B GIO DC V O TO B Y T
VIN V SINH DCH T TRUNG NG
[ \
Trơng thừa Thắng
nghiên cứu huyết thanh học
nhiễm virút hanta
tại một số tỉnh miền bắc
việt nam
Chuyên ngnh: Virut hc
Mã số: 62.72.68.05
tóm tắt luận án tiến sĩ y hC
H NI NM 2008
Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Trương Uyên Ninh
TS. Hoàng Văn Tân
Phản biện 1: PGS.TS. Đinh Duy Kháng
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Hữu Dung
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Văn Phủng
Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước họp tại
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung Ương, Hà Nội
Vào hồi 9 gìơ ngày 20 tháng 05 năm 2008
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Viện Vệ sinh dịch tễ Trung Ương
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
1. Hoàng Thuỷ Nguyên., Hoàng Thuỷ Long., Trần Văn Tiến., Trương Uyên
Ninh., Huỳnh Phương Liên., Trịnh Quân Huấn., Nguyễn Hồng Hạnh., Lê
Quỳnh Mai., Nguyễn Thị Thành., Trương Thừa Thắng. (2000), Khảo sát
bước đầu về nhiễm virut Hantaan tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Tạp
chí y học dự phòng, Tập X, Số 1 (43), Tr 34-38.
2. Trương Thừa Thắng., Trương Uyên Ninh. (2003), Bước đầu nghiên cứu
huyết thanh học Hantan virut trên chuột tại hai tỉnh Hòa Bình và Lào Cai
trong năm 2002, Tạp chí y học thực hành, Số 3 (445), Tr 17-19.
3. Trương Thừa Thắng., Trương Uyên Ninh. (2003), Nghiên cứu huyết
thanh học virut Hantaan trên chuột tại tỉnh Hà Nam trong năm 2002, Tạp
chí y học dự phòng, Tập XIII, Số 2+3 (60), Tr 38-41.
4. Trương Thừa Thắng, Đặng Đức Anh, Phạm Ngọc Đính, Trương Uyên
Ninh, Jiro Arikawa. (2004), Phát hiện virut Hantan trên chuột Rattus
novergicus và người lành tại tỉnh Hà Nam năm 2003, Tạp chí nghiên cứu
y học. 31(5), Tr 27-31.
5. Trương Thừa Thắng., Trương Uyên Ninh. (2004), Giám sát huyết thanh
học virut Hantaan trên chuột Rattus novergicus tại tỉnh Thanh Hóa trong
năm 2003, Tạp chí Y học thực hành. Số 1 (471), Tr 55-56.
6. Trương Thừa Thắng., Trương Uyên Ninh. (2004), Tìm thấy một bệnh
nhân nhiễm virut Hantaan tại Hải Dương trong năm 2004, Tạp chí Y học
dự phòng. Tập XIV, Số 6(70), Tr 26 – 28.
7. Trương Thừa Thắng., Hoàng Văn Tân., Trương Uyên Ninh. (2007),
Huyết thanh học bệnh nhân nhiễm virus Hantaan tại miền Bắc Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2004. Tạp chí y học thực hành, Số 7(574), Tr 34 – 36.
8. Trương Thừa Thắng., Trương Uyên Ninh., Jiro Arikawa., Kumiko
Yoshimatsu. (2007), Phát hiện virus Seoul trên chuột Rattus novergicus
bắt được tại Hà Nội trong năm 2005. Tạp chí Y học thực hành, Số 7(574),
Tr 65-67.
9. Song J.W., Kang H.J., Song K.J., Truong T.T, Bennet SN., Arai S.,
Truong UN.,Yanagihara R.(2007), Newfound Hantavirus in Chinese
Mole Shrew, Vietnam, Emerg.Infect.Dis., 13, 1784-1787.
1
MỞ ĐẦU
Người bị nhiễm virút Hanta là do hít phải những vật thể trong không khí hình thành
từ chất thải (phân, nước bọt hay vết cắn) của động vật gậm nhấm có mang mầm bệnh.
Virút Hanta là nguyên nhân gây ra hai thể bệnh với tỷ lệ tử vong cao là Sốt xuất
huyết với hội chứng thận (Haemorrhagic Fever with Renal Syndrome – HFRS) đã
phát hiện từ lâu ở châu Âu, châu Á và Hội chứng viêm phổi do virút Hanta
(Hantavirus Pulmonary Syndrome – HPS) mới được phát hiện tại Hoa Kỳ năm 1993.
Các nhà khoa học dùng các phản ứng huyết thanh nhằm phát hiện các kháng thể IgM
và IgG thông qua các kỹ thuật miễn dịch hấp phụ gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn
dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA), kỹ thuật Western Blot, kỹ thuật sinh học phân tử
PCR, kỹ thuật ngưng kết hạt Hantadia, kỹ thuật trung hoà (PRNT). Với phân lập virút
hay dùng trên tế bào Vero – E6 rồi nhận biết bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang
hay kỹ thuật RT-PCR. Những năm gần đây một số tác giả bước đầu phát hiện nhiễm
virút Hanta tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam năm 1998 – 1999 bằng kỹ thuật ngưng
kết hạt Hantadia đã phát hiện 4,03% (5/124) các mẫu huyết thanh người và 3,07%
(1/27) các mẫu huyết thanh chuột có kháng thể kháng virút Hanta. Năm 2000, phát
hiện 10,24% các mẫu huyết thanh người dương tính bằng kỹ thuật ELISA (21/225).
Tại khu vực phía Nam, bằng kỹ thuật ELISA phát hiện trên nhóm công nhân cao su
tỷ lệ 3,67% và công nhân vệ sinh là 7,45%, kỹ thuật IFA là 11,24% năm 1998 và
29,41% năm 1999. Mặt khác triệu chứng lâm sàng giữa bệnh nhân sốt do căn nguyên
virút Dengue, virút Hanta rất dễ nhầm lẫn. Thời gian từ năm 2000 đến nay số bệnh
nhân nghi sốt Dengue tại miền Bắc Việt Nam tăng cao nhưng kết quả phân lập và
huyết thanh học hoàn toàn âm tính. Do đó đề tài: "Nghiên cứu huyết thanh học nhiễm
virút Hanta tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam 2001 – 2004" tiến hành để nhằm các
mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ và đặc điểm phân bố huyết thanh học của virút Hanta trên người
ở một số tỉnh miền Bắc, Việt Nam 2001 – 2004 bằng kỹ thuật hấp phụ miễn
dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA), kỹ
thuật Western Blot (WB).
2. Xác định một số đặc điểm phân bố virút Hanta qua giám sát huyết thanh chuột
tại một số tỉnh miền Bắc, Việt Nam 2001 – 2004 bằng kỹ thuật hấp phụ miễn
dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA), kỹ
thuật Western Blot (WB).
