12 năm 2008



2
1. Thông tin cơ quan tham gia
Tên dự án
Triển khai chương trình quản lý tổng hợp dịch hại
trên cây điều ở Việt Nam với ứng dụng kiến vàng
là nhân tố chính
Cơ quan phía Việt Nam
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Chủ nhiệm phía Việt Nam
Ông Lã Phạm Lân
Cơ quan phía Úc Trường Đại học Charles Darwin
Chủ nhiệm phía Úc
GS. Keith Christian và Dr Renkang Peng
Thời gian bắt đầu
Tháng 2/2006
Thời gian hoàn thành (dự kiến)
Tháng 1/2009
Thời gian hoàn thành (thực tế)

Giai đoạn báo cáo
Tháng 7/2008

Đầu mối liên hệ
Phía Úc: Chủ nhiệm
Họ và tên
Keith Christian
Điện thoại:
61 8 89466706

Chứ́c vụ
Giáo sư
Fax:
61 8 89466847
Cơ quan
Đại học Charles Darwin
Email:


Phía Úc: Quản lý
Họ và tên
Jenny Carter
Điện thoại:
61 08 89466708
Chứ́c vụ
Trưởng Phòng, Phòng Quản lý
Nghiên cứu
Fax:
61 8 89467199
Cơ quan
Charles Darwin University
Email:


Việt Nam
Họ và tên
Lã Phạm Lân
Điện thoại:
84 0913829560
Chứ́c vụ

TP, Phòng Nghiên cứu Bảo vệ
Th
ực vật
Fax:
84 8 8297650
Cơ quan
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp miền Nam
Email:



3
Tóm tắt

Việc đánh giá năng lực dựa trên (1) Kiểm tra chất lượng lớp huấn luyện TOT, (2) Đánh giá
mục tiêu về năng lực của 56 học viên TOT như là huấn luyện viên của 56 học viên TOT
khác, (3) Đánh giá các huấn luyện viên TOT về tổ chức thực hiện lớp FFS ở môi trường
khác nhau, và (4) Đánh giá sự chấp nhận của nông dân về sự can thiệp của dự án.
Để thúc đẩy chất lượng c
ủa việc huấn luyện TOT, 14 chuyên gia thuộc nhiều lãnh vực
khác nhau về kỹ thuật cải tiến quản lý tổng hợp cây điều ở Úc và Việt Nam được mời làm
giáo viên cho lớp TOT. Tổng số 112 kỹ thuật viên bảo vệ thực vật có kinh nghiệm trong
các chương trình IPM cây lúa, cây rau hoặc trong tập huấn lớp FFS được chọn lựa cho lớp
chương trình tập huấn IPM cây điều. Kết quả từ báo cáo giả
ng dạy thấy rằng các học viên
TOT đã hài lòng được học tập về phương pháp IPM, và họ thích thú với những phần thực
tập đồng ruộng. Các giáo viên đã tận tâm truyền đạt kiến thức của họ đến các học viên
TOT. Bài kiểm tra cuối mỗi khóa được thực hiện, và các học viên đã hoàn thành tốt bài
kiểm tra.

