ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỢI - VAI TRÒ ĐỢI NGŨ TRÍ THỨC TRONG
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY
LỚP 13--- NHĨM 6 --- HK 222
NGÀY NỢP ………………
Giảng viên hướng dẫn: ThS.X
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Thành phố Hồ Chí Minh – 2023
Điểm số
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHĨM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: CHỦ NGHĨA XÃ HỢI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: L13 - Tên nhóm: 06 – HK222 - Năm học 2023
Đề tài:
LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI - VAI TRÒ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY
ST
T
MSSV
Họ
Tên
Nhiệm vụ được phân
cơng
%
Điể
m
BTL
Điểm
BTL
Ký
tên
1
2
3
4
5
6
Họ và tên nhóm trưởng:
Email:
Nhận xét của
GV: ...................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................
.........
GIẢNG VIÊN
NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ, tên)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Nhiệm vụ của đề tài...................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................3
Chương 1. LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI..................................................................................................3
1.1. Những khái niệm cơ bản............................................................................3
1.2. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh liên minh giai cấp, tầng
lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...................................................3
1.2.1. Tính tất yếu của liên minh liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội..............................................................................................3
1.2.2. Cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội....................................................................................................6
1.3. Nội dung cơ bản của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội................................................................................................6
Chương 2. VAI TRÒ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY.............................................................................................11
2.1. Khái quát về đội ngũ trí thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0..........11
2.1.1. Đội ngũ trí thức.........................................................................................11
2.1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0..............................................................11
2.2. Vai trò đội ngũ trí thức trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0..............12
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân...............................................12
2.2.2. Những khó khăn và nguyên nhân..............................................................14
2.3. Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ trí thức trong thời gian tới...19
KẾT LUẬN.................................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................26
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những nguyên lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, cùng tư tưởng
Hồ Chí Minh và thực tiễn diễn ra trong các cuộc đấu tranh giai cấp đã cho thấy tính tất
yếu của liên minh giai cấp, tầng lớp. Song, ở Việt Nam thì sự ra đời và phát triển của
vấn đề liên minh giai cấp với những thuận lợi và khó khăn đan xen trong sự nghiệp
của cách mạng liên minh này có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như hội nhập quốc tế toàn diện của nước
ta. Từ các tác động đó làm cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết thống nhất và góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với thực tiễn đất nước.
Liên minh công – nông – trí thức vừa là một quy luật khách quan vừa là vấn đề
mang tính chiến lược của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối liên hệ tự
nhiên gắn bó và sự thống nhất những lợi ích căn bản của các giai cấp và tầng lớp trong
liên minh, do bản chất của chủ nghĩa xã hội quy định, thể hiện về mặt xã hội của sự
gắn bó thống nhất giữa công nghiệp, nông nghiệp và khoa học cơng nghệ trong quá
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngày nay, khi sản xuất càng phát triển hiện đại thì giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân càng cần gắn bó chặt chẽ với đội ngũ trí thức để tạo thành nền tảng vững
chắc của chế độ và là cơ sở chính trị - xã hội. Do đó, việc phát triển và phát huy năng
lực sáng tạo mọi lực lượng lao động trong xã hội là một nhiệm vụ có ý nghĩa quyết
định.
Ở Việt Nam, nguồn lực trí thức là nguồn nhân lực có đóng góp quan trọng vào
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Kinh nghiệm và thực tiễn các nước có nền
kinh tế phát triển cao cho thấy quá trình phát triển kinh tế số đòi hỏi phải có một đội
ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, sức sáng tạo lớn. Chính vì xác định
được vai trò nòng cốt của đội ngũ trí thức, Đảng và nhà nước luôn coi trọng và đề ra
nhiều chủ trương, chính sách để phát triển nguồn lực này về số lượng cũng như chất
lượng hơn nữa, nhằm tạo nên sức mạnh phát triển của quốc gia. Vì vậy nhóm chọn đề
tài “Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - vai trò đội
ngũ trí thức trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay” nhằm làm rõ những vấn
đề nêu trên.
1
2. Nhiệm vụ của đề tài
Làm rõ những khái niệm cơ bản về giai cấp, tầng lớp.
Làm rõ tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh liên minh giai cấp, tầng
lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Làm rõ nội dung cơ bản của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Làm rõ khái quát về đội ngũ trí thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Làm rõ vai trò đội ngũ trí thức trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò đội ngũ trí thức trong thời gian tới.