2
Những đóng góp mới của luận án:
- Phát hiện kháng thể IgG kháng virút Hanta (một loại virút mới tại Việt Nam)
trên chuột và người, bằng chứng cho thấy tại miền Bắc Việt Nam giai đoạn
2001-2004 có các dấu ấn lưu hành của virút Hanta tại cộng đồng dân cư của 5
tỉnh Hà Nội, Hòa Bình, Lào Cai, Hà Nam, Thanh Hóa.
- Lần đầu tiên phát hiện vật liệu di truyền ở vùng gien M týp virút Seoul trên
chuột Rattus novergicus bẫy tại Hà Nội
Bố cục của luận án:
Luận án được trình bày trong 152 trang, gồm có 4 chương, và 222 tài liệu tham khảo
bao gồm (11 tài liệu Tiếng Việt Nam và 211 tài liệu Tiếng Anh)
Đặt vấn đề: 2 trang
Chương 1: Tổng quan tài liệu: 32 trang
Chương 2: Đối tượng, nguyên vật liệu và phương pháp nghiên cứu: 23 trang
Chương 3: Kết quả nghiên cứu: 29 trang
Chương 4: Bàn luận: 29 trang
Kết luận: 2 trang
Kiến nghị: 1 trang.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Virút Hanta
1.1.1. Hình thái virút học
Virút Hanta được xếp trong họ Bunya, quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy
virút có dạng hình cầu hoặc hình ovan, đường kính 80nm - 120nm, tuy nhiên cũng có
thể thay đổi từ 78nm -120nm .
1.1.2. Cấu trúc virút Hanta
Giống như các virút khác thuộc họ Bunya, vật liệu di truyền là một sợi ARN âm,
thông qua thông tin với đầu 3’ gồm 3 đoạn ARN: đoạn lớn L (6530 - 6550 nucleotid),
đoạn trung bình M (3613-3707) và đoạn nhỏ S (1696-2083 nucleotid). Cả 3 đoạn này
đều tham gia quá trình mã hoá nucleocapsid protein (NP). NP có tính chất là kháng
nguyên đặc trưng và đáp ứng kháng thể phát hiện ở các bệnh nhân trong giai đoạn
đầu khởi bệnh. NP có trọng lượng 49-51 kDa dịch mã 428 - 433 amino acid (aa). NP
có nhiều chức năng quan trọng như nhân lên, dịch mã, cung cấp vật liệu di truyền và
giám sát trong quá trình sợi virút nhân lên. Đoạn ARN trung bình M - 3700 nucleotid
mã hóa ra glycoprotein tiền thân cho sự dịch mã của vỏ G1 và G2 (envelope
glycoprotein) và tạo kháng thể trung hòa. Đoạn L -6500 nucleotid mã hóa protein với
việc sao chép, phiên mã, kích hoạt men endonucleaza giúp cho đoạn S -1900
nucleotid trong việc tổng hợp NP – kháng nguyên đặc trưng. Ba đoạn S, M, L khi
mang đi phân tích xác định trình tự gien thấy khác nhau về cấu trúc khuôn mẫu tương
ứng với tỷ lệ 2%, 8% và 18%, lý do khác nhau này thể hiện qua trình tự biến đổi các
nucleotid. Sự thay đổi ít hay nhiều trật tự nucleotid đã làm ảnh hưởng tới việc dịch
mã tạo nên protein khác nhau và dẫn đến sự thay đổi cấu tạo virút. Hiện giờ, các nhà
khoa học đã tìm thấy ít nhất hơn 30 týp virút thuộc nhóm Hanta bằng phương pháp
phân tích gien và phân tích kháng nguyên .
1.2. Bệnh sinh
Nghiên cứu bệnh nhân sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) thấy virút Hanta khi
nhiễm vào máu kéo theo đó là sự thay đổi giãn nở mao mạch gây thoát huyết tương,
cô đặc máu gây sốc do giảm thể tích máu và dẫn đến tử vong. Kháng nguyên virút
Hanta đã quan sát thấy trong tế bào nhu mô của não, tim, phổi, lách, thận và gan. Các
nhà khoa học cũng tìm thấy kháng nguyên virút Hanta trong mao mạch tế bào nội
mạc của nhiều bộ phận trong cơ thể, trong hạch lympho và trong tế bào Kupfer của
gan. Groen và cộng sự đã quan sát thấy kháng nguyên Hanta trong tế bào ống thận ở
4
bệnh nhân HFRS. Nghiên cứu về mô bệnh học cho thấy có sự thay đổi ở thận qua các
giai đoạn mắc bệnh; Khi bệnh nhân ở thể cấp tính mạch máu bị tắc trong các ống thận,
làm cho các ống thận bị thương tổn và thận trở nên bị phù nề.
Nghiên cứu bệnh nhân hội chứng viêm phổi (HPS) căn nguyên do virút Sin Nombre
kiểm tra bằng kỹ thuật X quang quan sát thấy có sự nhân lên của virút trên phổi và cả
cuống phổi. Bệnh nhân HPS ở thể nặng có hiện tượng tràn dịch trào ra bên màng phổi
và phù phổi nặng, tuy nhiên quan sát xuất huyết ở phổi hiếm thấy. Nghiên cứu hiển vi
mô phổi thấy hiện tượng virút xâm nhiễm trên tế bào nội mạc và đại thực bào ở phổi.
Sinh thiết bệnh nhân t
ử vong HPS tìm thấy kháng nguyên Hanta trong màng trong cơ
tim, đây là một nguyên nhân gây sốc tim ở giai đoạn cấp. Quan sát thấy phổi bệnh
nhân HPS thường đen, nặng, dẻo, và thường nặng gấp đôi so với ng
ười bình thường,
các th
ương tổn đó gây phù phổi ở các cấp độ khác nhau. Các nhà khoa học quan sát
thấy bệnh nhân nhập Viện do HPS xét nghiệm có hiệu giá kháng thể trung hoà cao
thường có khả năng sống sót cao.
1.3. Triệu chứng lâm sàng bệnh do virút Hanta
Sốt xuất huyết Dengue và sốt mò có triệu chứng mắc bệnh rất giống với sốt xuất
huyết với hội chứng thận (HFRS), tuy nhiên qua nghiên cứu thấy triệu chứng giống
nhất là khi nghi ngờ mắc bệnh do nhiễm vi khuẩn thuộc giống Leptospirosis. Các
nghiên cứu gần đây cho thấy bệnh nhân nhiễm hội chứng viêm phổi HPS và nhiễm
virút Dengue ở giai đoạn cấp tính triệu chứng rất giống nhau như vỡ thành mạch do
sốt xuất huyết, nồng độ virút tăng cao ở giai đoạn cấp tính. Bệnh nhân HFRS khác
với bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue vì trong HFRS có xuất huyết tổn thương thận,
bạch cầu tăng, hạ tiểu cầu còn bệnh nhân Dengue không có triệu chứng này và bạch
cầu bình thường hoặc hạ, đây là đặc điểm chính để phân biệt giữa hai bệnh.
