Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam - MS9 " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.48 KB, 11 trang )


1

Ministry of Agriculture & Rural Development



Báo cáo tiến độ của dự án


004/05VIE

Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam


MS9: Báo cáo 6 tháng lần 4

(01/2008 - 06/2008)



2
Mục lục

1. THÔNG TIN VỀ CÁC ĐỐI TÁC: 3
2. TÓM TẮT DỰ ÁN: 4
3. TÓM TẮT KẾ HOẠCH: 4
4. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN: 6
5. TIẾN ĐỘ CỦA DỰ ÁN TÍNH ĐẾN NGÀY BÁO CÁO: 7
5.1. ĐIỂM QUA CÁC CÔNG VIỆC ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN: 7


5.3.
CÁC LỢI ÍCH CỦA CÁC HỘ CHĂN NUÔI NHỎ: 9
5.4.
TRANG THIẾT BỊ 9
5.5.
VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG 9
5.6. Q
UẢN LÝ DỰ ÁN 9
6. VỀ MỘT Số VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 9
6.1 M
ÔI TRƯỜNG 9
6.2 C
ÁC VẤN ĐỀ VỀ GIỚI TÍNH VÀ XÃ HộI 10
7. MộT Số VấN Đề Về VIệC THựC HIệN VÀ TÍNH BềN VữNG: 10
7.1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ, CÁC KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP 10
7.2
TÍNH BỀN VỮNG 10
8. CÁC BƯỚC TIẾP THEO 10
9. KẾT LUẬN 11
10. CAM ĐOAN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.


3
1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam

Các đối tác tham gia phía Việt Nam

Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông
Lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía VN
TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía Australia
The University of Queensland/Victorian Department of
Primary Industry/South Australian Research and
Development Institute/University of Sydney
Cán bộ tham gia dự án phía Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony
Fahy, Dr Trish Holyoake
Ngày bắt đầu
1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định ban đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa chữa)
tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo
tháng 07 năm 2007 – tháng 01 năm 2008
Các địa chỉ liên lạc:
Phía Australia: Trưởng dự án
Tên Dr Darren Trott Telephone: 617 336 52985
Chức vụ
Giảng viên chính, trường Thú Y, Đại học Tổng
hợp Queensland
Fax:
617 336 51355
Cơ quan
Trường Thú Y, Đại học Tổng hợp Queensland
Email:


Phía Australia: Quản lý hành chính
Tên
Melissa Anderson
Telephone:
61 7 33652651
Chức vụ
Trưởng văn phòng các dự án nghiên cứu
Fax:
61 7 33651188
Cơ quan
Trường Tài nguyên đất và thức ăn, Đại học
Tổng hợp Queensland
Email:


Phía Việt Nam
Tên
TS. Đỗ Ngọc Thuý
Telephone:
84 4 8693923
Chức vụ
Nghiên cứu viên
Fax:
84 4 8694082
Cơ quan
NIVR
Email:



4
2. Tóm tắt dự án:
Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi các giống lợn như lợn Móng
Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các
điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất
lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho
các chương trình giống thuầ
n và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể
cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín
từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại
và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương
trình cải tiến liên tục này (CIP) s
ẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho
các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua
phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những
người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể
thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể
áp dụng được thành công trong thực tế.


3. Tóm tắt kế hoạch:
Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các trại; 3.
Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông hộ; 5. Theo
dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận.

Trong thời gian 6 tháng thứ 2 thực hiện dự án, các tiến độ đáng kể đã được thực hiện đối với các
mục tiêu 2-4, theo đúng như đề cương củ
a dự án, với 1 số những thay đổi nhỏ và yêu cầu kéo dài
thêm thời gian do 1 số tình huống không được dự báo trước.


Một điều tra về các hộ nông dân, do các nhà khoa học Việt Nam và Australia thiết kế trong quá
trình chương trình tập huấn diễn ra tại Australia đã được hoàn thành tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa
Thiên Huế, Bình Định và tỉnh Quảng Trị. Một dạng mẫu điều tra online đã do trường Queensland
thiết kế và
đã đưa vào thực hành nhằm mục đích đơn giản hóa việc đăng nhập số liệu và các phân
tích, và cung cấp các công cụ để theo dõi chương trình cải tiến liên tục (CIP) tại các trại đã được
chọn lựa. Hệ thống này còn có khả năng cập nhật các hình ảnh, bởi vậy mà các ảnh hoặc hình vẽ về
kế hoạch xây dựng cải tiến chuồng trại cũng có thể được
đánh giá hoặc trao đổi nhanh chóng giữa
các nhà khoa học. Các dữ liệu này sẽ cung cấp nền tảng cơ bản cho việc mở rộng tiếp tục mô hình
này, vượt ra khỏi cả khuôn khổ của dự án hiện tại.

