Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam - MS 12" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.53 KB, 10 trang )


Ministry of Agriculture & Rural Development

Báo cáo tiến độ của dự án CARD

004/05VIE

Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô
nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam



MS 12 : Đánh giá dự án



1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nong hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam

Các đối tác tham gia phía Việt
Nam
Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông
Lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía Việt
Nam
TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía
Australia
The University of Queensland/Victorian Department of


Primary Industry/South Australian Research and
Development Institute/University of Sydney
Tên các cán bộ tham gia dự án
phía Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony
Fahy, Dr Trish Holyoake
Ngày bắt đầu
1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định ban
đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa
chữa)
tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo
Báo cáo tiến độ 12

2. Các kết quả đã đạt được


Đánh giá mục tiêu của các cải tiến về mức độ thành thạo của các cán bộ nghiên cứu và
khuyến nông tại các trại mô hình như là các công cụ để chuyển giao kỹ thuật

Các cán bộ nghiên cứu và khuyến nông: Dự án 04/005VIE được bắt đầu bằng việc lựa
chọn 6 nhà khoa học trẻ phía Việt Nam (2 người từ mỗi cơ sở nghiên cứu) tham gia tập
huấn tại Australia. Bản tóm tắt về vai trò củ
a các cán bộ này trong dự án và các tham vọng
về công việc trong tương lai của họ được trình bày tại bảng 1













Bảng 1: Tham gia dự án và các cơ hội về nghề nghiệp trong tương lai của các cán bộ
trẻ phía Việt Nam

TT Tên Cơ quan
công tác
Chuyên
môn
1 Hoang Nghia Duyet
- Tham gia phase 1 và 3 điều tra, đóng góp chính trong việc
chuyển giao các kỹ thuật tới các nông hộ nhỏ ở tỉnh Thừa Thiên
Huế về vấn đề chuồng trại, hộp ủ ấm, thiết kế và thực hiện các mô
hình chăn nuôi thâm canh. Ngoài ra, Dr. Duyet vẫn còn đang tham
gia giảng dạy và các công việc nghiên cứu khác tại HÙA. Dr.
Duyêt đã xây dựng và thực hiện 1 đề cương nghiên cứu năm 2009
đế đánh giá hiệu quả của nhi
ệt độ chuồng nuôi tới khả năng sản
xuất của lợn Móng Cái. Dự án này sẽ được tiếp tục thực hiện vào
năm 2010.

HUAF Chăn nuôi

2 Ngo Huu Toan
- tiến hành các điều tra đầu tiên, cùng với Dr. Duyet, nhưng sau đó
thì anh Toàn phải chuyển sang thực hiện 1 dự án về thủy sản. Anh
Toàn đã có nhiều đóng góp về kiến thức, kinh nghiệm đối với các
giai đoạn khác nhau của dự án. Sau đó, vi trí của anh Toàn đã
được thay thế bằng anh Ho Ngoc Phuong – BSTY – 1 người cũng
đã có nhiều đóng góp trong giai đoạn giữa của dự án tại tỉnh Thừa
Thiên Huế
, kể cả việc tham gia làm việc trực tiếp với Ms. Tarni
Cooper về các điều tra của dự án và các kế hoạch thực hiện. Năm
2009, anh Phương đã được chấp nhận tham gia khóa đào tạo Thạc
sĩ của trường Utrecht. Vị trí của anh Phương, hiện nay tiếp tục
được thay thế bởi anh Nguyen Van Chao – người sẽ trực tiếp tham
gia thực hiện dự án nghiên cứu nhỏ vào năm 2010 trong việc
đánh
giá hiệu quả của vacxin E. coli của NIVR tại các nông hộ chăn
nuôi nhỏ thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
HUAF Chăn nuôi
3 Dang Hoang Bien
- Đóng vai trò chính trong Phase 1 đến phase 3 của công việc điều
tra, bao gồm các công việc có liên quan chặt chẽ với Ms. Tarni
Cooper trong các điều tra của dự án và trong việc áp dụng các tiến
bộ kỹ thuật ở tỉnh Quảng Trị - nơi mà anh Biên đã trở thành 1
chuyên gia có kinh nghiệm trong việc thiết kế và xây dựng chuồng
trại cho lợn Móng Cái. Một số hộ nông dân ở tỉnh Quảng Trị đã
xây dựng các chuồng nuôi lợ
n mới theo thiết kế của anh Biên.
Trong quá trình thực hiện dự án CARD, anh Biên cũng đã hoàn
thành 1 khóa học về Thạc sĩ chuyên ngành chăn nuôi tại trường
ĐH NN Hà Nội. Chúng tôi, đang coi anh Biên như 1 chuyên gia