1.3.1. Triệu chứng lâm sàng bệnh sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS)
Bệnh HFRS là bệnh virút cấp tính truyền từ động vật sang người với đặc điểm sốt
cao, đột ngột, đau đầu, đau phần dưới lưng, buồn nôn, mắt mờ đi kèm quáng gà, có
thể xuất huyết ở vùng thắt lưng, xuất huyết ở nhièu mức độ khác nhau liên quan đến
các triệu chứng thận. Thời gian ủ bệnh 5 đến 35 ngày, các đốm xuất huyết xuất hiện
trên cổ, mặt và phần mềm.Thời gian mắc bệnh cho đến hồi phục kéo dài từ 2 ngày tới
6 tuần lễ. Bệnh diễn biến theo 5 giai đoạn: sốt, hạ huyết áp, thiểu niệu, đa niệu và hồi
phục.
1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của hội chứng viêm phổi do virút Hanta (HPS)
Thời gian ủ bệnh (9 đến 33 ngày) giống nh
ư người mắc bệnh cúm khi nhiễm virút
bệnh nhân có biểu hiện sốt cao, đau đầu, đầy hơi, mệt lử. Bệnh được chia làm 4 giai
đoạn: Sốt, Sốc hoặc phù phổi, Đa niệu và Hồi phục.
5
1.3.3. Điều trị và phòng bệnh do virút Hanta
Hiện tại vẫn chưa có thuốc điều trị sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) và hội
chứng viêm phổi (HPS). Cho đến nay vẫn dùng thuốc Ribavirin trong trường hợp
mắc HFRS. Tuy nhiên việc sử dụng tiêm Ribavirin cho bệnh nhân HPS không mang
lại kết quả và hiện đề nghị không dùng cho bệnh nhân mắc hội ch
ứng viêm phổi.
Điều trị bệnh sớm bằng Ribavirin với liều l
ượng ban đầu 4g/ngày hay 16mg/kg trọng
l
ượng cơ thể mỗi 6 giờ
1.4. Dịch tễ học
1.4.1. Nguồn bệnh và cách lây truyền
Người bị nhiễm bệnh HFRS và HPS là theo con đường lây truyền từ chuột sang
người thông qua các chất bài tiết của chuột và được người hít vào, hay do chuột cắn,
hay do tiếp xúc với các vết thương, hay do tiếp xúc với các chất thải của chuột, hay
có thể do ăn phải đồ ăn có nhiễm chất thải của chuột hay do nguồn n
ước có chất thải
của chuột. Hiện thời các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra con đường lây truyền trực tiếp
giữa người với người trên thế giới. Tuy nhiên nghiên cứu sơ bộ ban đầu về bệnh HPS
tại tỉnh Patagonia ở Argentina đã gợi ý có thể có con đường lan truyền bệnh trực tiếp
giữa người và người như khi y tá tiếp xúc với máu bệnh nhân hoặc giữa người lành
với người bệnh qua hít thở.
1.4.2. Sức cảm thụ
Bệnh thường xuất hiện ở người lớn, nhóm tuổi 20 đến 50, hiếm khi thấy ở trẻ em
dưới 10 tuổi và những người già. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới thường cao hơn nữ giới.
Nhóm đối tượng có nguy cơ cao là nông dân có công việc thường xuyên ngoài đồng
hay trong quân đội bệnh biểu hiện thấy ở nhóm người hay phải diễn tập thao trường
hay hành quân dã ngoại. Nhìn chung nhóm có nguy cơ cao quan sát thấy như sau:
Người làm công tác phòng thí nghiệm; Công nhân nuôi động vật thí nghiệm; Công
nhân chăn nuôi; Công nhân lâm nghiệp; Người làm việc tại phòng thí nghiệm giám
sát chuột; Các nhà động vật học; Quân nhân; Nông dân.
1.4.3. Vacxin phòng chống bệnh do virút Hanta
Từ năm 1990 Hàn Quốc đã sản xuất ra vacxin bất hoạt trên não chuột, có tác dụng
phòng chống bảo vệ được týp virút Hanta và virút Seoul gây bệnh phổ biến ở châu Á.
Hiện tại vẫn chưa có vacxin phòng và bảo vệ hội chứng viêm phổi (HPS).
1.4.4. Tình hình nhiễm virút Hanta
1.4.4.1. Sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) trên thế giới
Sốt xuất huyết với hội chứng thận hay từng được gọi là bệnh thận đã xuất hiện vào
những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20 ở châu Âu dịch bệnh xảy ra lẻ tẻ, cục bộ mang
tính chất địa phương, quan sát thấy có những vụ dịch lớn HFRS đã xảy ra trong các
6
đội quân đồn trú như lính Nga hoàng, lính Nhật Bản, lính Đức, lính trong chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Trên thế giới hàng năm có từ 60.000 tới 200.000
người mắc bệnh, trong đó đa số là người Châu Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Viễn Đông Nga và Đông Nam Á. Giám sát dịch tễ học và huyết thanh học đã
phát hiện thấy virút Hanta lan ra khắp toàn cầu. Các nhà khoa học đã thấy 16 nước ở
châu Á và biển Thái Bình Dương có mối liên quan nhiễm bệnh do virút Hanta như:
Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Hàn, Trung Quốc, Mông Cổ, Liên bang Nga, Đài Loan,
quần đảo Fiji, Hồng Kông, Mã Lai, Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia, Xingapo, Úc và
Srilanka.
1.4.4.2. Sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) tại châu Âu
Tại châu Âu sốt xuất huyết hội chứng thận (HFRS) có căn nguyên bởi các týp virút
sau Puumala, Dobrava và virút Hanta. Tỷ lệ tử vong do nhiễm virút Hanta và virút
Puumala này ở châu Âu đều thấp và độ dưới 1%. Ng
ười bệnh nhiễm virút DOB
thường tử vong tỷ lệ cao có khi tới 12% căn nguyên do bị xuất huyết dẫn tới sốc.Tại
cộng hoà Séc tỷ lệ nhiễm bệnh virút Hanta thay đổi từ 0,5 tới 30,5/100.000 dân trong
thời gian từ năm 1951 tới năm 1989. Tỷ lệ tử vong tăng dần trong các vụ dịch và
được thống kê như sau: 1961(2,5), 1967 (10,6), 1986 (7,6) và 1989 (30,5). Ở Hy Lạp
kháng thể thay đổi từ 0 tới 14% tính tỷ lệ trung bình là 4%. Giám sát điều tra huyết
thanh học ở Croatia trong nhóm 300 công nhân lâm nghiệp và 260 người bình thường
quan sát thấy kháng thể có thể thay đổi từ 0% tới 8,9% và tỷ lệ trung bình là 1,6%.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng nhiễm bệnh giống
virút Hanta và quan sát thấy hỏng thận, nhưng không thấy trên ổ ch
ứa chuột
Clethironomys grareolus nh
ưng phát hiện thấy virút Seoul trên chuột hoang dại R.
novergicus và R. rattus.