Trong một đánh giá năng lực của 56 học viên TOT như là huấn luyện viên cho 56 họ
c viên
TOT khác, kết quả điều tra lớp học cho thấy rằng các học viên TOT bày tỏ sự tự tin của họ
về ứng dụng phương pháp IPM cây điều trong vườn nông dân, và tổ chức lớp FFS. So sánh
với kết quả của lớp TOT năm thứ nhất, các học viên lớp TOT năm thứ hai có vẻ tự tin hơn.
Để đánh giá khả năng của các huấn luyện viên TOT về tổ chứ
c lớp FFS ở các môi trường
khác nhau, bốn nguồn thông tin được sử dụng: những góp ý của nông dân về các huấn
luyện viên TOT, các báo cáo của huấn luyện viên TOT, hội thảo nông dân thực hiện bởi
thành viên dự án, và tham dự các buổi tập huấn FFS. Nông dân góp ý rằng các huấn luyện
viên TOT sử dụng phương pháp huấn luyện phù hợp với điều kiện địa phương, và phương
huấn luyện chú trọng đến điề
u tra đồng ruộng, quan sát, thực hành và thảo luận là thích
hợp và có ý nghĩa. Họ rất cảm kích về những lợi ích đem đến từ kiến vàng, và ít ảnh hưởng
đến môi trường. Từ những báo cáo của huấn luyện viên TOT, thấy rõ rằng các huấn luyện
viên TOT có khả năng để thực hiện lớp tập huấn FFS về sử dụng phương pháp IPM cây
điều. Từ những buổi hội thảo v
ới nông dân do các thành viên dự án tổ chức, thấy rằng các
nông dân đã hài lòng về khả năng, phương pháp và kỹ năng huấn luyện, và kiến thức về
chương trình IPM cây điều của các huấn luyện viên TOT. Phần lớn nông dân nói rằng họ
chưa bao giờ có được lớp tập huấn tốt như vậy từ khi trồng cây điều. Qua dự lớp tập huấn
FFS do các học viên TOT năm thứ hai thự
c hiện, mặc dù có một số những sai sót, nhưng
chúng tôi hài lòng với phưng pháp huấn luyện, và kiến thức của họ về chương trình IPM
cây điều.
Để đánh giá sự chấp nhận của nông dân với chương trình IPM cây điều, bốn buổi hội thảo
được thực hiện trong tháng 10/2008. Tổng số 75 nông dân đã tham dự, trong số có 19 phụ
nữ. Kết quả tóm lược như sau:
(1) Các nông dân đã nói r
ằng họ thường trừ kiến vàng bằng thuốc trừ sâu vì tính hung

hăng của kiến, nhưng từ nay, họ sẽ bảo vệ đàn kiến trong vườn điều của họ,
(2) Đa số nông dân đã lập kế hoạch lưu giữ kiến vàng trong một phần vườn trong mùa
tới để kiểm chứng và để làm quen với phương pháp quản lý đàn kiến mà họ đã họ
c
được trong lớp FFS,
(3) Các nông dân đã hài lòng với sự cải thiện môi trường qua việc không sử dụng
thuốc trừ sâu độc hại,

4
(4) Phần lớn nông dân chỉ biết 1 đến 2 loại sâu bệnh hại trước khi tham dự lớp FFS,
nhưng sau khi được tập huấn, họ đã biết nhiều loại sâu bệnh hại chính trong vườn,

(5) Đa số nông dân đã không biết về thiên địch trước khi được tập huấn, nhưng sau đó
họ có thể nhận biết một số thiên địch quan trọng, như kiến vàng, bọ
rùa, bọ ngựa,
và ong ký sinh.

5
Mở đầu

Theo khung dự án đề nghị, việc đánh giá năng lực bao gồm:
(1) Đánh giá mục tiêu về năng lực của 56 học viên TOT như là huấn luyện viên của
56 TOT khác,
(2) Đánh giá về tổ chức các lớp FFS của các huấn luyện viên TOT ở những môi
trường khác nhau, và
(3) Đánh giá về sự chấp nhận của người nông dân về sự can thiệp của dự án qua sự
tham gia của người nông dân.
Trước khi th
ực hiện những đánh giá, cách tiếp cận mà thành viên dự án thực hiện để kiểm
tra chất lượng lớp huấn luyện TOT được mô tả, để các huấn luyện viên TOT có năng lực

thực hiện lớp tập huấn FFS về sử chưng trình IPM cây điều.

1. Chất lượng lớp tập huấn TOT

1.1. Tuyển chọn giáo viên lớp TOT
Có hai tiêu chuẩn để tuyển chọn giáo viên lớp TOT:
(1) Có kinh nghiệm về lãnh vực có liên quan đến sản xuất cây trồng, theo kế hoạch là
cây điều, và
(2) Có kinh nghiệm giảng dạy, như là giảng dạy trong trường đại học, lớp TOT, và
giảng dạy cho người lớn tuổi.

Tổng số 14 giảng viên đã được mời, và lãnh vực chuyên môn và kinh nghiệm của họ được
trình bày trong bảng 1. Đa số các giảng viên đã được nhiều người biết đến về chuyên môn
của họ ở Việt Nam.