Trên cơ sở các trả lời của các điều tra, mà đã được phân tích qua bằng chương trình SPSS, 27-30
trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được chọn lực và các mục tiêu 3-4
đã được bắt đầu đi vào thực hiện (nâng
cấp các trang thiết bị, tập huấn, và nhập lợn giống). Các nhà khoa học Việt Nam, những người mà
dã được tham gia khóa tập huấn tại Australia sẽ tiến hành 2 bài đánh giá về các trình độ thu được.
Thứ nhất, dựa trên các cuộc điều tra tại thực địa và việc thảo luận với các nhà khoa học Australia,
họ đã đặt ra nhiệm vụ thiế
t kế hệ thống chuồng trại thích hợp cho lợn Móng Cái đối với các trại đã
được chọn lựa để công việc có thể chính thức được khởi động. Thứ hai, trong quá trình các nhà
khoa học Australia tiến hành các chuyến đi thực địa, họ đã tiến hành các đánh giá và nhận biết ra
các vấn đề tồn tại, thảo luận và đưa ra các ưu tiên.


5
Do chi phí của việc đi lại và do thiếu các kỹ thuật viên cơ sở có kinh nghiệm để hỗ trợ, chúng tôi đã
quyết định là tạm thời để tỉnh Bình Định ra khỏi các mục tiêu 2-4 cho tới sau này của dự án. Thay
vào đó, các cố gắng sẽ được tập trung vào việc tiến hành các thay đổi ở tình Quảng Trị (do NIAH tự
quản lý) và Thừa Thiên Huế (do HUAF tự quản lý). NIVR sẽ bảo đảm việc ti

ến hành các chẩn đoán
về bệnh tiêu chảy và các bệnh khác cho các trại, hỗ trợ về thú y trong việc điều tra các ổ dịch bệnh
và cung cấp vacxin E. coli do cơ quan này chế tạo để phòng bệnh tiêu chảy do E. coli ở lợn con theo
mẹ cho cả 2 tỉnh này. Tùy địa điểm thích hợp, các nhà khoa học của NIAH và HUAF mà đã được
tập huấn ở Australia sẽ hợp tác với nhau trong các chương trình tập huấn ở cả
2 tỉnh để đảm bảo
việc chuyển giao 1 cách đầy đủ nhất các ý tưởng và các kỹ năng.

Trong quá trình tiến hành điều tra, bất chấp 1 thực tế là các loại hình của hệ thống các trại là rất đa
dạng và chất lượng của chuồng trại là khác nhau rất nhiều, chúng tôi cũng đã quyết định rằng, hơn
vì so sánh các ưu điểm thể hiện giữa lợn nái lai nhậ
p ngoại và lợn Móng Cái, phần lớn các hộ nông
dân (ngoại trừ 1 ngoại lệ là 1 hộ gia đình rất có kinh nghiệm trong việc nuôi các giống lợn ngoại) sẽ
được nhận các lợn nái hậu bị thuần chủng Móng Cái. Nếu các hộ nông dân đạt được những thành
công với việc nuôi lợn Móng Cái, thì sau đó họ cũng có thể được khuyến khích để mở rộng chăn
nuôi và nuôi lợn F1 hoặc các lợn lai trong tương lai. Có 2 mô hình thích hợp khác nhau đ
ã được thử
nghiệm, mỗi mô hình ở 1 tỉnh. Tại Thừa Thiên Huế, do khoảng cách giữa các trại và HUAF gần
nhau nên các chuyến đi thực địa xuống các trại cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Do vậy, các
thay đổi đối với các điều kiện chăn nuôi như việc xây dựng khu chuồng riêng cho các lợn nái đã cạn
sữa, khu chuồng cho lợn nái đẻ và chuồng riêng cho lợn con, tăng mức độ thoáng gió và h
ệ thống
làm mát bằng nước nhỏ giọt cũng đã được tiến hành cùng thời gian với việc đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi, đồng thời với việc tập huấn từng bước 1 đối với từng giai đoạn có tính quyết định của quá
trình chăn nuôi. Các lợn nái hậu bị mang thai đầu tiên ở Thừa Thiên Huế sẽ đẻ con vào khoảng cuối
tháng 10, đầu tháng 11. Ở tỉnh Quả
ng Trị, các trại được chọn lựa đã tham gia chương trình tập huấn
về nuôi lợn Móng Cái thuần chủng do NIAH tổ chức ngay sau khi quá trình chọn lựa các trại được
tiến hành xong. Một mô hình chuồng nuôi lý tưởng cho lợn Móng Cái đã được thiết kế như là mô
hình mẫu cho nông dân để có thể dựa vào đó và tiếp tục phát triển một khi mà đã bắt đầu có lợi

nhuận. Các lợn nái hậu bị được nuôi trong vùng lợn Móng Cái thu
ần chủng ở miền Bắc được dự
định là sẽ được vận chuyển đến các trại đã được chọn lựa ở tỉnh Quảng Trị trong tháng 7. Tuy
nhiên, các ổ dịch FMD và PRRS nổ ra ở tỉnh Quảng Trị đã làm cản trở việc chu chuyển gia súc vào
tỉnh này, và bởi vậy các lợn nái hậu bị lại phải bán trở lại cho các hộ nông dân ở miền Bắc. Do vậy,
quá trình nâng c
ấp chuồng trại đã được tiến hành xong hoàn toàn trước khi đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi. Tuy nhiên, sau đó thì tình hình các bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị đã ít nhiều sang
sủa hơn nên các lợn nái hậu bị lại đã tiếp tục được chọn lựa và sẽ được đưa vào đây vào khoảng
tháng 11 hoặc tháng 12, khi mà giá cả là hoàn toàn thích hợp.