1.4.4.3. Sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) tại châu Á
Bệnh HFRS được phát hiện lần đầu tiên ở Hàn Quốc vào năm 1951 trong một tập
đoàn quân Hoa Kỳ đóng tại Hàn Quốc. Trong thời gian từ 1951-1954 đã có 3200 lính
Hoa Kỳ mắc bệnh, sau đấy dịch bệnh lan rộng sang tới người dân địa phương, tỷ lệ tử
vong cao hơn 10%. Ho Wang Lee đã phân lập được virút Hanta từ chuột Apodemus
agarius corea vào năm 1976. Tại Nhật Bản đã phát hiện 130 bệnh nhân sống tại
thành phố Osaka trong năm 1960. Tháng 3-1975 đến tháng 1-1978 đã có vụ dịch xảy
ra tại phòng thí nghiệm trường Đại Học Tohoku, Nhật Bản, phát hiện ra 14 người
bệnh có kháng thể kháng virút Hanta và 3 người kỹ thuật viên làm việc cùng khu vực
nhưng không có biểu hiện bệnh. Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng chuột thí nghiệm là
nguồn gây bệnh tại đấy. Báo cáo dịch tễ học tại Trung Quốc cho thấy có tới 1,1 triệu
ca bệnh HFRS từ năm 1931 đến 1995, chiếm tới 90% ca bệnh nhiễm trên thế giới
7
trong thời gian này. Với 46.000 người đã tử vong bởi bệnh này, tỷ lệ chết chiếm tới
3,94%. Một nghiên c
ứu cho thấy trong thời gian từ 1950 đến 1995, số người mắc
bệnh cao nhất là vào năm 1986 với tỷ lệ mắc 11,08/100.000 dân.
1.4.4.4. Sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS) tại Việt Nam
Tại Việt Nam, Rollin và cộng sự trong năm 1979 với kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang
gián tiếp đã tìm thấy 5,4% (8/146) kháng thể kháng virút Hanta trên nhóm bệnh nhân
nghi ngờ nhiễm virút Arbo tại Hà Nội. Theo nghiên cứu của Hoàng Thủy Nguyên và
cộng sự, trong năm 1998-1999, bằng kỹ thuật ngưng kết hạt (Hantadia) đã thấy
4,03% (5/124) mẫu huyết thanh người và 3,07% (1/27) các mẫu huyết thanh chuột có
kháng thể kháng với virút Hanta. Năm 2000, kỹ thuật ELISA đã phát hiện 10,24%
(21/225) các mẫu huyết thanh người có kháng thể kháng virút Hanta. Tại khu vực
phía Nam, nghiên cứu của Đỗ Quang Hà và cộng sự với kỹ thuật ELISA đã phát hiện
công nhân cao su có tỷ lệ huyết thanh dương tính là 3,67% và công nhân vệ sinh ở
thành phố Biên Hoà là 7,45%, lứa tuổi có tỷ lệ nhiễm cao là 20-50, bằng kỹ thuật IFA
đã phát hiện có 11,24% bệnh nhân trong năm 1998 và 29,41% trong năm 1999
[1].Với kỹ thuật miễn dịch sắc ký phát hiện kháng thể IgM và IgG đã tìm thấy một
bệnh nhân trong năm 2004 tại tỉnh Hải Dương [8]. Trong năm 2005 chúng tôi cũng
đã tìm thấy 14 bệnh nhân có kháng thể IgG và IgM kháng virút Hanta tại Thanh Hoá
(Số liệu chưa công bố). Đến năm 2007, chúng tôi cũng đã tìm thấy và xác định trình
tự nucleotíd, lập phả hệ được virút Hanta mới tại Cao Bằng đặt tên CBNV.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Mẫu bệnh phẩm người
2.1.1.1. Mẫu người lành
Mẫu huyết thanh người lành, là những người khoẻ mạnh không có tiền sử bệnh mãn
tính, trong thời gian lấy máu làm xét nghiệm đều không sốt, không có bệnh cấp tính.
Tất cả những người này sống tại điểm nghiên cứu, chúng tôi đã thu thập máu trong
giai đoạn 2001 – 2004.
2.1.1.2. Mẫu bệnh nhân
Tất cả những người có sốt cấp tính trong vòng 7 đến 10 ngày, có các biểu hiện lâm
sàng của nhiễm virút, và có xuất huyết dưới da hay niêm mạc, chưa xác định được
nguyên nhân gây bệnh. Những bệnh nhân như vậy đều được thu thập máu tại các
điểm nghiên cứu 2001 – 2004.
2.1.2. Mẫu bệnh phẩm chuột
8
Tất cả các chuột được đặt bẫy ở cùng địa điểm nghiên cứu thời gian 2001 - 2004 bao
gồm các loại chuột Rattus novergicus, Rattus flavipectus và Suncus murimus
2.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
- Hốt vô trùng Baker Company Hoa Kỳ.
- Các loại pipetman của hãng Gilson, các cỡ 20, 100, 1000, 5000μl.
- Đầu côn các loại với các cỡ 20, 100, 1000, 5000μl. Hãng Nunc, Đan Mạch
- Máy ly tâm túyp 1,5 ml (Eppendorf, Đ
ức)
- Các hóa chất mua của hãng Sigma và Biorad, Hoa Kỳ.
- Các chứng dương, âm chuẩn cho huyết thanh người và chuột được cung cấp từ
phòng thí nghiệm trường Y, Hokkaido, Nhật Bản.
- Sinh phẩm làm kỹ thuật ELISA, IFA, WB được cung cấp từ phòng thí nghiệm
trường Y, Hokkaido, Nhật Bản.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp dịch tễ học mô tả cắt ngang có phân tích
kết hợp định lượng.
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu và cách tính mẫu
2.3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi đã chọn mẫu tại 5 tỉnh miền Bắc là các tỉnh có đặc điểm khí hậu, phong tục,
tập quán, sinh cảnh phù hợp với sự phát triển chuột và lây truyền từ chuột sang người
giai đoạn 2001 – 2004.
Các tỉnh/ thành phố này gồm có 2 tỉnh đồng bằng (Hà Nam, Hà Nội), 2 tỉnh miền núi
(Hòa Bình, Lào Cai) và 1 tỉnh vừa đồng bằng, vừa miền núi (Thanh Hóa)
Tất cả dân cư tại cộng đồng đến cơ sở y tế trên địa điểm nghiên cứu gồm người lành
(chủ động) và bệnh nhân sốt cấp tính trong vòng 7 – 10 ngày, có các biểu hiện lâm
sàng của nhiễm virút, và có xuất huyết dưới da hay niêm mạc, chưa xác định được
nguyên nhân gây bệnh (thụ động) sẽ tham gia vào nghiên cứu này.
2.3.2.2. Cách tính cỡ mẫu
Dùng công thức tính cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu mô tả
2.3.2.2.1. Số mẫu bệnh phẩm người
- n là số lượng mẫu huyết thanh người lành và bệnh nhân các điểm nghiên cứu
- z = hệ số tin cậy 1,96 từ bảng phân phối chuẩn
9
- p = 0,0403 tỷ lệ nhiễm virút Hanta trên người theo nghiên cứu Hoàng Thuỷ
Nguyên; E sai số cho phép 1%
n = 1,96
2
x 0,0403 x (1-0,0403) : 0,01
2
= 1486
Thu thập 1500 mẫu máu người lành và người bệnh tại các điểm nghiên cứu.