1.2. Tuyển chọn học viên lớp TOT
Để có được các huấn luyện viên đạt yêu cầu, chúng tôi đã chọn lọc các kỹ thuật viên đang
công tác tại Chi cục Bảo vệ Thực vật các tỉnh, là những người đã có kinh nghiệm trong
ứng dụng các chương trình IPM, hoặc lớp tập huấ
n FFS. Đã có tổng số 112 kỹ thuật viên
bảo vệ thực vật (56 người năm thứ nhất và 56 người năm thứ hai) từ 10 tỉnh trồng điều
được chọn để tham dự lớp tập huấn IPM cây điều (Bảng 2) trong số 112 học viên TOT, 96
người đã được tập huấn trong các chương trình IPM cây lúa và cây rau màu, và họ đã tổ
chức các lớp FFS, và có 16 người đã có kinh nghiệm tổ chứ
c lớp huấn luyện FFS.

1.3. Báo cáo giảng dạy và góp ý của học viên lớp TOT
Vào cuối lớp TOT, mỗi giảng viên được yêu cầu báo cáo để chắc rằng nội dung đã huấn
luyện được bảo đảm chất lượng và để dùng cho việc cải thiện lớp TOT kế tiếp. Mỗi báo
cáo gồm có:

(1) Mục tiêu của bài giảng.
(2) Nội dung bài giảng,
(3) Hoạt động của phầ
n thực hành, và
(4) Góp ý của học viên TOT về bài giảng,

6
Các bài giảng được trình bày tóm tắt trong báo cáo mốc thực hiện từ 1-5. Những báo cáo
này đã nêu bật hai điểm quan trọng:
(1) Các học viên TOT hài lòng về phương pháp IPM cây điều, và thích thú với phần
thực tập đồng ruộng, và
(2) Các giảng viên đã tận tâm truyền đạt kiến thức của họ đến học viên TOT.

1.4. Đánh giá trình độ học viên TOT
Việc đánh giá trình độ học viên được thực hi
ện vào cuối mỗi lớp TOT. Một bộ 15 câu hỏi
đã được soạn thảo, bao gồm các lãnh vực về bảo vệ thực vật cây điều và canh tác, nhất là
kỹ thuật sử dụng kiến vàng. Kết quả cho thấy các học viên TOT đã hoàn thành tốt bài kiểm
tra. Các học viên cũng được cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành lớp tập huấn. Hiện nay,
chúng tôi có 112 huấn luyện viên IPM cây điều, và h
ọ đã trở về địa phương (Bảng 2).

Bảng 1. Chuyên môn và kinh nghiệm của các giảng viên lớp TOT.
Kinh nghiệm giảng dạy
Tên Cơ quan* Chuyên môn
Đại học Huấn
luyện
TOT
Huấn
luyện

người
lớn tuổi
TS. RK Peng CDU Kỹ thuật kiến vàng,
Kiểm soát sâu hại điều,
Sản xuất điều
x x x
Ông LP Lân IAS Bảo vệ thực vật x x
Ông NT Bình IAS Lai tạo, canh tác điều x x
Ông ĐV Tự IAS Canh tác điều x x
Ông ĐĐ Hiền IAS Phân bón x x
Ông HX Quang IAS Bệnh hại điều và kiểm
soát
x x
TS. ĐT Bình IAS Phân bón x
TS NT Thiên An NLU Sinh học và sinh thái
học sâu hại điều
x x
Ông HV Chiến SRPPC Sử dụng kiến vàng
trên cây có múi
x x
Ông LQ Cường SRPPC Kỹ thuật sử dụng dầu
khoáng
x x
TS. TV Hai CTU Sử dụng thuốc trừ sâu
trong chương trình
IPM
x x
TS. NT Thu Cúc CTU Sinh học kiến vàng,
Nguyên tắc IPM
x x x

Bà LT Sáu Bình Dương
Sub-PPD
Sinh động lớp học

x
Bà HTH Lan CEPORER Kỹ năng thông tin x
* CDU = Charles Darwin University, Đại học Charles Darwin; IAS = Institute of Agricultural Science of
South Vietnam, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam ; NLU = Nong Lam University, Đại học
Nông Lâm; SRPPC = Southern Regional Plant Protection Centre of the Plant Protection Department of
Vietnam, Trung tâm Bảo vệ Thực vật phía Nam; CTU = Cantho University, Đại học Cần Thơ; CEPORER =
Centre de Parrainage des Orphelins et Enfants de la Rue, Trung tâm Bảo trợ Trẻ Mồ côi và Đường phố.


