Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận Triết học QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT và NGƯỢC LẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.81 KB, 18 trang )

Trường ĐH Phương Đơng

NHĨM 1
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN:
QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT

Đoàn Huy Chiến
Tào Thị Lan Anh
Nguyễn Thị Thu Hà
Phạm Quang Huy
Trần Thị Thuận Linh
Triết học Mac-Lenin


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................2
I. Quy luật lượng chất.................................................................................3
II. Những vấn đề lý luận của quy luật lượng và chất...............................4
1.1 Khái niệm về lượng và chất...................................................................4
a. Khái niệm về chất.........................................................................4
b. Khái niệm về lượng......................................................................5
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất........................................6
III. Ý nghĩa phương pháp luận..................................................................9
IV. Liên hệ thực tiễn.................................................................................10
4.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong q
trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên........................................10
4.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện
của sinh viên hiện nay................................................................................11

1




LỜI MỞ ĐẦU
“NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN” là
một bộ mơn khoa học có tầm ảnh hưởng lớn tới xã hội. Nếu vận
hành thành công kiến thức được học từ bộ mơn khoa học này
thì chắc chắn bạn sẽ thành công trong cuộc sống, không chỉ
thành công trong sự nghiệp, các mối quan hệ xung quanh bạn,
mà còn nâng cao nhận thức của bạn với mọi sự vật, sự việc trên
thế giới này. Trong bài báo cáo này, nhóm 1 chúng tơi tìm hiểu
và nghiên cứu riêng về QUY LUẬT LƯỢNG-CHẤT hay còn gọi
là QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT và NGƯỢC LẠI là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận
động, phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách
thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến chuyển hóa về
chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển
tiếp theo.

2


I. Quy luật lượng chất
Quy luật lượng chất là quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại, đây là một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật trong triết học Mac –
Lênin.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự

nhiên, xã hội cũng như sự phát triển nhận thức trong tư
duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng khi
vượt qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay
đổi cơ bản về chất, làm cho sự vật, hiện tượng phát
triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật, hiện tượng
khác.
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống
nhất hữ cơ nhưng cũng mang trong mình tính mâu
thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì thường xun biến
đổi cịn chất có xu thế ổn định. Do đó, lượng phát triển
tới một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, u cầu
tất yếu là phải thay đổi chất cũ, mở ra một dộ mới cho
sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất,
diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Quy luật này có thể diễn ra theo chiều ngược lại,
tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất mà sua khi chất mới ra đời, do sự biến đổi về lượng
trước đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự
biến đổi của lượng mới. Ảnh hưởng của chất mới đến
lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển.
Tóm lại, mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng
và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ
3


của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của
sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời , tác động
trở lại sự thay đổi của lượng mới. Q trình tác động đó

diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển,
biến đổi.

II. Những vấn đề lý luận của quy luật lượng và
chất
1.1 Khái niệm về lượng và chất
a. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và
mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật,
hiện tượng. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu
cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện
tượng khác.
Ví dụ: Ngun tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC,
nhiệt độ nóng chảy là 1083đvC, nhiệt độ sơi là 2880đvC…những
thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để phân
biệt nó với các kim loại khác.
Một ví dụ thực tế về chất trong triết học là khái niệm về
"chất" trong triết học của Aristotle. Theo Aristotle, chất
(substance) là một khái niệm cơ bản trong tự nhiên và được coi
là cốt lõi của sự tồn tại.
Theo quan điểm của Aristotle, chất là thực thể cơ bản, tồn
tại độc lập và không thể phân chia thành những thành phần nhỏ
hơn. Ví dụ, một khối đất được coi là một chất, vì nó tồn tại riêng
rẽ và không thể chia thành những phần tử cơ bản khác. Tuy
4


nhiên, nếu ta chia khối đất thành các hạt nhỏ hơn, như cát, cát
sỏi hay hạt cát nhỏ hơn nữa, thì những hạt đó khơng cịn được