2.3.2.2.2. Số mẫu chuột
Dùng công thức tính cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu mô tả
- n là số lượng chuột cần bẫy tại các điểm nghiên cứu
- z = hệ số tin cậy 1,96 từ bảng phân phối chuẩn
- P là tỷ lệ nhiễm virút Hanta trên chuột theo nghiên cứu Hoàng Thuỷ Nguyên
và CS 3,7%, p = 0,037; E sai số cho phép 3%
n = 1,96
2
x 0,037 x (1-0,037) : 0,03
2
= 152
Thu thập 160 mẫu máu chuột tại các điểm nghiên cứu
2.4. PHƯƠNG PHÁP HUYẾT THANH HỌC
2.4.1. Kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn men ELISA
Kỹ thuật được thực hiện theo thường qui của Đại học Y, Hokkaido, Nhật Bản
2.4.2. Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA)
Kỹ thuật được thực hiện theo thường qui của Đại học Y, Hokkaido, Nhật Bản
2.4.3. Kỹ thuật Western Blot (WB)
Kỹ thuật được thực hiện theo thường qui của Đại học Y, Hokkaido, Nhật Bản
2.4.4. Kỹ thuật khuếch đại gien PCR, xác định trình tự nucleotid (Sequencing)
và phân tích phả hệ
Kỹ thuật được thực hiện theo thường qui của Đại học Y, Hokkaido, Nhật Bản
2.5. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Số liệu được phân tích, xử lý trên Excel tại Viện VSDT
Các thuật toán được sử dụng trong luận án là X
2
và Fisher exact test.
2.6. VẤN ĐỀ Y ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu trên người bao gồm người lành và người bệnh đều có sự đồng thuận
của bản thân đối tượng, hoặc người đại diện đủ tư cách (nếu đối tượng là trẻ em dưới
15 tuổi)
10
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Xác định tỷ lệ và đặc điểm phân bố huyết thanh học của virút Hanta trên
người ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam 2001-2004 bằng kỹ thuật hấp phụ miễn
dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA), kỹ
thuật Western Blot (WB)
3.1.1. Kết quả huyết thanh người lành và bệnh nhân có kháng thể IgG kháng
virút Hanta tại miền Bắc giai đoạn 2001-2004
Nhận xét: Kỹ thuật ELISA cho thấy tỷ lệ các mẫu dương tính ở hai nhóm người lành
và huyết thanh bệnh nhân không khác nhau không có ý nghĩa thống kê với P>0,05.
Bảng 3.1. Số huyết thanh người lành và bệnh nhân tại các điểm nghiên cứu có kháng
thể IgG 2001 - 2004.
3.1.2. Kết quả huyết thanh bệnh nhân tại các điểm nghiên cứu 2001-2004
3.1.2.1. Kết quả kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn men ELISA
Nhận xét: Tỷ lệ mẫu huyết thanh có kháng thể IgG kháng virút Hanta ở huyết thanh
bệnh nhân của 4 tỉnh khác nhau có ý nghĩa thống kê với P<0,05.
Bảng 3.2. Tình hình huyết thanh bệnh nhân có kháng thể IgG kháng virút Hanta tại
các điểm nghiên cứu 2001-2004.
11
3.1.2.2. Kết quả kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA)
Nhận xét: Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ huyết thanh bệnh nhân
giữa các tỉnh có tỷ lệ huyết thanh dương tính trong kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang
gián tiếp với P>0,05.Với kỹ thuật IFA tỷ lệ dương tính là 3,1% với 95% độ tin cậy từ
1,9% đến 4,7%.
Bảng 3.3. Kết quả huyết thanh dương tính bằng kỹ thuật ELISA và IFA ở bệnh nhân
tại các điểm nghiên cứu 2001-2004.
3.1.2.3. Kết quả kỹ thuật Western Blot (WB)
Nhận xét: Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ mẫu huyết thanh dương tính với
kỹ thuật WB giữa các tỉnh với P <0,05. Tỷ lệ dương tính 1,9% với 95% độ tin cậy từ
1% đến 3,2%. Thanh Hóa có 6/7 mẫu xét nghiệm, Hà Nam có 5/6 mẫu xét nghiệm,
Hà Nội có 1/5 mẫu xét nghiệm.
Bảng 3.4. Kết quả kiểm tra huyết thanh bệnh nhân bằng kỹ thuật WB tại các điểm
nghiên cứu 2001 – 2004.
12
3.1.3. Kết quả huyết thanh người lành tại các điểm nghiên cứu 2001-2004
3.1.3.1. Kết quả hấp phụ miễn dịch gắn men ELISA
Nhận xét: Phát hiện kháng thể IgG kháng virút Hanta ở 1151 người tình nguyện tham
gia nghiên cứu. Tỷ lệ dương tính trong số mẫu huyết thanh người lành là 8,60% với
95% độ tin cậy từ 7,1% đến 10,4%. Quan sát Bảng 3.5. tỷ lệ các mẫu huyết thanh có
kháng thể IgG kháng virút Hanta ở các tỉnh này có sự khác nhau không có ý nghĩa
thống kê với P >0,05.
Bảng 3.5. Kết quả người lành có kháng thể IgG tại điểm nghiên cứu 2001-2004.
3.1.3.2. Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA)
Nhận xét: Thấy tỷ lệ mẫu dương tính ở các tỉnh bằng kỹ thuật IFA không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với P>0,05 và 95% độ tin cậy 2,8% -5,1%
Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra huyết thanh người lành bằng kỹ thuật IFA.
13
3.1.3.3. Kết quả kiểm tra huyết thanh người lành bằng kỹ thuật Western Blot
Nhận xét: Thấp nhất ở tỉnh Hoà Bình là 0,8%, tiếp đến là các tỉnh Lào Cai là 1%, Hà
Nam là 1,2%, Hà Nội là 1,4% và cuối cùng là Thanh Hóa là 1,6%. Tỷ lệ chung tại
các điểm nghiên cứu là 1,3% với 95% tin cậy là độ từ 0,7% đến 2,1%. Tuy nhiên giữa
các tỉnh sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê với P>0,05.
Bảng 3.7. Huyết thanh người lành các điểm nghiên cứu 2001-2004 bằng kỹ thuật WB.
3.1.4. Đánh giá tình hình huyết thanh bệnh nhân và huyết thanh người lành tại
các điểm nghiên cứu trong thời gian 2001 -2004
Nhận xét: Cột tỷ lệ huyết thanh có kháng thể IgG kháng virút Hanta cao nhất là
ở kỹ thuật ELISA, sau đó giảm dần ở kỹ thuật IFA, và thấp nhất ở kỹ thuật WB
cụ thể tỷ lệ này ở Hà Nội là 8,1%, 3,5%, 1,1%; Hà Nam là 7,1%, 2,9%, 1,5%;
Lào Cai là 8,9%, 3,0%, 1,0%; Hoà Bình là 12,7%, 4,0%, 0,6%; và Thanh Hóa là
8,7%, 4,3%, 2,1%.