7
Bảng 2. Số học viên tham dự lớp TOT ở 10 tỉnh có trồng điều.
Số học viên TOT
Tỉnh
Năm 1 Năm 2 Tổng cộng
Bình Phước 11 8 19
Dăk Lăk 6 6 12
Dăk Nông 4 5 9
Bình Dương 10 9 19
Đồng Nai 12 8 20
Bình Thuận 4 4 8
Bà Rịa - Vũng Tàu 8 8 16
Ninh Thuận 2 2
Tây Ninh 4 4
Trà Vinh 4 4
Tổng cộng 56 56 112



2. Đánh giá mục tiêu về năng lực của 56 học viên TOT khi huấn luyện
người khác
Sau phần kiểm tra trình độ chúng tôi có thực hiện phiếu điều tra lớp học đối với học viên
TOT về sự tự tin của họ khi sử dụng chương trình IPM cây điều trong vườn nông dân và
mở lớp FFS. Chúng tôi xếp thang điểm 5 cấp: 1 = rất tự tin; 2 = tự tin; 3 = được; 4 = kém
tự tin; 5 = không tự tin (Bảng 3 và 4). Về sự tự tin để áp dụng phương pháp IPM cây điều
các học viên chọn mức t
ừ 1 “rất tự tin” đến 3 “được” (Bảng 3). Tính chất này được chứng
minh cho sự tự tin về thực hiện các lớp FFS tại địa phương (Bảng 4). So sánh với những
câu trả lời của hai lớp TOT, lớp TOT năm thứ hai có vẻ tự tin hơn (Bảng 3 và 4). Điều này
có thể do chúng tôi đã cải thiện phương pháp huấn luyện sau khi tiếp thu những góp ý và
đề nghị từ học viên của lớp TOT n
ăm thứ nhất. ngoài ra, khả năng của các học viên TOT
cũng có thể được thấy trong đánh giá sau đó.

Bảng 3. Sự tự tin áp dụng phương pháp IPM cây điều trong vườn nông dân.
Học viên TOT 1 (%) 2 (%) 3 (%) 4 (%) 5 (%)
Năm thứ nhất (56) 0.0 54.0 46.0 0.0 0.0
Năm thứ hai (56) 8.2 46.9 44.9 0.0 0.0
1 = rất tự tin; 2 = tự tin; 3 = được; 4 = kém tự tin; 5 = không tự tin

Bảng 4. Sự tự tin về thực hiện lớp FFS sau khóa huấn luyện TOT.
Học viên TOT 1 (%) 2 (%) 3 (%) 4 (%) 5 (%)
Năm thứ nhất (56) 8.0 54.0 38.0 0.0 0.0
Năm thứ hai (56) 18.4 42.9 38.8 0.0 0.0
1 = rất tự tin; 2 = tự tin; 3 = được; 4 = kém tự tin; 5 = không tự tin


3. Đánh giá về sự thực hiện lớp FFS ở những môi trường khác nhau


Chúng tôi sử dụng 4 nguồn thông tin để đánh giá khả năng của các học viên TOT:
(1) Góp ý của nông dân tham dự lớp về các huấn luyện viên TOT,
(2) Báo cáo của các huấn luyện viên TOT,
(3) Hội thảo nông dân do thành viên dự án tổ chức, và

8
(4) Tham dự các lớp FFS.
Vì các lớp FFS năm thứ hai đang tiến hành, các kết quả về góp ý của nông dân, báo cáo
của huấn luyện viên TOT, hội thảo nông dân căn cứ vào lớp huấn luyện FFS năm thứ nhất.