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Những khái niệm cơ bản
Giai cấp, tầng lớp
Giai cấp dùng để chỉ những tập đoàn người đông đảo trong một xã hội, những
tập đoàn này phân biệt với nhau bởi địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội
trong lịch sử.
Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp,
phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt
cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công nhân làm thuê lao động giản đơn,
lao động phức tạp, lao động chuyên gia, v.v.. Khái niệm này cũng còn được dùng để
chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng
lớp công chức, trí thức, tiểu nông, v.v. những tầng lớp này đều có những mối quan hệ
nhất định với giai cấp này hay giai cấp khác trong xã hội.
Cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã
hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.
Cơ cấu xã hội có nhiều loại như: cơ cấu xã hội – dân cư, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – tôn giáo, v.v..
Cơ cấu xã hội - giai cấp
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách
quan trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư
liệu sản xuất, về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, về địa vị chính trị - xã hội... giữa
các giai cấp và tầng lớp đó.
1.2. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh liên minh giai cấp, tầng lớp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Tính tất yếu của liên minh liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Khi nghiên cứu thực tiễn các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản ở châu Âu, nhất là ở nước Anh và nước
3
Pháp từ giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu ra nhiều lý luận nền tảng
định hướng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi, trong đó lý
luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác đã được các ông khái quát
thành vấn đề mang tính nguyên tắc. Các ông đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân ở những nước này đã thất bại chủ yếu là do giai cấp công nhân
“đơn độc” vì đã khơng tổ chức liên minh với “người bạn đồng minh tự nhiên” của
mình là giai cấp nơng dân. Do vậy các cuộc đấu tranh đó đã trở thành một “bài ai
điếu”1.
Như vậy, xét dưới góc độ chính trị, trong một chế độ xã hội nhất định, chính
cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu
khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên minh với các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng
thực hiện những nhu cầu và lợi ích – đó là quy luật mang tính phổ biến và là động lực
lớn cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho
thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai
đoạn xây dựng chế độ mới.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao, bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
V.I. Lênin cũng khẳng định liên minh công, nông là vấn đề mang tính nguyên tắc để
đảm bảo cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. V.I. Lênin
chỉ rõ: “... nếu không liên minh với nơng dân thì khơng thể có được chính quyền của
giai cấp vô sản, không thể nghĩ đến được việc duy trì chính quyền đó... Nguyên tắc cao
nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để
giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước” 2.
Trên thực tế, trong bước đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin
đã chủ trương mở rộng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp xã hội khác. Ơng xem đây là một hình thức liên minh đặc biệt không
chỉ trong giai đoạn giành chính quyền, mà phải đảm bảo trong suốt quá trình xây dựng
1
2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004, t.8, tr762.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.44, tr57.
4
chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vơ sản là một hình thức đặc biệt
của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động,
với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông
dân, trí thức, v.v.), hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm chống lại sự
tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi
phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội” 1.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính
trị - xã hội to lớn. Nếu thực hiện tốt khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là với trí thức
thì khơng những cơ sở kinh tế vững mạnh mà chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa cũng
ngày càng được củng cố vững chắc. Khẳng định vai trò của trí thức trong khối liên
minh, V.I. Lênin viết: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản
và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”2.
Xét từ góc độ kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – tức là cách
mạng đã chuyển sang giai đoạn mới, cùng với tính tất yếu chính trị - xã hội, tính tất
yếu kinh tế của liên minh lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa hội. Liên minh này được hình thành xuất phát từ yêu
cầu khách quan của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất hàng hóa
lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công nghệ..., xây dựng nền tảng vật
chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát
triển khi được gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng phát triển và tạo thành nền cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Chính những biến đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và
đang từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp xã hội khác.
Việc hình thành khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ thể
của các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ... tất yếu
phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích
1
2
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.38, tr452.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.40, tr218.
5
kinh tế chung của mình. Song quan hệ lợi ích giữa công nhân, nông dân và trí thức
cũng có những biểu hiện mới, phức tạp: bên cạnh sự thống nhất về lợi ích kinh tế, xuất
hiện những mâu thuẫn lợi ích ở những mức độ khác nhau. Điều này có ảnh hưởng nhất
định đến sự đoàn kết, thống nhất của khối liên minh. Do vậy, quá trình thực hiện liên
minh giai cấp, tầng lớp, đồng thời là quá trình liên tục phát hiện ra mâu thuẫn và có
giải pháp kịp thời, phù hợp để giải quyết mâu thuẫn nhằm tạo sự đồng thuận và tạo
động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời tăng
cường khối liên minh ngày càng bền chặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của
giai cấp công nhân.