Hình 3.1. Tỷ lệ huyết thanh có kháng thể IgG kháng virút Hanta qua kết quả
ELISA, IFA, WB tại các điểm nghiên cứu năm 2001-2004.
14
3.1.5. Mối liên quan giữa lứa tuổi với sự đáp ứng kháng thể IgG kháng virút
Hanta tại các điểm nghiên cứu 2001-2004
Nhận xét: Lứa tuổi mắc cao nhất là từ 21-25 đến 40-45 : 119 huyết thanh. Trong đó
mắc nhiều nhất là độ tuổi 36-40 là 30 mẫu có kháng thể IgG kháng virút Hanta. Lứa
tuổi mắc thấp nhất là từ 6-10 tuổi đến 16-20 tuổi có 15 mẫu có kháng thể kháng virút
Hanta. Hay lứa tuổi từ 51-55 hay trên 60 tuổi chỉ có 9 mẫu có kháng thể IgG kháng
virút Hanta.
Hình 3.2. Mối liên quan lứa tuổi với kháng thể IgG kháng virút Hanta tại các điểm
nghiên cứu 2001 -2004.
3.1.6. Mối liên quan giới tính với sự đáp ứng kháng thể IgG kháng virút Hanta
tại các điểm nghiên cứu 2001- 2004
Hình 3.3. Liên quan giới với sự đáp ứng kháng thể IgG kháng virút Hanta tại các địa
điểm nghiên cứu 2001-2004.
15
Nhận xét: Số người có kháng thể IgG như ở Hà Nội là 30 thì có tới 27 nam và 3 nữ;
Tỉnh Hà Nam có 38 nam và 4 nữ; Lào Cai thì có 8 nam và 1 nữ; Hòa Bình thì có 15
nam và 7 nữ; Thanh Hóa thì có 39 nam và 10 nữ; tỷ lệ có kháng thể kháng virút
Hanta nam / nữ ứng với 5 : 1.
3.2. Xác định một số đặc điểm phân bố virút Hanta qua giám sát huyết
thanh chuột tại một só tỉnh miền Bắc Việt Nam 2001-2004 bằng kỹ thuật hấp
phụ miễn dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp
(IFA), kỹ thuật Western Blot (WB)
3.2.1. Phân loại chuột bắt được tại các điểm nghiên cứu năm 2001 – 2004
Nhận xét: Đã bắt được cả 3 loài chuột, với tỷ lệ đực chiếm đa số.
Bảng 3.8. Phân loại chuột bắt được tại các điểm nghiên cứu năm 2001-2004.
3.2.2. Kết quả phát hiện kháng thể IgG kháng virút Hanta trên chuột tại các
điểm nghiên cứu bằng 3 kỹ thuật ELISA, IFA, WB
Bảng 3.9. Kết quả xét nghiệm huyết thanh chuột bằng 3 kỹ thuật ELISA, IFA,
WB tại các điểm nghiên cứu 2001 – 2004.
16
Nhận xét: Tỷ lệ chuột có kháng thể IgG kháng virút Hanta ở ELISA là 27,2%
với 95% độ tin cậy từ 20,9% đến 34,3%. Tỷ lệ chuột có kháng thể IgG kháng
virút Hanta ở IFA là 11,1% với 95% độ tin cậy từ 6,5% đến 15,8%. Tỷ lệ chuột
có kháng thể IgG kháng virút Hanta ở WB là 7,8% với 95% độ tin cậy từ 4,3%
đến 12,7%.
3.2.3. Mối liên quan giữa chuột đực và chuột cái có kháng thể kháng virút
Hanta qua các kỹ thuật ELISA, IFA, WB
Nhận xét: Chuột đực và chuột cái có kháng thể IgG kháng virút Hanta thông qua 3 kỹ
thuật ELISA, IFA, WB thấy số dương tính trên chuột đực luôn lớn hơn so với số
chuột cái.
Hình 3.4. Số lượng chuột đực, chuột cái xét nghiệm bằng 3 kỹ thuật ELISA,
IFA, WB tại các địa điểm nghiên cứu, 2001- 2004.
3.3. Kết quả bước đầu phát hiện virút Seoul trên chuột tại Hà Nội
Nhận xét: Có 2 mẫu chuột dương tính như Hình 3.5, phân tích gien, thiết kế cây phả
hệ Hình 3.16.
Hình 3.5. Kết quả RT-PCR giếng 1
là thang chuẩn DNA, giếng 2 và 3
mẫu phổi của 2 chuột đoạn 373 bp.
Hình 3.6. Cây phả hệ virút Seoul tại Hà Nội
17
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Xác định tỷ lệ và đặc điểm phân bố huyết thanh học của virút Hanta trên
người ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam 2001 – 2004 bằng kỹ thuật hấp phụ
miễn dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA),
kỹ thuật Western Blot (WB)
4.1.1. Kết quả nghiên cứu trên huyết thanh bệnh nhân tại các điểm nghiên cứu
2001 – 2004 bằng kỹ thuật ELISA, kỹ thuật IFA, kỹ thuật WB
Do triệu chứng bệnh sốt nhiễm virút Hanta gần giống với sốt xuất huyết Dengue, sốt
mò do căn nguyên Ricketsiae hay sốt do Leptospirosis. Tiến hành xét nghiệm tìm
kháng thể IgG kháng virút Hanta tại các tỉnh trên, chúng tôi đã tìm thấy với kỹ thuật
miễn dịch gắn men ELISA là 8,2% trong Bảng 3.2. tỷ lệ huyết thanh bệnh nhân có
kháng thể IgG kháng virút Hanta ở huyết thanh bệnh nhân của các tỉnh/ thành phố
Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam và Thanh Hóa có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Bằng kỹ
thuật IFA chúng tôi đã phát hiện tới 3,1% số mẫu dương tính, từ các bệnh nhân có kết
quả dương tính với kỹ thuật ELISA tuy nhiên không có sự khác biệt với P >0,05
Bảng 3.3. Kỹ thuật IFA cho thấy hình ảnh huỳnh quang sáng và rõ. Với kỹ thuật WB
ở Bảng 3.4. chúng tôi đã tìm thấy 1,9% bệnh nhân dương tính với cả ba kỹ thuật trên
và có ý nghĩa thống kê khi dùng kỹ thuật với P<0,05. Trong hai năm 1994 và 1995
thu thập mẫu bệnh phẩm là 5330 bệnh nhân có triệu chứng sốt cao đột ngột tại Hàn
Quốc, các nhà nghiên cứu tại Đại Học Hàn Quốc bằng kỹ thuật IFA cũng đã phát
hiện ra 12,2% bệnh nhân có kháng thể IgG kháng virút Hanta. Kariwa H và cộng sự
đã điều tra trên 105 bệnh nhân thu thập tại thành phố Tokyo - Nhật Bản, có triệu
chứng mang bệnh gan hoàn toàn âm tính với virút viêm gan A,B,C với phương pháp
ELISA, IFA và WB đã tìm thấy 3 bệnh nhân (2,95%) có kháng thể kháng virút Hanta
bằng cả 3 phương pháp trên.