về chăn nuôi lợn Móng Cái và đang khuyến khích, động viên anh
Biên tham gia dự tuyển cho 1 khóa đào tạo PhD như 1 phần của
dự án. Anh Biên đã thành công trong việc nộp hồ sơ xin 1 dự án
nghiên cứu nhỏ và sẽ tiếp tục nghiên cứu về cách s
ử dụng EM như
1 loại VSV có lợi, thay thế kháng sinh, giúp cho việc phòng tiêu
NIAH Chăn nuôi
chảy ở lợn, đồng thời cũng kích thích tăng trọng ở lợn Móng Cái.
4 Nguyen Nguyet Cam
- Sau khóa tập huấn tại Australia, chị Cầm đã có 1 thời gian nghỉ
sinh con, và bởi vậy đã không thể tham gia vào dự án trong suốt
thời gian 2007-2008. Sau đó, đã quay trở lại làm việc vào năm
2009 và dưới sự hướng dẫn của TS. Duyên, đã tham gia trong việc
thành lập các câu lạc bộ nông dân ở tỉnh Quảng Trị. Chị Cầm giữ
1 vai trò quan trọng trong việc dịch các hướng dẫn sử dụng cáh
dùng kháng sinh, thuốc đ
iều trị ký sinh trùng cho các câu lạc bộ
nông dân ở cả 2 vùng và đóng vai trò như 1 kỹ thuật viên thú ý
trong việc hướng dẫn sử dụng thuốc ở các hộ chăn nuôi.
NIAH Thú Y
5 Nguyen Xuan Huyen và Au Xuan Tuan-cả hai BSTY này đều đã
tham gia các đợt điều tra đầu tiên tại tỉnh Bình Định. Dưới sự
hướng dẫn của TS. Thuy, cả 2 BSTY này chịu trách nhiệm về việc
sản xuất vacxin E. coli cho dự án, xác định nguyên nhân gây bệnh
tiêu chảy của các lợn trước cai sữa nuôi tại các trại mô hình,
hướng dẫn các kỹ thuật môt khám để xác định nguyên nhân chết,
cách sử dụng thuốc để điều trị các bệnh
ở lợn. Anh Huyên, hiện tại
đang tham gia 1 khóa tập huấn ngắn hạn tại Nhật và anh Tuấn,
cũng đã thành công trong việc nộp hồ sơ xin 1 dự án nghiên cứu

nhỏ để tiến hành thử nghiệm vacxin trên thực địa tại 1 trại của
NIAH.
NIVR Thú Y


Tóm tắt về khả năng nghiên cứu: Nhằm đánh giá các tiến triển đã được thực hiện bởi
các cán bộ trẻ phía Việt nam, chúng tôi đã khuyến khích, động viên họ viết và nộp các bản
đề cương nghiên cứu được thực hiện bởi mỗi thành viên đã từng được tham gia khóa tập
huấn tại Australia (hoặc là mới tham gia vào dự án) trong suốt giai đoạn sau này của dự
án. Bốn d
ự án nhỏ đã được chọn lựa trên cơ sở có dựa trên một số tiêu chí để có thể tiếp
tục thực hiện một số khía cạnh quan trọng của dự án (2 dự án nhỏ được tài trợ bởi số tiến
còn lại của dự án CARD, và 2 dự án còn lại được thực hiện bằng số tiền trong quỹ tư vấn
của Dr. Darren Trott). Chi tiết của các dự án này được trình bày trong Ph
ụ lục 1: Các đề
cương nghiên cứu mở nghiệp. Các đề cương nghiên cứu này, chưa hề được chỉnh sửa bởi
1 cán bộ nào tham gia dự án hía Australia, nhưng chúng đã thể hiện các ý tưởng táo bạo
trong cách nghĩ, thiết kế thí nghiệm và dự toán. Hơn nữa, khi đưa vào thực hiện, chúng sẽ
kéo dài các hoạt động nghiên cứu ở miền Trung Việt nam để cho phép thực hiện các tiến
triển rõ rệt hơn t
ại các trại trong năm 2010, trong quá trình chuẩn bị để nộp hồ sơ xin các
đề tài nghiên cứu khác trong tương lai.