coi là chất, mà chỉ là thành phần của chất.
Điều này có ý nghĩa lớn trong triết học tự nhiên học của
Aristotle và đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm về thực thể
và tồn tại của ông. Khái niệm về chất của Aristotle đã làm cơ sở
cho nhiều nghiên cứu sau này về triết học tự nhiên và phương
pháp khoa học.
Tuy nhiên, đáng lưu ý rằng quan điểm của Aristotle về chất
đã bị tranh luận và phê phán trong lịch sử triết học. Các triết gia
sau này như Descartes, Locke và Kant đã đưa ra quan điểm
khác về chất, đóng góp vào sự phát triển của triết học hiện đại.
֍ Đặc điểm của chất:




Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên
trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn tồn tại ở bên
trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn
chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.
Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố
của sự vật.Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái
vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc
lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang
thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản. Chỉ những thuộc
tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ
thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản
và khơng cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn,
trong mối quan hệ với động vật thì thuộc tính cơ bản của

con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng
cơng cụ, có tư duy cịn các thuộc tính khơng là thuộc tính cơ
bản. Xong trong quan hệ giữa con người với con người thì
những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại trở
thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện tượng đều có q
trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai
đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng
khơng phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất. Ví
dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người
5




từ ấu thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh
niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng:
khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì
chất của nó vẫn chưa thay đổi.
Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự
thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho
trạng thái lỏng của nước thay đổi.

b. Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn
có của sự vật về mặt số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ
phận, ở đại lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng cịn biểu hiện ở kích

thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều,
trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu
sắc đậm hay nhạt.
Ví dụ 1: như đối với phân tử Carbon dioxide (CO2). Lượng là
số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một
nguyên tử oxi (O).
Ví dụ 2: đối với mỗi phân tử nước [H2O], số lượng là số
nguyên tử tạo nên nó, tức là 2 nguyên tử Hydro và 1 nguyên tử
Oxy.
֍ Đặc điểm của lượng:
 Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện
của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong khơng gian và
tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có
nhiều loại lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của
sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì
lượng của chúng cũng phức tạp theo.
 Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể
hoặc có thể nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái
quát hóa. Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác
6


định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh
sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên tử nào. Bên
cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu
tượng và khái quát như trình độ nhận thức của một người, ý
thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,..
 Lượng thường xun biến đổi: Bản thân lượng khơng nói lên
sự vật đó (số lượng ngun tử hợp thành ngun tố hố

học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hoặc
chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thơng
số về lượng khơng ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng
với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt khơng ổn
định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của
cùng một sự vật, hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó điều tồn tại khách
quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật,
hiện tượng chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định
trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại
là lượng.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện
tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy
định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng
có một loại chất tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với
cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 ngun
tử ơxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp
các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: khơng màu,
khơng mùi, khơng vị, có thể hồ tan muối, axít,…“Chất” và
“lượng” ln thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Khi sự vật đang tồn tại,
sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định.
Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất
định về “chất” của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi dần về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng
có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và
lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay đổi của

lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện
7


tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ
mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khơng giới hạn đó gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó
sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất
của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính quy định, mối liện hệ
thống nhất giữa chất và lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự
vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một thỏi thép ở trong lò, nhiệt
độ của lị nung có thể lên tới hàng nghìn độ song thỏi thép vẫn
ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Theo
triết học Mác-Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ
điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi
về chất của sự vật. Chúng ta có thể hiểu, điểm nút là thời điểm
mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của
sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới
của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với
nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, q trình
này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật ln phát triển
chừng nào nó cịn tồn tại. Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm
nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về

lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất
yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy
trong q trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và
là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong q
trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên
tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để
hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước”
nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng
(chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến
100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới
hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra q trình
biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái
rắn hoặc khí (bước nhảy). Như vậy sự phát triển của bất cứ của
sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất
8