Như vậy, liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện
nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực
hiện thắng lợi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Cơ sở khách quan của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh
giai cấp, tầng lớp, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam, tư tưởng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
đã được hình thành từ rất sớm ở nước ta và được khẳng định qua các kỳ Đại hội của
Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và
nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và đội
ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.”1
1.3. Nội dung cơ bản của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Khi nghiên cứu thực tiễn các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản ở châu Âu, nhất là ở nước Anh và nước
Pháp từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ra nhiều lý luận nền tảng định
hướng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi, trong đó lý luận về
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, năm 2007, tr.158.
1
6
liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác đã được các ông khái quát thành
vấn đề mang tính nguyên tắc.
Các ông đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở những
nước này thất bại chủ yếu là do giai cấp công nhân “đơn độc” vì đã khơng tổ chức liên
minh với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, các
cuộc đấu tranh đó đã trở thành những “bài đơn ca ai điếu”.
Nội dung chính trị của liên minh
Xét dưới góc độ chính trị, trong một chế độ xã hội nhất định, chính cuộc đấu
tranh giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách
quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên minh với các giai cấp,
tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng thực hiện
những nhu cầu và lợi ích chung – đó là quy luật mang tính phổ biến và là động lực lớn
cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai
cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
cả trong giai đoạn giành chính quyền và giai đoạn xây dựng chế độ xã hội mới.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao, bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
V.I.Lênin cũng khẳng định liên minh công, nông là vấn đề mang tính nguyên tắc để
đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm
1917. V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu không liên minh với nơng dân thì khơng thể có được
chính qùn của giai cấp vô sản, không thể nghĩ được đến việc duy trì chính quyền
đó… Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô
sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền
nhà nước”1.
Trên thực tế, trong bước đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin
đã chủ trương mở rộng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp xã hội khác. Ơng xem đây là một hình thức liên minh đặc biệt không
chỉ trong giai đoạn dành chính quyền, mà phải được đảm bảo trong suốt quá trình xây
1
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.44, tr.57.
7
dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vơ sản là một hình thức đặc
biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao
động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ,
nông dân, trí thức, v.v…), hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm
chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống
cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và
củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”1.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính
trị – xã hội to lớn. Nếu thực hiện tốt khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là với trí thức
thì khơng những xây dựng được cơ sở kinh tế vững mạnh mà chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa cũng ngày càng được củng cố vững chắc. Khẳng định vai trò của trí thức
trong khối liên minh, V.I.Lênin viết: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học,
giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.2
Nội dung kinh tế của liên minh
Xét từ góc độ kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – tức là cách
mạng đã chuyển sang giai đoạn mới, cùng với tất yếu chính trị – xã hội, tính tất yếu
kinh tế của liên minh lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự thắng lợi
hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Liên minh này được hình thành xuất phát từ yêu cầu
khách quan của quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp là chính sang sản xuất hàng hóa lớn,
phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công nghệ…, xây dựng nền tảng vật
chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát
triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển
sản xuất và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Chính những biến đổi
trong cơ cấu kinh tế này đã và đang từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp xã hội khác.
Việc hình thành khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức cũng xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ
1
2
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.38, tr.452.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2005, t.40, tr.218.
8
thể của các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, khoa học và công nghệ… tất
yếu phải gắn bó, liên minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi
ích kinh tế chung của mình. Song quan hệ lợi ích giữa công nhân, nông dân và trí thức
cũng có những biểu hiện mới, phức tạp: bên cạnh sự thống nhất về lợi ích kinh tế, xuất
hiện những mâu thuẫn lợi ích ở những mức độ khác nhau. Điều này có ảnh hưởng nhất
định đến sự đoàn kết, thống nhất của khối liên minh. Do vậy, quá trình thực hiện liên
minh giai cấp, tầng lớp, đồng thời là quá trình liên tục phát hiện ra mâu thuẫn và có
giải pháp kịp thời, phù hợp để giải quyết mâu thuẫn nhằm tạo sự đồng thuận và tạo
động lực thúc đẩy quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời tăng
cường khối liên minh ngày càng bền chặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của
giai cấp cơng nhân.
Nội dung văn hóa – xã hội của liên minh
Cách mạng XHCN được xây dựng trên một nền sản x́t cơng nghiệp hiện đại,
người có trình độ văn hóa thấp không thể tạo ra được một xã hội như vậy. Công nhân,
nông dân và những người lao động phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ văn
hóa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mong muốn xây dựng một xã hội nhân văn,
nhân đạo cần dựa trên cơ sở một nền văn hóa phát triển của nhân dân.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho nhân dân tham hội cần quá trình
độ văn hóa, hiểu biết chính sách, pháp luật.