Tóm tắt về khả năng triển khai mở rộng:
Như đã trình bày chi tiết trong các báo cáo trước đây, quan điểm của chúng tôi vào thời
điểm bắt đầu thực hiện dự án đối với việc những người đã được tham gia tập huấn tiến
hành các đánh giá kiểm tra ở Việ
t Nam (hoàn chỉnh kết quả vào trang web và sẽ được
đánh giá bởi các nhà khoa học phía Australia trong các chuyến công tác để chuyển giao
các kiến thức và kỹ thuật), với các thú y cơ sở và kỹ thuật viên thú y đã được tiến hành lựa

chọn bởi mỗi cơ quan nghiên cứu để tiếp tục nhận được các lợi ích từ việc tập huấn trình
độ cao mang lại. Mức độ thành thạo của các cán bộ khoa học phía Việt nam – những
người đã được tham gia tập huấn tại Australia là rất tốt (như đã đươc đánh giá bởi Dr.
Tony Fahy và Dr. Colin Cargill vào 2007/2008, xem MS7), và mục đích là nhằm làm cho
các thú y viên đóng một vai trò quyết định trong việc tiếp tục tập huấn cho nông dân sau
này, còn các cán bộ khoa học sẽ chỉ giữ vai trò là quan sát viên/giúp đỡ viên, hơn là các
hướng dẫn viên. Các nhà khoa học, phía Australia, sau đó sẽ định kỳ tiến hành đánh giá lại
các tiến độ và xác định các khiếm khuyết làm ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình. Tuy nhiên,
ý tưởng này đã bị sớm dùng lại do không có động cơ và môi trường cho các thú y viên
phát triển các kỹ năng của họ. Các chuyến công tác ngắn hạn của các nhà khoa học phía
Australia cũng đã thấ
y không thành công do các tiến triển về công việc được quan sát thấy
rất ít giữa các chuyến thăm và các nhà khoa học phía Australia cũng đã nhận ra rằng họ đã
nhìn thấy cùng một vấn đề tại cùng một trại đó. Lúc đó, chúng tôi đã quyết định chuyển
hướng sang để cho người nông dân tự đưa ra các sáng kiến trong việc tập huấn, tức là xây
dựng nên một số trại mô hình, từ đó nông dân sẽ có thể tr
ực tiếp hướng dẫn cho nông dân,
đồng thời chúng tôi cũng đã tiến hành tuyển thêm 1 bác sĩ thú y đang chuẩn bị tốt nghiệp
(Ms. Tarni Cooper) – người có rất nhiều say mê về an toàn thực phẩm ở các cộng đồng
đang phát triển – sau đó đã làm việc trực tiếp với các nhà khoa học trẻ phía Việt Nam (đặc
biệt là Mr. Phuong và Biên). Chị Tarni cũng đa ở Việt Nam từ 10-12 tuần trong khoảng
thời gian tháng 11-tháng 2 năm 2007/2008, 2008/2009 và 2009/1010. Những thay
đổi
trong cách thực hiện này đã ngay lập tức có hiệu quả đối với cả 2 tỉnh, đặc biệt là rõ nét
hơn khi các câu lạc bộ nông dân được thành lập (do Dr. Duyên là người đưa ra sáng kiến
này) và các tiến bộ rõ rệt đã được nhìn thấy với việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, dựa trên
các chiến lược can thiệp mà chúng tôi đã phát hiện ra từ cuộc điều tra về các trang trại.
Một ví d
ụ là tỉnh Quảng Trị, mới đầu đã chậm trễ hơn rất nhiều so với Thùa Thiên Huế
trong việc áp dụng mô hình CIP, nhưng ngay sau khi tiến hành giới thiệu và đưa vào sử