Các chương trình tập huấn chính và đồng thời ở mỗi tỉnh đã đượ
c lập kế hoạch vào tháng 11, tập
trung chủ yếu vào việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái Móng Cái trong quá trình mang thai và nuôi
con, cũng như là việc chăm sóc lợn con ở độ tuổi trước cai sữa. Trong tuần thứ 1, các kỹ thuật viên
cơ sở sẽ được tập huấn, sau đó là đến các nông dân đã được chọn lựa vào tuần thứ 2. Do sự chậm
trễ về kế hoạch thực hiện trong khoảng 3-4 tháng gây ra bởi d
ịch bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng
Trị, những người tham gia dự án muốn có thêm 1 khoảng thời gian gia hạn là 3 tháng đối với tất cả
các báo cáo tiến độ 6 tháng (tháng 1 và tháng 7 hàng năm).

Các thay đổi về nhân lực tham gia dự án bao gồm: việc biệt phái TS. Côi sang vị trí mới là giám
đốc Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, và TS. Tạ Thị Bích Duyên sẽ là người thay thế để
quản lý dự án phía NIAH. TS. Trish Holyoake cũng đã chính thức xin phía trường Sydney rút khỏi
dự án này do bà ta ph
ải tham gia 1 số dự án khác. Do vậy, khoản ngân sách $18,000 trước đây là
vốn hoạt động của phía trường Sydney được yêu cầu là sẽ phân phối đều cho các cơ quan nghiên
cứu phía Việt Nam để trang trải các chi phí đi lại do các trì hoãn gây ra ở tỉnh Quảng Trị và việc
phải đi lại nhiều hơn đối với các nhà khoa học ở Huế.



6
4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án:
Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt Nam đã
không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn giữ chăn nuôi
theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc chăn nuôi được mở
rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc bi
ệt là ở giai đoạn lợn con còn đang bú mẹ, do
vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt hại đáng kể cho lợn ở giai
đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng
đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân
chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồ
ng lợn đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân
chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này
cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi
tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
cũng là nguồn cải thiện thu nhập
đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở
do lợi nhuận thu được là rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng
trong chăn nuôi và quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm
thu được từ dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Vi
ệt
Nam hiện đang phải đối mặt là:
• Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày
• Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán ra/nái/năm
để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được
• Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản
• Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả n
ăng tiêu thụ thức ăn của lợn
• Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng

• Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và nguyên
nhân gây chết
• Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác dụng
phòng bệnh của vacxin
• Thiế
u chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân
• Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học

Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi lợn,
cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
Hu
ế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn nuôi, thú y, chuồng
trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các ưu tiên nghiên cứu. Một
ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là nuôi <10-15 lợn nái) và các trại
thương phẩm nhỏ (30-100 nái) ở từng tỉnh sẽ được lựa chọn để tham gia vào quá trình điều tra và
đánh giá – các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chăn nuôi, trình độ của người chăn nuôi và các điều
kiện chăn nuôi tại các trại. Trước khi triển khai điều tra, các nhà khoa học phía Việt Nam sẽ được
tập huấn để tổ chức các chuyến kiểm tra thực địa và phòng vấn nông hộ, thu thập số liệu về sức sản
xuất và các điều kiện về trang thiết bị khác.
Tiếp theo các cuộc điều tra ở các trại đã được chọn lựa tại 3 tỉnh, 1 cuộc hội thảo sẽ đựoc tổ
chức tại Trường Đại học Nông lâm Huế để xác định các yếu tố rủi ro chính có ảnh hưởng đến năng
suát chăn nuôi lợn. Những ưu tiên nghiên cứu sẽ được xác lập cho việc cải tiến quản lý, các kỹ thuật
chăn nuôi và chuồ
ng trại tại các nông hộ. Điều này sẽ có dẫn đến kết quả là việc phát triển các mô
hình chuồng nuôi thích hợp cho chăn nuôi lợn (với những cải tiến phù hợp), cũng như là các kỹ
thuật chăn nuôi và quản lý. Một khi mà các mô hình này được đánh giá thông qua, hàng loạt các
chuyến đi thực địa sẽ được triển khai ở các huyện mà các cán bộ khuyến nông và thú y địa phương
là những người đã được
đào tạo sẽ tham gia tích cực. Các nông dân dã được lựa chọn sẽ được mời
tham dự các lớp tập huấn “Tập huấn cho giáo viên” ở mỗi vùng. Các buổi hội thảo về chăn nuôi lợn

từ sinh sản đến khi bán ra thị trường cũng sẽ được tiến hành để đáp ứng được các yêu cầu và các hệ
thống chăn nuôi theo đó.