Dẫn chứng: Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan niệm “Ý nghĩa của văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”.
9
Chương 2. VAI TRÒ ĐỢI NGŨ TRÍ THỨC TRONG C̣C CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 HIỆN NAY
2.1. Khái quát về đội ngũ trí thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
2.1.1. Đội ngũ trí thức
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống, tiến bộ xã hội, cũng như trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nguồn lực trí tuệ quan trọng của sự phát triển KT XH ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi quốc tế. Họ có vai trò to lớn trong việc
sáng tạo ra những giá trị kinh tế, văn hoá, tinh thần, đem lại những thành tựu quan
trọng trong khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội.
Theo “từ điển triết học, 1986, trang 598” giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật
viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ
phận lớn viên chức. Trong lược ghi bài nói của đồng chí Phùng Hữu Phú, Uỷ viên
Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương tại Hội
nghị Báo cáo viên trực tuyến ngày 22/7/2008 có một ý như sau “Trí thức là những
người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản
phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”. Trong đó, mệnh đề “Trí thức là
những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất
định …” thể hiện rằng trí thức không chỉ là người người được đào tạo có bằng cấp mà
còn là những người tự học, tự đào tạo, tự tích lũy một nền tảng kiến thức nhất định,
khơng cần xác định trình độ đại học tương đương.
Từ đó ta thấy, trí thức có nguồn gốc từ nhiều tầng lớp mà những người trí thức
là những người có kiến thức, có trình độ học vấn, có khả năng tư duy sáng tạo; trí thức
lao động bằng trí óc và tạo ra những sản phẩm về vật chất và tinh thần, góp phần lớn
đến phát triển KT-XH của quốc gia, đặc biệt là trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
hiện nay.
2.1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 được gọi là công nghiệp 4.0. Công nghiệp 4.0 tập
trung vào việc phát triển công nghệ kỹ thuật số lên một cấp độ mới cho phép người
10
dùng kết nối với dữ liệu, các hệ thống vật lý một cách nhanh chóng trong thời gian
thực thông qua internet. Công nghiệp 4.0 cung cấp một cách tiếp cận liên kết và toàn
diện hơn cho sản xuất. Nó kết nối vật lý với kỹ thuật số và cho phép cộng tác và truy
cập tốt hơn giữa các bộ phận, đối tác, nhà cung cấp, sản phẩm và con người. Công
nghiệp 4.0 trao quyền cho các chủ doanh nghiệp kiểm soát và hiểu rõ hơn mọi khía
cạnh hoạt động của họ và cho phép họ tận dụng dữ liệu tức thời để tăng năng suất, cải
thiện quy trình và thúc đẩy tăng trưởng. Công nghiệp 4.0 cho phép các nhà máy thông
minh, sản phẩm thông minh và chuỗi cung ứng cũng thông minh, và làm cho các hệ
thống sản xuất và dịch vụ trở nên linh hoạt và đáp ứng khách hàng hơn. Các thuộc tính
của hệ thống sản xuất và dịch vụ với Công nghiệp 4.0 đã được nêu bật. Những lợi ích
mà Công nghiệp 4.0 mang lại cho các doanh nghiệp đã được thảo luận.
Trong tương lai, công nghiệp 4.0 dự kiến sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa và
do đó các doanh nghiệp cần sẵn sàng để chuẩn bị cho một sự đổi mình liên tục thể cập
nhật các xu hướng hiện đại sắp tới.
2.2. Vai trò đội ngũ trí thức trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
Đội ngũ trí thức là lực lượng tinh hoa của xã hội, phải nhận trách nhiệm dẫn dắt
xã hội thích ứng và nắm bắt những cơ hội mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang
tạo ra cho sự phát triển đất nước, bắt kịp các nhóm nước phát triển trên thế giới. Trí
thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội và đội ngũ trí thức luôn là lực lượng nòng cốt sáng
tạo và truyền bá tri thức. Nhiều nhà trí thức có đóng góp to lớn và quan trọng để xây
dựng đất nước, trở thành những tấm gương sáng ngời về yêu nước, thương dân, hết
lòng vì nước vì dân. Vì vậy, nhân dân đã ghi cơng và tơn vinh trí thức.
Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của cách mạng khoa học – công
nghệ, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là quan
trọng và cấp thiết, nhất là trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Vai trò của đội
ngũ trí thức trong cách mạng công nghiệp 4.0 được thể hiện qua những điểm:
Một là, lực lượng trí thức luôn đi tiên phong trong việc nghiên cứu, học tập,
quán triệt sâu sắc cách mạng công nghiệp 4.0 với tất cả các sắc thái và tác động; cơ hội
và thách thức của nó đối với sự phát triển của đất nước. Tuyên truyền, phổ biến kiến
11
thức tới tầng lớp nhân dân, làm cho họ thấu hiểu được cơ hội và nguy cơ do cách mạng
công nghiệp 4.0 mang tới.
Hai là, lực lượng trí thức không chỉ đi tiên phong trong việc nghiên cứu, phổ
biến về khoa học – công nghệ, mà còn gương mẫu, say mê trong việc áp dụng những
tiến bộ của cách mạng công nghiệp 4.0 vào cuộc sống.
Ba là, lực lượng trí thức luôn đi đầu, đảm nhận sứ mệnh lịch sử định hướng,
dẫn dắt xã hội thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0, nắm bắt và thực hiện hóa cơ
hội và khắc phục các nguy cơ mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại để đưa đất
nước phát triển.
Bốn là, đội ngũ trí thức là kho lưu trữ và tiếp nối, phát triển tri thức. Có vai trò
quan trọng đối với những nước đi sau trong việc tiếp thu, vận dụng thành tựu khoa học
công nghệ thế giới, góp phần thúc đẩy nhanh phát triển.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa
xã hội và là lực lượng đi đầu trong sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các
lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn
mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Có thể khái quát 4
đặc trưng chính của Cuộc cách mạng:
Một là, dựa trên nền tảng của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ
liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối Internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của
máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh.
Hai là, sử dụng công nghệ in 3D để sản xuất sản phẩm một cách hoàn chỉnh nhờ
thống nhất các dây chuyền sản xuất không thông qua giai đoạn lắp ráp các thiết bị phụ
trợ - công nghệ này cũng cho phép con người có thể in ra sản phẩm mới bỏ qua các
khâu trung gian và giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể.
Ba là, công nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật liệu mới ứng dụng
rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực.
Bốn là, trí tuệ nhân tạo và điều khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa,
không giới hạn về không gian, thời gian, tương tác nhanh và chính xác.
Môi trường kinh doanh toàn cầu được tạo ra bởi cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và công nghiệp 4.0. Dưới sự phát triển bùng nổ của thời đại Internet, công
12
nghệ 4.0 trong thời đại này đã tạo ra những phát minh thay đổi hoàn toàn cách vận
hành như:
Big Data (Dữ liệu lớn) cho phép con người có thể thu thập, chứa đựng được
một lượng dữ liệu khổng lồ.
Trí tuệ nhân tạo (AI) là một lĩnh vực của khoa học máy tính, tạo ra những cỗ
máy thông minh hoạt động và phản ứng như con người nhưng vẫn chưa chạm đến
được cảm xúc như con người, đặc biệt trong lĩnh vực nhận diện giọng nói, học tập và
giải quyết các vấn đề.
Điện toán đám mây (Cloud) là việc sử dụng các dịch vụ như nền tảng phát triển
phần mềm, máy chủ, lưu trữ và phần mềm thông qua Internet.
Internet of Things (vạn vật kết nối) là sự kết hợp của Internet, công nghệ vi cơ
điện tử và công nghệ không dây.
Data mining biến dữ liệu thô thành các dữ liệu sâu sắc để đưa ra quyết định.
Augmented Reality (AR) là sự kết hợp màn hình, âm thanh, văn bản và hiệu
ứng do máy tính tạo ra với trải nghiệm thế giới thực của người dùng.
Tự động quy trình robotic (RPA) là quá trình tự động hóa các hoạt động kinh
doanh thông thường với các robot phần mềm được đào tạo bởi AI, thực hiện các nhiệm
vụ một cách tự động.
In 3D cho phép con người tạo ra các mơ hình 3D vật lý của đối tượng.