dụng hộp sưởi ấm cho lợn con vào mùa đông (đã chứng minh được hiệu quả rõ nét và tạo
được lòng tin mạnh mẽ trong nông dân và những người làm công tác nghiên cứu), việc
đưa đàn lợn Móng Cái vào nuôi sau khi dịch bệnh xảy ra, có sự hỗ trợ
cho nông dân, rồi
việc hình thành các câu lạc bộ nông dân tại An Khe, Hai Phu và Hai Thuong, Quảng Trị,
những nông hộ này đã vượt xa so với những nông hộ tại Thừa Thiên Huế. Nông dân đã tin
tưởng thực sự vào những người tham gia dự án và đã đầu tư 50% tiền vốn của họ cho việc
xây dựng, sửa chữa chuồng trại như việc xây dựng hệ thống hầm ủ biogas nhằm tận dụng
các chấ
t thải từ chuồng nuôi, xây dựng các chuồng lợn Móng Cái mới dựa trên thiết kế của
Mr. Biên. Cho dù rằng dịch bệnh FMD năm 2007 và PRRS năm 2008 đã gây thiệt hại
nặng nề đối với tiến trình thực hiện của dự án, đặc biệt là tại Thừa Thiên Huế, nhưng sau
khi bệnh dịch đi qua, các trại mô hình đã thực sự say mê và bị cuốn hút với giá lợn tăng
lên và những đầu t
ư tiếp tục từ nguồn hỗ trợ của dự án đã giúp họ phục hồi lại 1 cách
nhanh chóng. Tuy nhiên, sau đó, một lần nữa, cơn bão nặng nề đã gây ảnh hưởng tới các
tỉnh miền Trung năm 2009, gây ra những thiệt hại đáng kể, nhưng các trại mô hình, một
lần nữa vẫn chứng minh được tính kiên cường của họ, quyết tâm vượt qua khó khăn và
tiếp tụ
c hoạt động trở lại chỉ trong 1 thời gian ngắn, như đã được đánh giá bởi Dr. Darren
Trott trong chuyến công tác vào tháng 10/11 năm 2009. Từ việc các kiến thức của người
nông dân đã được nâng cao, các nhà khoa học Australia nhận thấy rằng các cuộc họp của
họ với các thú y xã và huyện vào thời gian đầu của các chyên công tác và các đánh giá tại
các trại mô hình sẽ có ảnh hưởng đánh kể tới suốt các giai đoạn thực hi
ện của dự án. Hơn
nữa, những người nông dân, mà không được tham gia vào dự án cũng đã say sưa và rất
muốn tham gia vào các cuộc họp nhóm (thể hiện bằng số nông hộ mới tham gia vào danh
sách khảo sát năm 2009).

Dr Kit Parke, một giảng viên mới về Chăn nuôi tập trung tại trường UQ, đã tham

gia vào dự án năm 2008 và đã thực hiện các chuyến công tác tới Việt Nam vào năm 2008,
2009 và 2010. Báo cáo của ông từ chuyến công tác gần đây nh
ất (phụ lục 2: Báo cáo về
chuyến công tác của Dr. Kit Parke) đã trình bày chi tiết về các tiển triển đáng kể mà ông
đã quan sát thấy tại các trại mô hình trong vòng 3 năm qua, cũng như là các tiến triển rất
đáng khích lệ ở các trại mới tham gia vào dự án, và đã thu lợi từ việc trao đổi học hỏi với
các nông hộ trong dự án. Lòng tin của nông dân với các cán bộ trong dự án đã được minh
chứng rõ rệt. Thể hiện bằng việc sau khi Dr. Trott giới thiệu cho nông dân cách sử dụng
Dectomax để phòng bệnh ghẻ vào tháng 10/11 năm 2009, bệnh ghẻ đã thực sự đã không
còn được quan sát thấy ở các trại mô hình. Tuy nhiên, một vài khía cạnh khác như
kế
hoạch triển khai thử nghiệm vacxin E. coli tại các trại mô hình và các chẩn đoán chính xác
về bệnh tiêu chảy của lợn theo mẹ ở các tỉnh miền Trung Việt Nam đã chưa được thực
hiện tốt như kế hoạch đã được lập ra trước đó trong chuyến công tác của Dr. Trott. Nhưng,
điều đang lưu ý là trong suốt 6 tháng qua, các cán bộ của dự án đã tập trung rất nhiều nỗ

lực và công sức cho việc xây dựng một bộ đĩa DVD dùng cho mục đích tập huấn, có lẽ
đây cũng sẽ là công cụ tập huấn quan trọng nhất cho toàn bộ dự án. Bởi vậy, một trong kế
hoạch về việc xây dựng các đề cương khởi nghiệp là tiếp tục tiến hành xác định các
nguyên nhân chính gây tiêu chảy cho lợn con theo mẹ tại các nông hộ thuộc Thừa Thiên
Huế vào năm 2010 (đề tài s
ẽ được thực hiện bởi những cán bộ trẻ và nhiệt tình). Như một
công cụ khuyến nông, bộ đĩa DVD đã thể hiện các ưu điểm vượt trội, có tác động rõ rệt tới
các kỹ thuật chăn nuôi và phòng bệnh tại các trại, và chính những cán bộ trẻ phía Việt
Nam đã có những đóng góp rất tích cực cho việc tạo dựng bộ đĩa DVD này. Dr. Parke, sau
đó cũng đã ti
ến hành tư vấn, đóng góp thêm cho các chương của chương trình tập huấn
video này để đảm bảo cho các nội dung được trình bày là chính xác và được thể hiện một
cách tốt nhất. Bộ đĩa DVD đã đóng vai trò chuyển tải các thông tin tập huấn trực tiếp tới
người nông dân và ngay lập tức, đã tạo được cả lòng tin và độ tự tin của họ. Trong giai