7
Rất nhiều nông hộ nghèo hiện nay vẫn nuôi các giống lợn nội với ý định lai chúng với các
giống lợn ngoại để tăng khá năng phát triển và năng suất ở đàn con F1. Tuy nhiên, các giống lợn
nội nuôi tại các nông hộ hiện tại có năng suất rất kém. Trong số 3 dòng lợn thuần chủng chính,
giống lợn Móng Cái có năng suất cao hơn cả. Giống lợn Móng Cái có năng suất cao đã được ti
ến
hành lai với lợn Bắc Giang cho đàn con trung bình là 13-14 con/lứa đẻ (so với các giống lợn nội
khác chỉ đạt 8-9 con) và tốc độ tăng trọng bình quân đạt 350-400 g/ngày (các giống khác 200-250
g/ngày). Kết quả này đã bộc lộ rõ các ưu việt của giống lợn Móng Cái. Nếu thay thế được đàn lợn
nội bằng lợn Móng Cái thuần chủng có năng suất và chất lượng cao sẽ tạo thành các vùng hạt nhân
về lợn Móng Cái thu
ần chủng cho vùng Duyên hải miền Trung. Các con nái hậu bị thuần chủng sẽ
được tăng lên về số lượng và sẽ được bán cho các hộ chăn nuôi nhỏ khác trong chương trình lai với
lợn đực ngoại. Các công thức lai trong đàn F1 sẽ cho tốc độ phát triển tốt hơn các giống nội hiện
đang nuôi, nhưng lại thích nghi hơn với các điều kiện môi trường của địa phương so với các giống
lợ
n ngoại. Ngoài ra, chương trình này còn góp phần bảo tồn nguồn gen lợn Móng Cái thuần chủng
tại khu vực Duyên hải Miền Trung.

5. Tiến độ của dự án tính đến ngày báo cáo:
5.1. Điểm qua các công việc đã được thực hiện:

1) Những thay đổi, cải tiến cuối cùng đối với hệ thống dữ liệu trực tuyến:
Một mạng dữ liệu hoàn chỉnh có thể được truy cập tại địa chỉ URL:
. Tên truy cập (AUSAIDCARD) và mật khẩu (pigproject) đã được
kiến tạo cho các thành viên của ban quản lý dự án CARD có thể tiếp cận và xem xét các dữ liệu
(nhưng không thể làm thay đổi các báo cáo theo dõi) tại bất kỳ thời điểm nào bởi vì nó sẽ liên tục

được cập nhật trong suốt quá trình thực hiện dự án. Phiên bản dạng word của dạng câu hỏi điều tra
ngắn gọn bằng tiếng Anh và tiếng Việt có thể đượ
c xem chi tiết trong Phụ lục 1. Ms. Tarni Cooper
đã tiến hành nhập các dữ liệu thu được từ các trại mô hình trong các chuyến công tác tới Việt Nam
2007/2008. Mỗi trại đều đã được gắn với một mã số ID. Chúng tôi đã cố gắng tập huấn cho các nhà
khoa học Việt nam cách sử dụng các mẫu đánh giá kiểm tra với mỗi lần họ xuống thăm các trại đã
được chọn lựa. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có những thành công nh
ất định do một số nguyên nhân
tác động như: khả năng đăng nhập vào mạng internet ở Việt nam còn chậm và khó, do một vài lỗi
mã hóa đã cản trở việc lưu giữ dữ liệu nếu tiến hành nhập số liệu từ phía Việt Nam, cũng như là
việc chưa nhận thức đúng mục đích thực và tác dụng của các điều tra từ phía những đối tác tham gia
dự
án. Ms. Tarni sẽ tiến hành một chuyến công tác tiếp theo vào khoảng thời gian 2008/2009 để tiến
hành một đánh giá hàng năm đối với tất cả các trại mà đã được kiểm tra, đánh giá trước đó vào năm
2007/2008. Việc làm này sẽ cung cấp cho dự án các số liệu cực kỳ hữu ích. Rất nhiều các số liệu đã
được thu thập từ các trại mô hình sẽ được báo cáo trong báo cáo MS6 và sẽ được nộp tới văn phòng
dự án CARD trong thời gian sớm nhất.

2) Việc đánh giá kiểm tra các trại do các thành viên đội dự án phía Australia thực hiện
(Tháng 5/2008)
Để thuận lợi và cho phép việc so sánh một cách dễ dàng, các báo cáo về các chuyến công tác từ TS.
Tony Fahy và TS. Colin Cargill về các nhiệm vụ tập huấn, đào tạo đối với phía Việt Nam vào tháng
5 năm 2008 sẽ được báo cáo trong các tài liệu báo cáo mốc thực hiện số 11, bởi vì phần đào tạo
cũng được tiến hành trong suốt tháng 11 nă
m 2008 (có trong báo cáo 6 tháng lần 5). Một bản tóm
tắt về các bài tập huấn, đào tạo cũng được trình bày trong báo cáo của TS. Linh từ trường Đại học
Huế.