3.1. Góp ý của nông dân về các huấn luyện viên TOT
Căn cứ vào 28 báo cáo lớp tập huấn FFS năm thứ nhất, những góp ý của nông dân được
tóm lược như sau:
(1) Chương trình tập huấ
n thực hiện bởi các huấn luyện viên TOT là khả thi trong điều
kiện địa phương,
(2) Phương pháp huấn luyện, tập trung vào điều tra ngoài đồng, quan sát, thực hành và
thảo luận là thích hợp và có ý nghĩa, và
(3) Vườn trình diễn do các nông dân dự lớp FFS quản lý dưới sự hướng dẫn của huấn
luyện viên TOT đã đem đến cho họ nhiều kiến thức, nhất là có liên quan đến lợi ích
mang l
ại từ kiến vàng và ít ảnh hưởng đến môi trường từ việc không sử dụng thuốc
độc hại.

3.2. Báo cáo của huấn luyện viên TOT
Căn cứ theo yêu cầu của thành viên dự án, mỗi báo cáo cần gồm có:
(1) Chương trình huấn luyện căn cứ vào điều kiện canh tác điều tại địa phương,
(2) Sơ đồ và kết quả của vườn trình diễn,
(3) S

ự tiến bộ về kiến thức của nông dân,
(4) Sự tự nguyện của nông dân để áp dụng phương pháp IPM cây điều,
(5) Sự góp ý của nông dân, và những đề nghị của họ, và
(6) Những góp ý và đề nghị của huấn luyện viên TOT.
Tổng số 28 báo cáo lớp FFS đã nhận và các báo cáo đề cặp đến 6 mục đã nêu, cho thấy
rằng các huấn luyện viên TOT có đủ kiến th
ức về IPM cây điều, và có khả năng tiến hành
các lớp FFS. Những đề nghị và góp ý của họ rất hữu ích cho chúng tôi lập kế hoạch
chương trình tập huấn FFS năm thứ hai.

3.3. Hội thảo nông dân thực hiện bởi thành viên dự án
Trong tháng 10/2008, thành viên dự án đã thực hiện 4 buổi hội thảo nông dân. Tổng số 75
nông dân (trong đó có 19 phụ nữ), là những người đã hoàn thành lớp FFS năm thứ nhấ
t, tại
Ninh Thuận, Bình Thuận, và Bình Phước, đã tham dự hội thảo. Họ cho biết hài lòng với
khả năng của các huấn luyện viên TOT, phương pháp và kỹ năng huấn luyện, và sự am
hiểu của các giảng viên về chương trình IPM cây điều. Nhiều nông dân phát biểu rằng đây
là đợt tập huấn tốt nhất về cây điều mà họ đã được dự. Mặc dù kiến vàng phổ bi
ến, nhưng
người nông dân đã không biết về những lợi ích của nó cho đến khi các huấn luyện viên
TOT trình bày những kết quả của vườn trình diễn.

3.4. Tham dự lớp tập huấn FFS
112 huấn luyện viên TOT (56 từ lớp TOT năm thứ nhất và 56 từ lớp TOT năm thứ hai) đã
chuẩn bị cho 81 lớp FFS ở 10 tỉnh có trồng điều từ tháng 9/2008. Để đánh giá năng lực củ
a
các huấn luyện viên TOT, thành viên dự án đã dự một số lớp FFS thực hiện bởi các học

9
viên TOT năm thứ hai tại Đồng Nai và Bình Phước trong tháng 10/2008. Dưới sự hướng

dẫn của các huấn luyện viên TOT, chúng tôi đã làm việc với các nông dân về điều tra đồng
ruộng, nhận dạng sâu bệnh hại trong vườn, và các triệu chứng. Chúng tôi cũng tham dự
cuộc thảo luận trong lớp. Mặc dù các huấn luyện viên TOT có một số sai sót nhỏ, nhìn
chung, chúng tôi hài lòng về phương pháp huấn luyện và sự hiểu biết của h
ọ về chương
trình IPM cây điều. Chúng tôi sẽ tiếp tục đánh giá và giám sát việc tập huấn FFS trong mùa
điều này (ra hoa, kết trái và thu hoạch).
Từ những đánh giá ở trên, chúng tôi kết luận rằng các huấn luyện viên TOT có đủ năng lực
trong ứng dụng chương trình IPM cây điều và huấn luyện FFS ở những môi trường khác
nhau.