đoạn cuối của dự án, bộ đĩa này s
ẽ được phân phát và sẽ được nhiều đối tượng khác nhau
xem, từ cả 2 tỉnh miền Trung Việt nam. Việc cho thêm phụ đề tiếng Anh hay các ngôn
ngữ khác cũng đã tạo những ấn tượng mạnh mẽ hơn đối với tổ chức tài trọ về việc áp dụng
mô hình này. Báo cáo cuối cùng sẽ bao gồm kế hoạch gợi ý về việc đưa hình thức tập
huấn bằng video cho các câu lạc bộ
nông dân mới (hiện đang được Ms. Tarni xây dựng).


• Báo cáo nghiên cứu/kỹ thuật cuối cùng về việc phát triển và thực hiện mô hình CIP
nhằm làm tăng năng suất chăn nuôi và lợi ích kinh tế đối với các nộng hộ chăn
nuôi nhỏ và lớn, bao gồm cả tóm tắt về các dữ liệu của trại

Trong khi có 1 số lượng lớn các dữ liệu đã được thu thập từ lúc bắ
t đầu dự án, trong quá
trình thực hiện và lúc kết thúc dự án, các phân tích đánh giá của chúng tôi về những tiến
triển và lợi nhuận thu được vào giai đoạn giữa của dự án đã bị hạn chế do dịch bệnh PRRS
xảy ra vào năm 2008 và đã gây ra những thiệt hại đáng kể. Ngoài ra, các nông hộ cũng
mới chỉ bắt đầu được giới thiệu cách giữ các theo dõi như một phần của mô hình CIP. V
ấn
đề về kỹ thuật với trang web dựa trên hệ thống đánh giá điều tra đã được thiết kế và xây
dựng nên tại trường UQ đã thể hiện rằng nó chưa được chấp nhận một cách đồng nhất từ
phía các nhà nghiên cứu ở mỗi tỉnh và vẫn chưa được sử dụng hết công suất tối đa của
chúng. Việc tiến hành lựa chọn các tr
ại mô hình đã được tiến hành vào cuối 2009/ đầu
2010 và cho phép tính toán số lợn bán ra/nái/năm trên cơ sở các theo dõi trong vài năm
được lưu giữ lại – chính việc này sẽ minh chứng cho các lợi nhuận về chăn nuôi thu được
(ở hầu hết các nước, số lợn cai sữa/nái/năm thuộc được thống kê thường xuyên, nhưng do
lợn được bán ở các lứa tuổi và trọng lượng khác nhau ở Việt Nam nên chúng tôi đã thông
qua phương thứ

c tính toán số lựn bán/nái/năm, từ đó có thể tính toán thu nhập trực tiếp từ
các con số này)

Tại Australia, những người chăn nuôi lợn đang có xu hướng hướng tới để đạt được 25 lợn
nái cai sữa/nái/năm, nhưng giá trị trung bình thực của năm 2005 là 21 (Australian Pork
Limited), trong khi đó, ở Đan Mạch (nước dẫn đầu thế giới về chăn nuôi lợn) thì con số
trung bình này là 30. Con số 10 lợn con cai sữa/nái/năm thường được xem như là “điểm
tới ngưỡng” nếu giá lợn vẫn giữ ở một mức trung bình giữa mức thấp và cao. Một phân
tích về các theo dõi đối với các trại mô hình tốt nhât ở mỗi tỉnh đã chứng tỏ rằng một vài
tr
ại đã dễ dàng đạt được qua ngưỡng đó. Các trại tốt nhất của chúng tôi (5 trại thuộc Huế
và 10 trại thuộc Quảng Trị) đã đạt được các con số có thể so sánh được với tiêu chuẩn
quốc tế và chắc chắn là ngang bằng với mức độ chăn nuôi trung bình tại Australia (với giá
thành chăn nuôi rẻ hơn đáng kể). Chi tiết cụ thể hơn được báo cáo trong điều tra c
ủa dự án
được trình bày dưới đây.