3) Về việc nộp các tóm tắt các kết quả thực hiện được của dự án tới Hội nghị Hợp tác Chăn
nuôi Thú Y Á - Úc lần thứ 13 tại Hà Nội, tháng 9 năm 2008.


8
Có tất cả 7 tóm tắt (3 từ Viện Thú Y, 2 từ trường Đại học Huế, một từ Viện Chăn nuôi và 1 từ TS.
Colin Cargill) đã được nộp tới ban thư ký Hội nghị AAAP và đã được chấp nhận để trình bày tại
hội nghị tổ chức vào tháng 9 năm 2008 (Xem Phụ lục 2: Các Tóm Tắt Hội nghị). Các bài báo cáo từ
Viện Thú Y chủ yếu tập trung vào các tiến độ đã đạt được trong vi
ệc chế tạo vacxin E. coli, kiểm
tra an toàn và hiệu lực của vacxxin, đồng thời xác định tỷ lệ của các nguyên nhân khác nhau gây
tiêu chảy ở lợn con theo mẹ và xác định các yếu tố độc lực ở các chủng ETEC và STEC phân lập
được từ các trường hợp tiêu chảy trước cai sữa, sau cai sữa và phù đầu ở Việt Nam. Chi tiết về các
kết quả này sẽ được báo cáo riêng trong một báo cáo của dự án 001/04VIE. Hai bài báo từ trường
Đại h
ọc Huế đã báo cáo các kết quả về các điều tra tại trại đã được tiến hành vào năm 2007 và kết
quả thử nghiệm so sánh chuồng trại được xây dựng theo phương thức truyền thống với thiết kế mới
được xây dựng trong quá trình thực hiện dự án. Ở nhóm chuồng trại được xây dựng theo kiểu mới,
số lượng lợn con sinh ra và sống sót (11.1±2.6) và số con cai sữa (9.3±1.1) là cao hơn mộ
t cách rõ
rệt (P < 0.01) so với nhóm chuồng trại theo phương thức truyền thống (với các con số lần lượt là
9.5±1.5 và 7.1±1.4). Ngoài ra, các lợn con được nuôi trong chuồng trại kiểu mới có tỷ lệ tăng trọng
từ lúc sinh đến cai sữa cũng cao hơn rõ rệt (126.3±19.5 g/ngày so với 107.4±15.4 g/ngày; P < 0.05).
Bài báo cáo từ Viện Chăn nuôi cũng đã ghi nhận lại những chuyển biến rõ ràng ở tỉnh Quảng trị từ
khi đưa mô hình mới vào áp dụng: số
con sinh ra và sống sót (11.5 so với 10 lợn con/đàn) và cai
sữa (10.5 so với 9.5 lợn con) và có sự giảm đáng kể về tỷ lệ chết trước cai sữa (2.1% so với 8.6%).
Quan trọng hơn, báo cáo này đã nhấn mạnh những lợi ích kinh tế đáng kể đã đạt được như giá thức
ăn rẻ, tận dụng được một số phụ phẩm có sẵn tại địa phương, kết hợp với th
ức ăn đậm đặc, hơn là
phải mua thức ăn có bán sẵn trên thị trường.



4) Các báo cáo từ Viện Chăn nuôi và trường Đại học Huế:
Có tất cả bảy nông hộ ở tỉnh Quảng Trị đã được hỗ trợ để xây dựng chuồng nuôi lợn mới dựa trên
cơ sở thiết kế ban đầu đã được Mr. Biên từ Viện Chăn nuôi phác họa. Kiể
u chuồng ban đầu của Mr.
Biên đã được nâng cấp, cải tiến thành kiểu hiện tại, dựa trên cơ sở các quan sát và kinh nghiệm
(xem phụ lục 3: Nâng cấp, cải tiến thiết kế chuồng nuôi lợn Móng Cái thuần chủng). Một vài trại đã
có các hệ thống uống nước tự động. Kết quả thu được đáng phấn khích nhất trong giai đoạn 6 tháng
ở Quảng Trị là việc đưa các lợ
n hậu bị Móng Cái thuần chủng tới các trại đã được chọn lựa vào
ngày 1 tháng 5 năm 2008. Đợt dịch bệnh lở mồm long móng ở các tỉnh miền Trung Việt Nam đã
gây ra một trì hoãn không thể tránh được và đã làm tăng giá thức ăn và kiểm dịch của đàn nuôi mới.
Giá mua lợn là cao hơn rất nhiều so với trước khi ổ dịch xảy ra. Một nguyên nhân khác làm cho tình
hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng hơn,
đó là hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn do virus
PRRS (trước đây vẫn được gọi nôm na là "bệnh tai xanh") xảy ra ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
trong suốt từ đầu đến giữa năm 2008. Thật tình cờ và không may, dự án phải trì hoãn quá nhiều
ngày do dịch lở mồm long móng vào năm 2007, đàn lợn Móng Cái thuần chủng của Viện Chăn
nuôi đã được tiêm phòng vacxin PRRS (vacxin Trung Quốc do Bộ NN và PTNT nhập khẩu) và
vacxin l
ở mồm long móng. Các nái hậu bị đã được đưa vào nuôi, phối và đẻ con vào nửa năm sau
của 2008, và tất cả đã sống sót qua ổ dịch PRRS, trong khi cùng thời gian đó, có rất nhiều lợn nuôi
tại Quảng trị đã bị chết hoặc bị tiêu hủy (xem Phụ lục 4: Báo cáo từ NIAH)