4. Đánh giá sự chấp nhận của nông dân về sự can thiệp của dự án
Vì lớp FFS năm thứ hai đang được triển khai, việc đánh giá sự chấp nhận của nông dân về
chương trình IPM cây điều không thể thực hiện được cho đến tháng 5/2009. Tuy nhiên,
chúng tôi đã có 698 nông dân đã hoàn thành lớp FFS năm thứ nhất. Để đánh giá chúng tôi
sử dụng hai phương pháp:
(1) Thực hiện cuộc phỏng vấn nông dân với một số câu hỏi soạn sẵn, và
(2) Tổ chức các cuộ
c hội thảo nông dân để thu thập các góp ý và đề nghị của họ.
Tổng số 220 phiếu điều tra đã được phát cho những nông dân đã hoàn thành lớp FFS năm
thứ nhất, và những phiếu này sẽ được thu thập trở lại và phân tích trong tháng 1/2009. Kết
quả sẽ được báo cáo trong báo cáo đánh giá dự án.
Với sự lưu tâm về hội thảo nông dân, chúng tôi đã tổ chức 4 cuộc hội thảo tại Ninh Thuận,
Bình Thuận và Bình Phước trong tháng 10/2008. Đã có 75 nông dân (trong số có 19 phụ
nữ). Mỗi người trong họ đều phát biểu bày tỏ ý nghĩ của họ về áp dụng chương trình IPM.
Kết quả được tóm lược như sau:
• Phần lớn nông dân nói rằng chương trình IPM cây điều là một cái mà họ cần để tiếp
tục duy trì việc trồng điều vì chương trình không cần nhiều nhập liệu, mà duy trì
được năng suất và ch
ất lượng hạt điều. Vì hiện tại, người trồng điều chỉ có thể thu

lợi thấp từ cây điều do phí tổn cao của thuốc trừ sâu, trừ bệnh, trừ cỏ và phân bón,
và giá cả hạt điều không ổn định, mà hệ quả là sự chuyển dịch từ cây điều sang cây
cao su có giá cao hơn.
• Phương pháp IPM ứng dụng trong vườn trình diễn rất thự
c tiễn và dễ cho người
nông dân áp dụng.
• Phần lớn nông dân phát biểu rằng họ thường xuyên trừ kiến bằng thuốc trừ sâu vì
tính hung hăng của kiến, nhưng từ nay, họ sẽ bảo vệ kiến trong vườn của mình.
• Đa số nông dân có kế hoạch dùng kiến trong một phần vườn trong mùa tới để kiểm
chứng và làm quen với phương pháp quản lý đàn kiến mà họ đã
được học trong lớp
FFS.
• Phần lớn nông dân đã kiến nghị với chính quyền địa phương rằng họ mong muốn
thành lập “Câu lạc bộ điều năng suất cao” để có cơ hội truyền đạt kiến thức đến
những nông dân khác trong vùng.
• Tất cả các nông dân hài lòng với sự cải thiện môi trường nông nghiệp từ việc không
sử dụng thuốc trừ sâu độ
c hại.
• Phần lớn nông dân chỉ biết 1 hoặc 2 loại sâu bệnh trong vườn điều của họ trước khi
dự lớp FFS, nhưng hiện nay họ đã biết phần lớn các loại sâu bệnh hại chính sau
khóa huấn luyện.

10
• Đa số nông dân đã không biết thiên địch trước khi được tập huấn, nhưng hiện nay
họ đã có thể nhận biết một số loại thiên địch quan trọng, nhất là kiến vàng, bọ rùa,
bọ ngựa, và ong ký sinh.
• Với ảnh hưởng tích cực của các lớp FFS hiện tại, đã có nhu cầu cần được tham dự
lớp tập huấn IPM cây điều của nông dân đị
a phương.







×