Bảng 2: Số liệu thu được đối với các trại mô hình ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã được
chọn lợn cho các sáng kiến về nâng cấp cơ sở hạ tầng vào giai đoạn kết thúc dự án
(Chú ý: nếu trại đã được điều tra trước đây, ngày điều tra được chỉ ra trong cột 1)

Total number of pigs
Nông hộ
(Ngày)



Làng

Số lợn

nái
Số lợn
hậu bị Số cai sữa
Số lợn con
bán/nái/năm
Tran Thi Tuyet

2006


13/12/07

06/02/09

28/02/10
Village 1


Not surveyed





Thuy Duong













7

4

8






1

6

51

42

10
20
Nguyen Van
Lap


23/03/10


Village 10
Thuy
Phuong

9 50 22
Nguyen Thi
Diep


10/08/06
23/03/10
Thuan Hoa




Binh Dien





8
8

30

36

ND
20
Tran Trong
Quan

15/12/07
23/03/10
Khuon Pho





Quang Tho






5
7



3

0

20
8.5
22.5


Cao Tho Than


An Do



Huong Chu



10



2



18



19




Trung bình





8.4




ND


ND


20.8


ND: Không có khả năng xác định tại thời điểm điều tra

Bảng 3: Theo dõi về mức sản xuất đối với các trại mô hình tại tỉnh Quảng Trị đã
được chọn lợn cho các sáng kiến về nâng cấp cơ sở hạ tầng vào giai đoạn kết thúc dự
án

Tổng số lợn
Mã số chủ hộ

Tên chủ hộ

Làng



Lợn
nái
Lợn
hậu bị
Các lợn
khác
Số lợn con
bán/nái/năm

1033 Đào Văn Dàn
Dai An
Khe Hai Thuong 1 53 New farmer

1280 Nguyễn Trung
Dai An
Khe Hai Thuong 2 2 16

1179
Nguyễn Vấn Phu Hung Hai Phu 6 2 37 20

1191 Nguyễn Viên Phu Hung Hai Phu 5 4 19 20

1159
Trương Công Phu Hung Hai Phu 7 3 14 20


1169 Nguyễn Hiến Phu Hung Hai Phu 6 1 27 18

1192 Nguyễn Binh Phu Hung Hai Phu 7 1 10 17

1269
Nguyễn Thể Phu Hung Hai Phu 5 70 18

1275
Lê Thị Thính
Thuong
Xa Hai Thuong 6 1 20 16

1076 Phan Đình Tráng
Thuong
Xa Hai Thuong 6 3 10 17

1270 Trần Lương Cương
Thuong
Xa Hai Thuong 20 100 18

AVERAGE 5.6* 2.1* 30* 18

* Số liệu trung bình không bao gồm đàn của hộ ông Tran Luong Cuong do đàn này gần
đây đã tăng lên tới 20 nái.

Các bài báo poster và báo cáo tại Hội nghị Quốc tế: Các kết quả của dự án đã được báo
cáo tại 2 hội nghị quốc tế với sự tham dự của các nhà khoa học/những người làm công tác
nghiên cứu: Hội nghị Bệnh lợn Quốc tế tại Đan mạch năm 2006 (Dr Do Ngoc Thuy, Dr
Cuu Huu Phu – tham gia hộ

i nghị từ nguồn kinh phí của dự án CARD 1 001/04VIE); Hội
thảo của Hiệp hội chăn nuôi thú y Á-Úc tại Hà Nội năm 2008 (13 cán bộ, bao gồm cả các
cán bộ trẻ đã tham dự như đã được báo cáo trong báo cáo MS9 và MS11). Ngoài ra, Dr.
Do Ngoc Thuy (từ nguồn kinh phí của trường Adelaide) cũng sẽ tham dự và báo cáo kết
quả của dự án tại Hội nghị Bệnh lợn quốc tế năm 2010 tại Vancouver, Canada vào tháng 7
năm 2010. Các tóm tắt và các poster đã đượ
c nộp trong báo cáo trước đây. Các tóm tắt báo
cáo tại IPVS của Dr. Thuy – đã được chấp nhận ở dạng poster, cũng sẽ được bao gồm
trong phụ lục 3 và 4: các bài báo IPVS.