Tại Thừa Thiên Huế, Dr. Linh đã trình bày 3 nội dung chính trong báo cáo (Xem Phụ lục 5: báo cáo
từ trường Đại học Huế). N
ội dung 1 là các lớp tập huấn đã được tổ chức thành công ở Huế và
Quảng Trị - ở đó, các nhà khoa học Việt Nam và Australia đã được tiếp xúc gần gũi với các nộng
hộ đã được chọn lựa ở mỗi tỉnh. Chương trình tập huấn gồm 5 nội dung chính: Kiểm soát đàn và

Phương pháp lưu giữ, theo dõi các dữ liệu; Hiệu quả của việc sử dụng h
ộp sưởi đối với sức khỏe
của lợn con; Chuồng nuôi lợn và các điều kiện về môi trường; Dinh dưỡng cho lợn, cách cho ăn,
phòng và chống các bệnh ở lợn. Mỗi người tham dự lớp học đã được nhận 1 chứng chỉ tham gia
(tương đương với trình độ tập huấn 4). TS. Linh cũng đã báo cáo về dịch bệnh PRRS ở miền Trung
Việt nam và ảnh hưởng nghiêm trọ
ng của nó tới dự án, gây chết 32 lợn nái (nghi ngờ bị PRRS) và

9
19 lợn nái khác đã bị tiêu hủy do có các triệu chứng lâm sàng của PRRS tại 5 xã thuộc tỉnh Thừa
Thiên Huế (phần lớn các lớn nái đang trong thời gian của lứa đẻ thứ 2). Các nông hộ, sau đó đã
được nhận tiền trợ cấp với giá là 20.000 VNĐ cho 1 kg thiệt hại, nhưng đó lại chính là thời điểm
quyết định của dự án để chuẩn bị cho việc sinh đẻ củ
a ít nhất là 45 đàn. Tuy vậy, TS. Linh cũng đã
tiến hành báo cáo về việc vượt qua các trở ngại trong chăn nuôi và sinh sản của đàn lợn đã đạt được
nhờ các sáng kiến của dự án, và các nông hộ đã ở trong 1 tình thế rất tốt để bắt đầu sản xuất lại với
giá lợn đã lên rất cao trở lại. Các hộp sưởi mới cho lợn con đã cực kỳ phát huy hiệ
u quả, đặc biệt là
trong suốt mùa lạnh và hiệu quả sinh sản của đàn lợn đã tăng lên nhiều với tỷ lệ trung bình là 13.1
lợn con/nái sinh ra và sống sót (ở các lợn nái lứa đẻ thứ 2 hoặc 3, hơn là lợn nái hậu bị) và chỉ có 3
nái đã được phối không thành công. Căn cứ vào giá lợn cai sữa cao tại thời điểm hiện tại (70.000-
80.000 VNĐ) - đây chính là sự thúc đẩy mạnh m
ẽ đối với dự án trên cơ sở nếu hầu hết các lợn con
sinh ra sống sót cho đến lúc cai sữa. Với việc đưa lợn Móng Cái có khả năng sản xuất cao vào nuôi,
cùng với việc kiểm soát tốt môi trường chuồng nuôi lợn nái và lợn con, việc sử dụng các hộp sưởi
ấm, thì các chương trình tập huấn bây giờ có thể chỉ tập trung chủ yếu vào giai đoạn trước cai sữa,
đặc biệ
t là về các nguyên nhân gây bệnh và cách phòng bệnh tiêu chảy. Ts. Linh cũng đã ghi chép
là lịch tiêm phòng vacxxin (bao gồm cả vacxin phòng PRRS) và việc đánh giá một cách tóm tắt các
sáng kiến đã làm của dự án cho tới ngày hôm nay. Các sáng kiến này bao gồm việc cải tiến trên quy

mô lớn hơn đối với vấn đề chuồng trại, bao gồm cả việc đưa các hộp ủ vào sử dụng, cách khống chế
nhiệt độ và việc đưa vacxin E. coli có chứa các loại kháng nguyên khác nhau do NIVR chế t
ạo vào
tiêm phòng. Các tiến triển rõ rệt về số lợn con trong đàn tăng lên, giảm khoảng cách giữa các lứa đẻ
(chủ yếu là do lợn mẹ được nuôi với chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn) và tần suất cao của các lần sinh
sản thành công của các lợn nái đã làm cho các chủ nông hộ thu nhận những lời khuyến cáo có lợi từ
phía các nhà khoa học Australia và Việt nam. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều việc nữ
a phải làm để cải
thiện tình hình này.