Trong giai đoạn tháng 5/1999 đến tháng 11/2000, bằng kỹ thuật ELISA với 115 bệnh
nhân sốt không rõ nguyên nhân đã phát hiện ra 5 bệnh nhân có kháng thể IgG và 8
bệnh nhân có kháng thể IgM, nhưng chỉ có 1 bệnh nhân duy nhất là có kháng thể IgM
và IgG Bệnh nhân đầu tiên của Thái Lan được phát hiện vào năm 2000, cũng là bệnh
nhân đầu tiên trong vùng Đông Nam Á được ghi vào Y Văn Thế Giới, năm 2004
chúng tôi đã tìm thấy một bệnh nhân tại tỉnh Hải Dương cũng trong năm 2005 chúng
tôi đã phát hiện một vài bệnh nhân tại tỉnh Thanh Hóa, các bệnh nhân này đều có
kháng thể IgG và IgM với tỷ lệ dương tính cao, gợi ý rằng đã có vụ dịch xảy ra [Số
liệu còn đang nghiên cứu]. Kết quả này một lần nữa khẳng định có sự tồn lưu virút
18
4.1.2. Kết quả nghiên cứu trên huyết thanh người lành tại các điểm nghiên cứu
2001 – 2004 bằng kỹ thuật ELISA, kỹ thuật IFA, kỹ thuật WB
Bằng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể IgG kháng virút Hanta, chúng tôi đã tìm
thấy ở người lành có tỷ lệ như sau 8,4% tại Hà Nội; 7,8% tại Hà Nam; 8,9% tại Lào
Cai; Hòa Bình là 7,2%; Thanh Hóa là 9,9%; tính tỷ lệ người lành dương tính ở các
tỉnh thấy, tại các điểm nghiên cứu ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 2001 – 2004, tỷ lệ
có kháng thể kháng virút Hanta trên người lành là 8,6% (99/1151) Bảng 3.5. kết quả
này khi so sánh với một vài nước ở châu Âu không khác biệt nhiều như là 6% ở Phần
Lan, 8% ở Thụy Điển. Ngay tại Thái Lan qua giám sát huyết thanh học trên người
lành thấy theo vùng địa lý khác nhau, môi trường khác nhau mà tỷ lệ người có kháng
thể kháng virút Hanta cũng thay đổi từ 1,2% đến 31,4% bằng kỹ thuật ELISA. Ở Thái
Lan với kỹ thuật IFA các nhà khoa học cũng đã tìm thấy 33% dân số sống khu nhà ổ
chuột, có kháng thể kháng virút Hanta. Với các mẫu dương tính kỹ thuật IFA, chúng
tôi tiến hành kỹ thuật WB để khẳng định có lưu hành virút Hanta trong cộng đồng các
tỉnh điều tra không? Kết quả cho thấy có sự lưu hành virút Hanta trên người lành với
tỷ lệ trung bình 1,3% nhìn ở Bảng 3.7. thấy tất cả các tỉnh nghiên cứu đều có người
lành có kháng thể IgG kháng virút Hanta.Với tỷ lệ cao nhất là tại Thanh Hóa, Hà Nội,
Hà Nam và thấp nhất là ở Hòa Bình và số người có kháng thể IgG là 15 người trên
1151 người lành. Kết quả ELISA người lành chúng tôi nhận thấy có sự thay đổi tỷ lệ
giữa các tỉnh, nhưng sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê với P>0,05 Bảng 3.5.
4.1.3. Đánh gía xét nghiệm huyết thanh người qua ba kỹ thuật ELISA, IFA, WB
tại các điểm nghiên cứu trong thời gian 2001-2004
Điều tra 1799 mẫu huyết thanh bệnh nhân và huyết thanh người lành tại 5 điểm
nghiên cứu với kỹ thuật ELISA cho tỷ lệ 8,4% với P<0,05; Tiếp đến là kỹ thuật IFA
cho tỷ lệ 3,6% với P>0,05; kỹ thuật WB giúp khẳng định sự tồn lưu virút Hanta phát
hiện là 1,5% với P> 0,05. Theo Jiro Arikawa khi điều tra tình hình nhiễm virút Hanta
19
Tại Paragoay trong một điều tra trên cộng đồng đã phát hiện tới 40% người lành có
kháng thể IgG nhưng điều tra dịch tễ học không có mối liên quan với Hội chứng viêm
phổi do virút Hanta (HPS) điều này có thể lý giải như sau: Thứ nhất trong cộng đồng
có sự nhiễm nhiều týp virút Hanta và ít nhất một týp virút trong số đó gây nên bệnh
sinh không đáng kể. Thứ hai có thể nhiễm một týp virút Hanta khác và biểu hiện bệnh
20
4.1.4. Mối liên quan giữa lứa tuổi và giới tính với sự đáp ứng kháng thể IgG
kháng virút Hanta tại các địa điểm nghiên cứu giai đoạn 2001-2004
Tại Hình 3.2. chúng tôi nhận thấy kháng thể IgG kháng virút Hanta tập trung ở lứa
tuổi lao động độ tuổi là 21-25 đến 40-45, có 119 huyết thanh trên tổng số 1799 mẫu
huyết thanh nghiên cứu. Người mang kháng thể IgG kháng virút Hanta chiếm đa
phần là nam giới tại các điểm nghiên cứu, và tỷ lệ nam giới/ nữ giới ứng với 5:1.
Nghiên cứu tại khu vực phía Nam, tác giả Đỗ Quang Hà nhận xét lứa tuổi có nhiễm
virút Hanta tập trung độ tuổi 20-50. Tại Đài Loan các nhà khoa học đã phát hiện 7
bệnh nhân nhiễm virút Hanta, đều là nam giới và có độ tuổi từ 20 đến 28, cả 7 bệnh
nhân này đều tham gia quân đội và đóng quân tại tỉnh Kinmen. Tại Thụy Điển các
nhà khoa học nhận thấy tình hình nhiễm virút Hanta ở độ tuổi lao động chiếm ưu thế,
số người có kháng thể cao ở nhóm công nhân lâm nghiệp và người làm nông do hay
phải làm việc ở môi trường thiên nhiên nên khả năng tiếp xúc với chất thải ra từ
chuột nhiều, tỷ lệ kháng thể IgG kháng virút Hanta ở nhóm người sống tại nông thôn
cao hơn nhóm người sống ở thành thị hiện tượng này lý giải do sống ở thành phố
sạch sẽ hơn nên người ít tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với các chất thải của chuột.