định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song
điểm nút của q trình ấy khơng cố định mà có thể có những
thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ
quan quy định.
֍ Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
 Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự
vật có thể chia thành bước nhẩy đột biến và bước nhảy
dần dần:
o Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện
trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của
toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối
lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng

tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ,
từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố
của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần
mất đi.
o Ví dụ q trình cách mạng đưa nước ta từ một nước
nơng nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là
một q trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn
những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật
ấy.
 Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có
bước nhảy tồn bộ và bước nhảy cục bộ: Bước nhảy toàn
bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt,
các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước
nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng
lẻ của sự vật.
o Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa
dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước nhảy toàn
bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng
bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ,
tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục
bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội
và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn
bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta.
9



֍ Chất mới ra đời tác động lại lượng của sự vật
Khi chất mới ra đời, nó khơng tồn tại một cách thụ động mà
có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất
mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có
thể làm thay đổi kết cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi
học sinh vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực
hiện bước nhảy để trở thành sinh viên. Trình độ văn hố của học
sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết
cấu, quy mơ, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, khơng chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến
những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên có thể
rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa
chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua
bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của
lượng.Q trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng phát triển.

III. Ý nghĩa phương pháp luận
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và
lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm
chuyển hóa lẫn nhau do đó trong thức tiễn và nhận thức phải
coi trọng cả hai phương diện chất và lượng.
Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
trong điều kiện nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng q
trình tích lũy về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời
phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về

lượng của sự vật.
10


Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được
tích lũy đến giới hạn điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc
phục bệnh nơn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong
phú do vậy cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy
cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã
hội, q trình phát triển khơng chỉ phụ thuộc vào điều kiện
khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con
người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các
chủ thể để thúc đẩy q trình chuyển hóa từ lượng đến chất
một cách hiệu quả nhất.

IV. Liên hệ thực tiễn
4.1. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong
quá trình tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên
Q trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó
khăn và cần sự cố gắng khơng biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ
11


của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học
sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các
thầy cơ giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham
khảo,…thành quả của q trình tích lũy đó được đánh giá qua
những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp.

Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được
chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài
kiểm tra, các kì thi là điểm nút và việc học sinh được sang một
cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm học, học sinh
phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước
nhảy để chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ
thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút, đồng thời nó cũng là điểm
khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để thực
hiện một bước nhảy vơ cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt
qua kì thi đại học để trở thành một sinh viên. Trong suốt 12
năm học phổ thơng, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối
lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng
điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và
lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng,
nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan
trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một
thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển
thành sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi
người được hình thành và tác động trở lại lượng. Sự tác động đó
thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động của mỗi
sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học
sinh trung học hay một học sinh phổ thơng. Và tại đây, một q
trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến thức) mới lại bắt đầu, quá
trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung
học hay phổ thơng. Bởi đó khơng đơn thuần là việc lên giảng
đường để tiếp thu bài giảng của thầy cô mả phần lớn là sự tự

nghiên cứu, tìm tịi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những kiến
thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc
12


làm thêm hoặc từ các hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau
khi đã tích lũy được một lượng đầy

đủ, các sinh viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy
quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là vượt qua kì thi tốt nghiệp
để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một cơng việc. Cứ
như vậy, q trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra,
tạo nên sự vận động khơng ngừng trong q trình tồn tại và
phát triển của mỗi con người, giúp con người ngày càng đạt đến
trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.
4.2. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn
luyện của sinh viên hiện nay.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại
Học Lượng kiến thức ở bậc đại học tăng lên đáng kể so với học ở
bậc trung học phổ thơng.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một mơn học kéo dài một năm
thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng.
Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những
khó khăn cho tân sinh viên. Khơng chỉ chênh lệch về lượng kiến
thức mà cịn có sự đa dạng về kiến thức ở bậc đại học và trung
học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động
của trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt
động nhóm, thuyết trình, hoạt động ngoại khóa, v.v. Chính
những thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã
khiến nhiều tân sinh viên khó thích nghi với mơi trường học tập