5.3. Các lợi ích của các hộ chăn nuôi nhỏ:

Trong giai đoạn này, các hộ chăn nuôi đã được chọn lựa đã được nhận trực tiếp các thứ sau:
- Từng gia đình được tiến hành đào tạo, tập huấn với các chuyên gia người Australia và Việt
Nam vào thời điểm tháng 5 năm 2008 và đã được nhận các chứng chỉ tham gia tập huấn
- Đưa các lợn nái Móng Cái thuần chủng đã được tiêm vacxin vào nuôi tại các trại đã được
ch
ọn lựa tại tỉnh Quảng Trị. Hoạt động này đã giúp hình thành các hạt nhân của vùng giống
mới.
- Mặc dù dịch bệnh nghiêm trọng đã xảy ra ở các tỉnh miền Trung Việt Nam, dự án với các
nông hộ nhỏ đã có lợi thế hơn hẳn so với các gia đình hàng xóm đã phải tiến hành thay thế
đàn do phải tiêu hủy hoặc bị chết do dịch PRRS và phải bắt đầu gây d
ựng một đàn mới thật
nhanh để tránh giá lợn tăng cao

5.4 Trang thiết bị
Không có gì thay đổi so với báo cáo trước.
5.5 Việc công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
Không có gì được công bố mới.
5.6 Quản lý dự án

Không có gì thay đổi trong đội dự án.
6. Về một số vấn đề có liên quan
Môi trường

10
Không có gì bổ xung thêm. Một báo cáo đầy đủ về các vấn đề môi trường sẽ được trình bày trong
MS11. Báco cáo này sẽ bao hàm việc sử dụng hiện nay đối với các chất thải từ chuồng nuôi, nhưng
cũng sẽ đảm bảo các vấn đề về an toàn sinh học, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh, vấn đề chẩn đoán và
khống chế bệnh.
6.1 Các vấn đề về giới tính và xã hội
Không có gì bổ xung thêm. Một báo cáo đầy đủ về vấn đề giới tính và các vấn đề xã hội, đặc biệt là
việc tạo ra khí biogas từ các chất thải của chuồng nuôi lợn sẽ được báo cáo trong MS11. Một báo
cáo về việc xâu dựng vùng chăn nuôi lợn Móng Cái thuần chủng sẽ được trình bày trong MS11.
7. Một số vấn đề về việc thực hiện và tính bền vững:
7.1 Một số vấn đề, các khó khăn và giải pháp

Vấn đề 1: Dịch bệnh PRRS tại các tỉnh miền Trung Việt Nam
Khó khăn: Thiệt hại khoảng 35% lợn nái giống Móng Cái ở các xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế
Giải pháp:
1) Do vacxin phòng bệnh PRRS hiện nay đã có, vì vậy bệnh sẽ không còn là vấn đề lớn nữa
đối với thời gian còn lại của dự án. Vacxin cũng cần được bổ xung vào lịch trình tiêm các loại
vacxin hiện tại và các nông hộ cũng cần ph
ải được thông tin đầy đủ về các bệnh thường gặp ở lợn
để có kế hoạch phòng bệnh thích hợp.
2) Các lợn nái bị chết đã nhanh chóng được thay thế (thực tế thì chúng cũng có thể được
mua từ các nông hộ khác ở trong vùng có nuôi lợn Móng Cái thuần chủng, hơn là các đàn lai F1). Ở
tỉnh Quảng Trị, hiện nay, việc này đã tạo ra 1 cơ hội để đầu tư, hơn là một nguy c
ơ đe dọa.
3) Một báo cáo ghi chép lại sự xuất hiện của dịch PRRS (sử dụng dữ liệu từ nguồn của các
nhà khoa học Việt Nam) cũng đã được gộp trong báo cáo này (Xem Phụ lục 6: Báo cáo về ảnh

hưởng của dịch PRRS đối với dự án 004/005 VIE). Phụ lục này đã tóm tắt hầu hết các thông tin có
liên quan đến "Bệnh tai xanh" đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.