Tổng cộng đã có 7 báo cáo tóm tắt (3 từ NIVR, 2 từ HUAF, 1 từ NIAH và 1 từ Dr.
Colin Cargill) đã được nộp cho Hội nghị AAAP và đã được chấp thuận cho trình bày tại
hội nghị. Các bài báo từ NIVR trình bày về các tiến triển trong việc sản xuất vacxin E.
coli, các thử
nghiệm về an toàn và hiệu lực, cũng như tỷ lệ về các tác nhân gây bệnh khác
nhau ở lợn con bị tiêu chảy trước cai sữa và việc nhận biết các yếu tố độc lực đối với các
chủng ETEC và STEC Việt Nam từ cá trường hợp mắc tiêu chảy trước cai sữa, sau cai sữa
và phù đầu. Hai bài báo từ trường Huế trình bày các kết quả nghiên cứu về các điều tra các
trại được tiến hành lần đầu vào năm 2007 và các kết quả của 1 thử nghiệm, so sánh
chuồng nuôi kiểu truyền thống với kiểu thiết kế mới được xây dựng nên trong quá trình
thực hiện dự án. Trong nhóm được nuôi theo kiểu mới, số lợn con sinh ra và sống
(11.1±2.6) và số lợn con cai sữa (9.3±1.1) là cao hơn hẳn (P < 0.01) so với nhóm đối
chứng (lần lượt là 9.5±1.5 và 7.1±1.4). Ngoài ra, các lợn con được nuôi trong chuồng kiểu
mới có tốc độ tăng trưởng nhanh từ khi sinh đến khi cai sữa (126.3±19.5 g/ngày so với
107.4±15.4 g/ngày; P < 0.05). Bài báo từ NIAH cũng trình bày những chuyển biến rõ rệt ở
tỉnh Quảng Trị từ việc đưa vào sử dụng hệ thống chăn nuôi mới, bao gồm số sinh ra và
sống (11.5 so với 10 con/đàn) và số cai sữa (10.5 so với. 9.5 con) và giảm đáng kể tỷ lệ
chết trước cai sữa (2.1% so với 8.6%). Điều quan trọng là, báo cáo tóm tắt này đã trình
bày được các lợi nhuận về kinh tế đáng kể hư được từ việc tận dụng các thức ăn rẻ tiền,
sẵn có ở địa phương, kết hợp với bột cá, hơn là thức ăn thương mại có sẵn.

Danh sách những người đã tham dự hội nghị bao gồm:
- Trường
Đại học Nông Lâm Huế (HUAF)
1. Nguyen Quang Linh
2. Ho Ngoc Phuong
3. Ngo Huu Toan
4. Ha Thi Hue
5. Hoang Nghia Duyet
- Viện Chăn nuôi (NIAH)
6. Ta Thi Bich Duyen
7. Nguyen Que Coi
8. Dang Hoang Bien
9. Nguyen Nguyet Cam
- Viện Thú Y (NIVR)
10. Cu Huu Phu
11. Au Xuan Tuan
12. Nguyen Xuan Huyen
13. Do Ngoc Thuy

Hội nghị có tiêu đề “Chăn nuôi và vai trò của các nông hộ chăn nuôi nhỏ trong nền kinh tế
toàn cầu”, có hơn 800 người tham dự, bao gồm các nhà khoa học, các chủ trang trại và
sinh viên từ gần 40 nước trên toàn thế giới. Các nhà khoa học từ dự án CARD-004/05VIE
đã trình bày tổng cộng 6 poster (Dr. Colin Cargill đã không thể tham dự như dự định).

• Báo cáo cuối cùng về việc thành lập và bảo tồn vùng giống ven biển miền Trung

Cho dù là MS 10 đã được chấp thuận, chúng tôi vẫn yêu cầu các kết quả này (bằng
báo cáo) sẽ được thay thế bằng 1 bộ đĩa DVD có thể dùng cho công tác tập huấn và
sử dụng nó trong chính các câu lạc bộ nông dân (như đã được nêu ra trước đó là sẽ
được nộp bởi Ms. Tarni Cooper cùng với báo cáo tiến độ MS13 trong chuyến công

tác vào tháng 4)


• Kết thúc quá trình điều tra của dự án (bao gồm cả việc lựa chọn một cách ngẫu nhiên
các thành viên của quá trình điều tra hệ thống và của các nông hộ nhỏ tham gia vào
chương trình tập huấn) để đánh giá các ảnh hưởng về tự nhiên và tài chính của các can
thiệp của dự án.