Điều tra huyết thanh học tại Hàn Quốc trong năm 1994 và 1995 thấy đa phần bệnh
nhân là đàn ông và đều ở lứa tuổi lao động. Ngay tại Vương Quốc Anh trong thời
gian 1985 – 1989 bệnh nhân nhiễm virút Hanta đa phần đàn ông.
4.2. Xác định một số đặc điểm phân bố virút Hanta qua giám sát huyết thanh
chuột tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam 2001-2004
bằng kỹ thuật hấp phụ miễn
dịch gắn men (ELISA), kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA), kỹ
thuật Western Blot (WB)
4.2.1. Kết quả nghiên cứu trên huyết thanh chuột tại các điểm nghiên cứu 2001-
2004 bằng kỹ thuật ELISA, kỹ thuật IFA, kỹ thuật WB
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã bắt được tổng số 258 chuột gồm 180 chuột R.
novergicus, 39 chuột R. flavipectus, 39 chuột S. murimus tại các tỉnh Hà Nội, Hà
Nam, Lào Cai, Hòa Bình và Thanh Hóa Bảng 3.8.và trong các nhóm chuột đều có
chuột đực và chuột cái. Với kỹ thuật ELISA chúng tôi đã tìm thấy kháng thể IgG có
trên chuột R. novergicus với tỷ lệ cao nhất là Hà Nam 17,2%; Thanh Hóa 3,3%; Lào
Cai 2,2%; Hòa Bình 1,6% và cuối cùng là Hà Nội 1,1%. Theo Thắng và cộng sự đã
tìm thấy tỷ lệ kháng thể kháng IgG trên chuột R. novergicus tại Hà Nam là 53,4%, tại
Thanh Hóa là 14,75% trong năm 2003. Tỷ lệ dương tính thấy chiếm đa phần ở chuột
21
4.2.2. Nhận xét về tình hình huyết thanh chuột tại các điểm nghiên cứu 2001 -
2004
Theo TCYTTG khuyến cáo dùng kỹ thuật ELISA để điều tra kháng thể IgG trên
chuột trong các điều tra dịch tễ. Tuy nhiên kỹ thuật IFA được gợi ý trong xét nghiệm
huyết thanh chuột, và cần thiết dùng kỹ thuật WB để khẳng định. Tìm thấy kháng thể
IgG kháng virút Hanta trên chuột có ý nghĩa quan trọng khi nghiên cứu về ổ chứa
virút Hanta và nghiên cứu về sinh thái virút. Các nhà khoa học cũng đã tìm thấy tỷ lệ
nhiễm virút Hanta trên chuột đực R. novergicus luôn luôn cao hơn so với chuột cái
với lập luận do bản tính sinh học, do đấu tranh sinh tồn chuột đực thường hay đánh
lộn cắn lẫn nhau hơn so chuột cái, do vậy khi chuột đực bị thương là một nguyên
nhân để lan truyền virút Hanta trong cộng đồng chuột. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi thấy chuột có kháng thể kháng virút Hanta ở kỹ thuật ELISA, IFA và WB đều là
chuột đực Hình 3.4. Con đường lây truyền virút Hanta từ chuột sang người thông qua
hít vào các chất bài tiết thải ra từ chuột. Nghiên cứu tại Trung và Tây Phi chưa phát
hiện thấy bệnh nhân nhiễm virút Hanta nhưng phát hiện thấy sức cảm thụ ở người rất
dễ bị nhiễm virút họ Hanta. Hiện tại có độ 30 týp virút Hanta, mỗi týp Hanta lại cư
ngụ trên mỗi loài chuột khác nhau. Mỗi loài chuột này sống tại các vùng địa lý khác
nhau, sinh hoạt khác nhau, thức ăn khác nhau. Arikawa Jiro và cộng sự đã khẳng định
ở đâu chuột có kháng thể kháng virút Hanta thì cùng khu vực đó phải có người mang
kháng thể IgG kháng virút Hanta và có thể có cả bệnh nhân cấp tính do nhiễm virút
Hanta. Chuột có thể dịch chuyển thông qua các tỉnh bằng các phương tiện giao thông
như xe tải, xe khách, tàu hòa, giống như đã có sự xâm nhiễm virút Seoul trên chuột
bẫy tại thành phố Bắc Kinh có nguồn gốc từ nơi khác chuyển đến. Với các gợi ý trên,
22
Hình 4.1. Sơ đồ truyền nhiễm virút Hanta từ chuột sang người.
4.2.3. Kết quả bước đầu phát hiện virút Seoul trên chuột tại Hà Nội
Hình 3.5 cho thấy kết quả RT-PCR, tiếp đến phân tích trình tự gien M trên chuột R.
novergicus tại Hà Nội, cùng với số liệu điều tra huyết thanh học trên người lành và
bệnh nhân tại Hà Nội Bảng 3.2 và Bảng 3.5 đã chứng tỏ có mặt virút Seoul tại Hà
Nội trong thời gian từ năm 2001-2004. Phân tích cây phả hệ thấy virút Seoul tại Hà
Nội có nguồn gốc giống với virút nhóm Hanta tại Indonesia và Nhật Bản. Kết quả
nghiên cứu trên cho thấy lần đầu tiên phát hiện ra týp virút Seoul họ Hanta tại Hà Nội,
trong nghiên cứu tại Hải Phòng chúng tôi cũng đã phát hiện thấy týp Seoul lưu hành
tại cảng Hải Phòng (Số liệu chưa công bố). So sánh kết quả trình tự gien tại Hà Nội
năm 2004 và Hải Phòng năm 2005 đều thấy có nguồn gốc là virút Seoul. Tác giả
Plyusnin đã khẳng định virút Seoul trên chuột R. novergicus tại Indonesia có nguồn
gốc cùng với virút Seoul phân lập tại Nhật Bản, týp virút Seoul –B1. Nhìn vào Hình
3.6. chúng tôi thấy virút Seoul tại Hà Nội cũng có chung gốc gác với cả Nhật Bản và
Indonesia. Nghiên cứu tại Campuchia đã tìm thấy virút Seoul trên chuột R.
novergicus .Tại Trung Quốc Tao Z cũng phát hiện ra virút Seoul trên chuột R.
novergicus, tuy nhiên khi so sánh với gien của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc
đều có sự khác biệt về trình tự nucleotide, cũng như axít amin. Theo Jiang J.F và
nhóm nghiên cứu đã chứng minh týp virút Seoul tại thành phố Bắc Kinh được nhập
cư từ thành phố khác vào. Điều này cũng phù hợp với thành phố Hà Nội, vì quận Hai
Bà Trưng là cửa ngõ vào Hà Nội do vậy chuột có thể theo phương tiện vận tải như ô
tô, xe lửa, xe chở hàng, tàu thuỷ để xâm nhập vào. Các nhà khoa học tại Đại Học
Mahidol ở Thái Lan cũng đã tìm thấy virút Seoul trên chuột R. novergicus nhưng
không thấy virút này trên chuột trù S. murimune. Việc phát hiện, phân lập hay xác
định týp virút Hanta trên chuột được khẳng định là nguyên nhân gây nên bệnh sốt