Vấ
n đề 2: Tập trung nhiều hơn vào vấn đề phòng và thanh toán bệnh có tính chất địa phương
Khó khăn: Có 1 vấn đề hiển hiện ra là các nông hộ vẫn chưa nhận thức hết được các lợi ích về kinh
tế thu được từ việc phòng và điều trị các bệnh nội ngoại ký sinh trùng, phòng chống bệnh cầu trùng
và lợi ích bao trùm trên hết của việc tiêm phòng vacxin E. coli. Việc này chỉ có thể thực hiện được
khi chúng tôi hoàn chỉ
nh các đánh giá, kiểm tra tại trại (Xem Phụ lục 7: Danh sách các việc cần
kiểm tra, đánh giá tại trại) và chọn các trại tốt nhất ở mỗi xã để tiến hành tập huấn, đào tạo theo
hình thức "nông hộ tập huấn cho nông hộ"
Giải pháp:
1) Xây dựng chương trình tập huấn theo mô hình "nông hộ tập huấn cho nông hộ" đúng
vào thời gian của các chuyến công tác của các chuyên gia phía Australia. Đợt tập huấn vào tháng
5/2008 ch
ủ yếu đã tập trung vào các biện pháp can thiệp ở trình độ cao của dự án (Xem Phụ lục 8:
Các mục tiêu của dự án đã được dịch sang tiếng Việt)
2) Thao khảo ý kiến tư vấn của Dr. Elske van de Fliert (Trường Đại học Tổng hợp
Queensland) về các phương pháp mới đánh giá thành công của sáng kiến "nông hộ tập huấn cho
nông hộ"

7.2 Tính bền vững
Vấn đề này sẽ được báo cáo chi tiết trong MS11.
8. Các bước tiếp theo

11
1) Lập kế hoạch chuẩn bị cho việc tập huấn nông hộ và kiểm tra, đánh giá các trại vào tháng
11/2008-tháng 2/2009 vào đúng thời gian của các chuyến công tác dài ngày của các thành viên đội

dự án phía Australia (kể cả Ms. Tarni Cooper).
2) Lên kế hoạch về phương thức quản lý, nuôi dưỡng tại trại, và tập trung thêm vào việc tập huấn
cho nông hộ về việc thanh toán bệnh ghẻ và hội chứng tiêu chảy ở lợn trước cai sữa (gây ra do vi
khuẩn, virus và ký sinh trùng, mà m
ỗi bệnh lại đòi hỏi một phương thức phòng và điều trị khác
nhau) - 2 loại bệnh dễ có thể phòng chống nhất đã tạo nên "giá ẩn giấu" trong các thiệt hại về chăn
nuôi và cũng cần đòi hỏi sự chú ý cẩn thận về các triệu chứng và chẩn đoán.
3) Thực hiện an toàn sinh học và các chương trình đảm bảo chất lượng để phòng chống lại các loại
bệnh mới và đảm bảo cho các loại thuốc được dùng để điều trị là đúng và thích hợp. Trong khi, rất
khó để có thể vận hành chương trình an toàn sinh học và cấp độ các trại riêng rẽ, thì các chính sách
như ngăn chặn, kiểm dịch và cách ly là hoàn toàn có thể làm được ở cấp độ các xã.

9. Kết luận

Tại thời điểm này của dự án, có một điều rất rõ ràng là các chủ nông hộ ở các trại mô hình hiện nay
đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của:
a) Chuồng trại được xây dựng và được thiết kế thích hợp, bao gồm cả vấn đề thông thoáng gió
b) Có hệ thống làm mát thích hợp cho lợn nái, đặc biệt là trong thời tiết nóng và cung cấp bầ
tiểu khí hậu khác nhau cho các lợn nái và l
ợn con.
c) Một vấn đề mấu chốt quan trọng là các hộp sưởi cho lợn con đảm bảo đủ sạch, khô, ấm để
cho lợn con khỏe mạnh và phát triển tốt
d) Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho các lợn nái đang mang thai, lợn nái trong thời kỳ cạn
sữa, đảm bảo đầy đủ trạng thái dinh dưỡng, giảm thời gian tối thiểu từ khi đẻ đến khi phố
i
giống lứa sau, tăng số lứa đẻ trong 1 năm. Có một thực tế đã xảy ra là phần lớn các nông hộ
đều cho lợn ăn với khẩu phần giới hạn, do vậy các việc cần phải cải tiến trong thời gian tới
là tập trung nhiều hơn vào chăm sóc cho lợn nái mang thai và lợn nái cạn sữa.

Có một việc rất rõ ràng rằng các nông hộ chăn nuôi đều rất dễ dàng b

ị dịch bệnh bên ngoài tấn công
(ví dụ như PRRS) và họ cũng thường xuyên không nhận thấy được bệnh nào có tồn tại ở địa
phương đó, hoặc là loại vacxin nào đã được sử dụng để tiêm phòng. Việc phổ biến quá nhiều thông
tin cùng một lúc tới người nông dân có xu hướng sẽ dẫn tới kết quả là họ sẽ không tiếp thu hết các
kiến thức và kỹ năng đã đượ
c giảng giải. Tuy nhiên, sau các buổi tập huấn, những người nông dân
đã có được những kinh nghiệm đầu tiên, và những cải tiến trong phương thức chăn nuôi từ những
thay đổi đơn giản về chuồng trại, quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái và lợn con. Đây chính là
thời điểm thuận lợi cho việc tiếp tục nâng cao các kiến thức và các nhận thức cho các nông hộ về
vấn đề dị
ch bệnh và cách sử dụng thuốc.

×