2.2.2. Những khó khăn và nguyên nhân
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã mở ra nhiều cơ hội cho một quốc gia có tiềm
năng lao động trẻ năng động và sáng tạo như Việt Nam. Nguồn nhân lực lao động dồi
dào là lực lượng tiên phong thúc đẩy chín muồi những tiền đề phát triển kinh tế và xã
hội. Việt Nam được cho là có nhiều lợi thế để bắt kịp theo sự hội nhập của nền công
nghiệp hiện đại, tuy nhiên, theo nhiều đánh giá, nền công nghiệp Việt Nam vẫn còn
nằm trong quy mô nhỏ do còn nhiều khó khăn, mà lực lượng giữ vai trò chủ chốt là
tầng lớp trí thức Việt Nam hiện nay. Một số nguyên nhân dẫn đến khó khăn đối với trí
thức có thể kể đến như sau:
Một là, đi cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực, công nghệ thông tin là
ngành có tiềm năng phát triển lớn, đi cùng là sự tiếp cận đến Internet ngày càng dễ
13
dàng, con người dần bị lệ thuộc và sử dụng Internet không đúng cách, dẫn đến ngày
một thiếu sự sáng tạo trong nghiên cứu, học tập.
Hai là, trải qua các cuộc chiến tranh tàn khốc, tuy đã giành độc lập từ lâu nhưng
hậu quả mà chiến tranh để lại cho đất nước ta vô cùng nặng nề. Đảng và Nhà nước
cùng nhân dân vẫn còn đang khắc phục những hậu quả do chiến tranh gây ra. Cuộc
sống đã cải thiện và khác biệt rất lớn so với trước đây nhưng nhìn chung, nước ta vẫn
còn nghèo, việc đảm bảo các điều kiện sống của con người được phát triển toàn diện
vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Ba là, sự đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn chưa được chú trọng mạnh mẽ,
những phương hướng, chính sách trong giáo dục - đào tạo còn nhiều bất cập, yếu kém.
Bốn là, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, người lao động trong xã hội hiện
nay mang nặng trên vai gánh nặng cơm, áo gạo, tiền từ đó hình thành các tư tưởng sai
lệch về chọn ngành nghề, việc phát triển năng lực cá nhân bị bỏ lỡ, lãng phí rất nhiều
tài năng trẻ.
Năm là, tác phong trong công nghiệp còn chưa nghiêm túc và thiếu kỉ tính kỉ
luật, người lao động vẫn còn khá “thoải mái” trong môi trường làm việc mang tính tập
thể, lâu dần năng suất và chất lượng lao động đi xuống nghiêm trọng.
Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp mang tính hiện
đại hóa với quy mơ rộng lớn và trình độ phát triển vượt bậc, được xây dựng trên cuộc
cách mạng số. Sự phổ biến của các công nghệ như: vạn vật kết nối, trí tuệ nhân tạo,
điện toán đám mây,...đang dần xóa đi ranh giới và hỗ trợ con người giao tiếp với máy
móc. Tuy nhiên, không phải sự phát triển của công nghệ 4.0 là ưu thế của toàn bộ
người lao động trên thế giới. Nguồn lực Việt Nam nói chung và tầng lớp trí thức Việt
Nam hiện nay nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức trong những bước
chân đầu tiên trên con đường cách mạng công nghiệp 4.0.
Vấn đề phân bố trí thức Việt Nam là một trong những thách thức ở Việt Nam
trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đội ngũ trí thức hiện nay phân bố rất
không đồng đều, tại các thành phố lớn tập trung số lượng trí thức vô cùng lớn, các
trung tâm đô thị là nơi mà phần lớn trí thức lựa chọn cho mình để làm học tập và làm
việc. Ở các huyện miền núi, biên giới, hải đảo đội ngũ trí thức trình độ đại học và sau
đại học. Đặc biệt, ở vùng các dân tộc thiểu số, đội ngũ trí thức đang thiếu trầm trọng.
14
Dù Nhà nước đã có nhiều chính sách và ra sức vận động đội ngũ trí thức đi đến những
khu vực khó khăn công tác, tuy nhiên, vẫn chỉ giải quyết được một phần nhỏ của vấn
đề vô cùng lớn và nan giải này. Hiện nay, trong 63 tỉnh, thành phố, có 12 tỉnh, thành
phố tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm hơn nửa dân số của địa phương. Nguồn nhân lực trong
độ tuổi lao động của vùng dân tộc thiểu số đã qua đào tạo chỉ đạt 10,5% (so cả
nước 25%), trong khi chưa qua đào tạo chiếm tỷ trọng quá lớn lên tới 89,5%; nguồn
nhân lực vùng dân tộc và miền núi có trình độ đại học, trên đại học đạt 2,8%, riêng
người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1% (thấp hơn 4 lần so với toàn quốc); trong đó
vùng Trung du và miền núi phía Bắc 2,8%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
3,6%; Tây Nguyên 2,8%; Đồng bằng sông Cửu Long 2,1%.
Sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo là bước tiến vĩ đại trong lịch sử loài
người. AI cùng với robot ra đời đã góp phần vô cùng to lớn trong hỗ trợ con người các
công việc nặng nhọc, phức tạp và đòi hỏi một bộ nhớ siêu phàm để lưu trữ, xử lý
lượng dữ liệu khổng lồ mà con người không thể nào làm được. Chính vì sự đa năng,
chính xác, mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của AI và
robot trong Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều thách thức không hề nhỏ đối
với đội ngũ trí thức ở Việt Nam đối với vấn đề cập nhật những kiến thức, kĩ năng mới
liên tục cũng như có những tiếp cận với những công nghệ mới. Có thể dễ thấy nhất là
trong lĩnh vực công nghệ dệt may, nhiều công việc trước đây đòi hỏi người lao động
có trình độ trực tiếp làm việc nay đã được thay thế dần dưới sự thực hiện của các thiết
bị tiên tiến, hiện đại. Trong thiết kế, khác với phương pháp truyền thống, các số đo cơ
thể người được thu thập bằng cách sử dụng máy quét 3D, ưu điểm của phương pháp
này là có thể cung cấp số đo cơ thể người từ khắp các khu vực, thị trường thời trang
trên thế giới nhưng không đòi hỏi phải gặp mặt trực tiếp khách hàng, phương pháp này
còn cá nhân hóa được số đo riêng biệt của từng người...Với công nghệ này, sẽ tạo ra
một quy trình thiết kế bằng các số đo ảo, phần mềm ảo, người ảo nhưng cuối cùng sẽ
tạo ra sản phẩm thực và được cá nhân hoá đến từng người dùng, đây là một bước tiến
kỹ thuật mới mà công nghệ trước kia hoàng tàn chưa làm được. Không dừng lại ở đó,
trong các khâu sản xuất sợi, dệt vải, nhuộm vải, may, hoàn tất đã được các doanh
nghiệp thay thế dần bằng các thiết bị 3D, các dây chuyền tự động hóa. Theo một số
chuyên gia, cách đây khoảng 10 năm, doanh nghiệp sợi đòi hỏi 100 -110 lao động để
15
vận hành một nhà máy có quy mô là một vạn cọc sợi, nhưng khi công nghệ 4.0 được
đưa vào sản xuất, nhân lực giảm chỉ còn 25-35 lao động để vận hành nhà máy có quy
mô tương đương. Các doanh nghiệp hiện nay đang dần áp dụng công nghệ hiện đại
vào sản xuất, đội ngũ lao động cần có trình độ cao để thích nghi và vận hành cơng
nghệ một cách hiệu quả trong sản xuất. Có nhiều công việc được thay thế bằng máy
móc hiện đại thì sẽ có sự phát sinh ra các vị trí công việc khác cần con người trực tiếp
thực hiện. Đối với các ngành nghệ sở hữu tỉ lệ đội ngũ người lao động qua đào tạo, có
trình độ đại học và sau đại học ít như ngành dệt may ở Việt Nam nói riêng và các lĩnh
vực, ngành nghề khác nói chung thì đội ngũ trí thức cần có sự học hỏi không ngừng,
tiếp thu những tinh hoa nhân loại, không ngừng phát triển tư duy nhạy bén để bắt kịp
trước những biến đổi nhanh chóng của nền công nghiệp thế giới để phục vụ tốt cho sự
phát triển của đất nước, góp phần xây dựng xã hội phồn vinh, hưng thịnh.
Lịch sử dân tộc trường kỳ kháng chiến, đã trải qua biết bao cuộc chiến tranh
gian khổ, hòa bình đã lập lại, nhưng những tổn thương mà chiến tranh đã gây ra cho
đất nước ta vẫn còn đó, Chính phủ vừa khắc phục những hậu quả chiến tranh vừa đưa
ra những chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đã có những cuộc “hội sinh”
vượt lên khó khăn trong mấy mươi năm qua. Tuy nhiên, nhìn chung nước ta vẫn còn
lạc hậu, nói đến ở đây là công nghệ sản xuất. nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam
phần lớn còn đang chưa hoàn thành trạng thái 2.0, máy móc hỗ trợ công việc chưa có
nhiều bước tiến về khía cạnh tự động hóa và trí tuệ nhân tạo chưa có. Tuy nhiên, trong
một số ít hoạt động sản xuất nâng cấp máy móc đạt lên 3.0 nhưng không phải là chủ
động về cải tiến công nghệ mà do sự du nhập từ nước ngoài và tính bắt buộc phải có,
để bắt kịp dây chuyền sản xuất của thế giới. Nền sản xuất bị chia nhỏ thành nhiều
thành phần, quá trình tạo ra sản phẩm đứt gãy và tạo sản phẩm đầu ra bị lỗi khá nhiều
dẫn đến hàng hóa bị giảm sức cạnh tranh đáng kể. Chính vì sự đi sau thế giới về cơng
nghệ còn quá xa, nên các doanh nghiệp nước ngoài hạn chế đầu tư máy móc hiện đại
vào các doanh nghiệp Việt Nam vì đội ngũ có khả năng vận hành và đảm bảo sử dụng
máy móc được triệt để còn rất hạn chế. Thế nên, sự tiếp cận công nghệ hiện đại của
đội ngũ trí thức Việt Nam là hạn hẹp rất nhiều so với các nước trong và ngoài khu vực,
đã gây ra khơng ít cản trở trong quá trình tiếp thu cơng nghệ hiện đại ứng dụng vào
quá trình sản xuất để gia tăng năng suất và chất lượng công việc.