Theo sau chuyến công tác của Dr. Trott vào tháng 10/11 năm 2009, các cán bộ phía Việt
nam đã được yêu cầu để thực hiện một điều tra cuối cùng, so sánh các trại thực nghiệm và
trại đối chứng tại thời điểm kết thúc dự án. Điểu tra này đã được hoàn thành vào tháng
12/2009 với hình thức là một trại trong dự án được tiến hành so sánh song song với 1 trại
không thuộc dự án – không được hưởng bất cứ lợi gì từ d
ự án trong suốt 4 năm qua,
nhưng thuộc trong cùng 1 xã. Đánh giá và kiểm tra cuối cùng để xác định liệu là các trại
dự án có đáp ứng được 15 can thiệp chính của dự án hay không cũng đã được tiến hành,
dùng bảng mẫu đánh giá đơn giản mà có thể được đi kèm với mỗi theo dõi điện tử. HUAF
đã không gộp các trại đối chứng vào trong điều tra cuối cùng của họ được tiến hành vào
tháng 2/3 nă
m 2010 (xem Phụ lục 5: Điều tra cuối cùng – Sheet 1). Ngoài ra, cũng rất là
khó để có thể đánh giá xem liệu số lượng lợn theo dõi đã được bán hay chưa dựa vào số
liệu của tháng trước đó hoặc của năm trước đó bởi vì có sự kết hợp của cả dạng bảng điều
tra đầy đủ và điều tra đánh giá ngắn gọn hàng tháng (dường như là có sự kế
t hợp của cả 2
số liệu này). Tuy nhiên, các số liệu đã thể hiện một xu hướng đáng khích lệ, với các hộ
của dự án nuôi với một số lượng trung bình là > 5 nái cùng với các con con của chúng, và
cũng đã có nhưng thu nhập ổn định từ việc bán lợn. Để cho các số liệu này có ý nghĩa
hơn, chúng tôi cũng đã tiến hành yêu cầu HUAF cung cấp thêm bảng số liệu cho tất cả
các trại vẫn trong dự án, chi tiết về số lượng lợn con/ nái bán ra trong 1 năm (cùng với 5
trại đã được lựa chọn để thực hiện các nâng cấp cuối cùng như đã được trình bày ở bảng

2).

Trong khi đó, tình hình thực trạng ở Quảng Trị lại hoàn toàn khác. Một điều tra cuối cùng
bao gồm các trại đối chứng, trại thực nghiệm và trại được chọn lựa làm trại mô hình
đã
được kết thúc vào tháng 12 năm 2009. Ngoài một danh sách các can thiệp được ưu tiên ở
mức độ cao đã được nộp cùng với mỗi theo dõi dạng điện tử. So sánh với các trại đối
chứng, các trại dự án có số lượng lớn lợn nái (2.8-3.6 so với 1.8), các con con cũng nhiều
hơn, thu nhập cũng ổn định hơn từ việc bán lợn. Đối với các trại đối chứng, gần như là
không thể thu thập được các số liệu chính xác, ngoại trừ việc quan sát số lượng lợn ở mỗi
lứa tuổi vào thời điểm điều tra, không có các theo dõi hay ghi chép nào được thực hiện đối
với các trại đối chứng và các câu hỏi đối với chủ nông hộ về số lượng lợn được bán là
thường không chính xác. Các trại đối chứng chỉ có thể đáp ứng được 1-2 trong số 15 tiêu
chí v
ề chăn nuôi, trong khi các trại của dự án và trại mô hình, có trung bình là 9.2/15 đối
với các trại dự án và 9.3/15 đối với các trại mô hình. Cũng rất khó để có thể thu được ấn
tượng, chỉ bằng việc so sánh các dữ liệu giữa trại thực nghiệm và trại đối chứng về những
nâng cấp hay cải tiến đã được thực hiện. Các lợn nái được cho ăn không đầy đủ với bệnh
ghẻ
mãn tính đã không đẻ tốt, cần phải được thay thế, trong khi các lợn Móng Cái cao sản
khỏe mạnh có tỷ lệ thụ thai, tỷ lệ sinh và tỷ lệ cai sữa cao. Ngoài ra, việc lắp đặt thêm các
hệ thống biogas phục vụ cho các việc nấu nướng, ủ với giun đất, loại bỏ chất thải, thực
hành mô hình chăn nuôi kết hợp, nâng cao kiến thức và các kỹ năng chung thông qua việc
trở thành 1 thành viên tích cực của câu l
ạc bộ nông dân, tạo ra rất nhiều lợi ích trìu tượng
khác nữa.

×