và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa trung học và đại học
có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ
là hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với
sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những
nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ còn phải thực hiện các kì
thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ.
Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố quan trọng
nhất, khơng cịn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung
học, tinh thần tự học sẽ được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự
chuyển đổi từ phổ thơng lên Đại học cũng giống như q trình
biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần
13


phải thích nghi, thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với môi
trường đại học để đạt được những thành tích cao trong q rình
học tập và nghiên cứu của mình.
֍ Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật
bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến
một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất
và việc học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử
nhân yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tích lũy đủ số lượng các tín
chỉ của các mơn học. Có thể coi học tập là q trình tích lũy về
lượng, điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong
hoạt động nhận thức, học tập
của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức)
làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật.. Hàng
ngày, sinh viên đều phải đến trường để học tập, tiếp thu những
kiến thức mới. Qua q trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của

sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cơ hay các kì
thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm
tấm bằng Cử nhân, đảm bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên
ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi
sang chất mới.
֍ Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ,
nghiêm túc, trung thực
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng
theo thời gian, và con người cũng phải chạy đua để theo kịp thời
gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân
phấn đấu không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ
mệnh là sống và làm việc, thành công hay không dựa trên sự nỗ
lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau
dồi kiến thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời
sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi về chất nào cũng
đều phải có sự tích luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì
ai thì đều khơng có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử,
sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi , nhưng bản chất thì
vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
֍ Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó,
tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn
14


Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết
luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn
luyện của sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử
nhân, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ mơn học; để
mơn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết

của các mơn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm
tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy. Khi kết
quả thi (bước nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc mơt
giai đoạn tích luỹ kiến thức trong q trình học tập rèn luyện
của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các hoạt động học
thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng)
để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá
trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư tưởng nhảy
cấp. Nghĩa là sau khi hoàn thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự
biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu
những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học sinh
viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu khơng, tình
trạng mất gốc sẽ xảy ra. Hay trong quá trình học tập và nghiên
cứu, sinh viên ln bị xao nhãng bởi những chuyện ngồi lề.
Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó
là giai đoạn ơn thi chứ khơng phải giai đoạn học lại kiến thức
mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng khơng thể
đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn
tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi,
sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng
cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất
theo hướng tích cực
֍ Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ
quan
Để có thể bước ra ngồi xã hội khắc nghiệt, những sinh viên
cần trang bị cho mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng
giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành
tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc
trải qua hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho
hành trình tích luỹ ấy. Khơng những thế, chúng ta vẫn phải tiếp

thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá
trình liên tục phấn đấu học tập ấy,q trình chuyển hố từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được
thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật
15


lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những
thơng tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ
đó, làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành
tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở trường Đại học, ngoài các bài
giảng trên lớp, sinh viên cịn tự tìm tịi, nghiên cứu ở thư viện,
giáo trình, luận văn, luận án, thầ cơ, bạn bè,… tích luỹ và học
hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho mai sau. Được tự do sáng
tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn
đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân,
những học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình
chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ
trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh
viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình.
Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri
thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng
con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và
chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
֍ Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết
tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất; khơng
được nơn nóng cũng như khơng được bảo thủ. Q trình
học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hồn
thiện kỹ năng; khơng được bỏ qua kiến thức cơ bản.

Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự khơng hồn
thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ khơng thành
cơng và khơng thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn
hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể
thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học. Nếu
bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm
nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng
nó không là vận dụng theo quy luật lượng – chất. Những
sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ
xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hồn
thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh, dù rằng
sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc
liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ
trong q trình thay đổi của lượng, khơng vội vàng mà
bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt
qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù
bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi,
16


nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì
q trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng
mà khơng có sự thay đổi về chất. Bạn phải nhận thức
được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng để lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy
nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận
dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất,
quy luật của chất, nâng cao chất lượng của đ

17




×