16
Qua từng năm, Bộ Giáo dục liên tục đưa ra những chính sách, mục tiêu, bổ
sung cho hệ thống giáo dục Đại học nới riêng và giáo dục các cấp nói chung từ hệ
thống giảng dạy đến các quy chế thi cử, nhưng hầu như không hoàn toàn triệt để.
Nguyên nhân chủ chốt là do thiếu sự liên kết chặt chẽ từ phía nhà trường với doanh
nghiệp, nên việc nắm bắt được nhu cầu tuyển dụng còn rất yếu kém, dẫn đến nội dung
đào tạo bao nhiêu năm cũng chỉ có bấy nhiêu, lâu dần trở nên lạc hậu vì thế bị nhu cầu
của doanh nghiệp vượt mặt rất xa. Việc dẫn đến sinh viên mới tốt nghiệp thất nghiệp
trầm trọng là điều dễ hiểu, theo thống kê năm 2013 cho thấy có tới 101.000 sinh viên
thất nghiệp có bằng đại học. Nền giáo dục Việt Nam còn chú trọng quá nhiều vào kiến
thức chuyên môn, lượng tri thức sản sinh ra hằng ngày cứ thế sản sinh và cứ thế được
cập nhật vào chương trình học tập gây quá tải, dần dà dẫn đến áp lực phải đạt điểm tốt,
qua môn từ đó gây ra sự nhàm chán của sinh viên với ngành mình theo học, bị động
trong tiếp thu kiến thức, hạn chế khả năng tìm tòi, nghiên cứu. Sinh viên thậm chí
không còn đủ thời gian và sự quan tâm đúng mức cho việc trau dồi phương pháp, kỹ
năng, học để hiểu biết về cuộc sống, về thế giới, về sức mạnh bên trong của mỗi cá
nhân, về tu dưỡng đạo đức, rèn luyện lối sống có tư duy và khoa học, trui rèn đạo đức.
Trầm trọng hơn là hiện nay môi trường làm việc ở Việt Nam phần nhiều vẫn chú trọng
bằng cấp. Nhiều bậc trí giả lo lắng cũng không hẳn không có cơ sở là xã hội Việt Nam
ngày một nhiều những người có học vị cao, bằng cấp cao, nhưng một đội ngũ trí thức
với những nhân cách đáng quý và sự thông thái cần có của một tầng lớp dẫn dắt xã hội
dường như ngày càng ít đi. Một hạn chế lớn vô cùng của giáo dục và đào tạo nước ta
là việc dạy và học không gắn chặt với thực tiễn, đặc biệt là ở đa số trường đại học. Rất
nhiều chương trình đào tạo hiện nay là những gì nhà trường và các thầy cô đem áp đặt
cho người học, chứ chưa phải là những cái xã hội cần. Qua suốt quãng thời gian vô
cùng dài, sự mất cân đối giữa cung và cầu của nền giáo dục đại học trở nên đặc biệt
nghiêm trọng. Việt Nam là nước có truyền thống hiếu học và trọng học nên số người
có nguyện vọng đi học (nói đúng thực tế hơn số gia đình mong muốn con vào đại học)
thì đơng mà số trường đại học với chất lượng đào tạo tốt lại ít và hơn thế nữa là học
phí cho việc đi học ở trường đại học hiện nay tăng nhanh và rất cao nên các cơ sở đào
tạo đại học không có nhiều động lực để đổi mới. Phương pháp dạy không có sự thay
đổi, chất lượng đào tạo không được chú trọng nâng cao cũng vẫn có rất đông người
17