Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phá giá tiền tệ có thể làm tăng xuất khẩu của một quốc gia trong ngắn hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.71 KB, 4 trang )

Phá giá tiền tệ có thể làm tăng xuất khẩu của một quốc gia trong ngắn hạn.
Trong ngắn hạn, khi cp thực hiện cs phá giá tiền tệ làm đồng nội tệ giảm giá trị,
tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ
làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn trên thị trường quốc tế, nhập khẩu trở nên
đắt hơn tại thị trường nội địa, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có
xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng. Tuy nhiên mức độ tăng xuất khẩu của quốc
gia đó cịn phụ thuộc vào sự xuất hiện của các yếu tố như các hợp đồng xuất
khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa huy động
đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên... Ví dụ, nếu giá
hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng
khơng nhiều trong khi đó giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên; vì
vậy, dù phá giá tiền tệ có làm tăng xuất khẩu nhưng lại làm cán cân thương mại
có thể xấu đi trong ngắn hạnTrong dài hạn thì việc phá giá tiền tệ có làm tăng
xuất khẩu của một quốc gia hay khơng cịn phụ thuộc vào cách quốc gia đó giải
quyết các yếu tố kinh tế như lạm phát, sự cạnh tranh của ngành công nghiệp,
ảnh hưởng lên chi phí nhập khẩu, niềm tin của nhà đầu tư và các biện pháp cải
thiện cơ sở hạ tầng và chính sách. Ví dụ trong dài hạn các yếu tố từ phía cung
sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh
nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải
tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng
lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền
lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá (395)
2.
lãi suất bình quân một số kỳ hạn chủ chốt như qua đêm giảm 0,01%/năm xuống
mức 0,14%/năm, trong khi đó lãi suất bình qn kỳ hạn 01 tuần và 01 tháng tăng lần
lượt 0,02%/năm và 0,05%/năm lên mức 0,32%/năm và 1,09%/năm. Đường cong lợi
suất có độ dốc hướng về bên phải do đầu tư trái phiếu dài hạn có lãi suất cao hơn
trong ngắn hạn. Do đó mà mức độ rủi ro cũng cao hơn. Lãi suất kỳ vọng lúc này
khơng có sự thay đổi đáng kể. Dưới đây là lãi suất bình quân liên ngân hàng của các
kỳ hạn chủ chốt trong tuần từ 27/11 – 01/12/2023:


Qua đêm 1 tuần 2 tuần
1 tháng 3 tháng 6 tháng
VND 0,14
0,32
0,51
1,09
3,54
4,75
USD 5,03
5,06
5,14
5,38
5,47
6,18
Đường cong lãi suất hướng về phía bên phải đang phát tín hiệu:
- Nhà đầu tư ưu tiên đầu tư dài hạn vì họ muốn tận dụng những
này.

9 tháng
6,44
-

lãi suất cao


- Nhà đầu tư có thể hiểu đây là tín hiệu cho thấy kinh tế được dự kiến sẽ phát
triển, từ đó họ có thể cân nhắc chiến lược đầu tư hơn vào cổ phiếu và các tài
sản có rủi ro cao khác có tiềm năng sinh lời cao trong mơi trường kinh tế
phát triển.
- Nhà đầu tư có thể điều chỉnh lại các quỹ đầu tư của họ để tận dụng mơi

trường lãi suất đang thay đổi. Ví dụ, họ có thể giảm tỷ trọng đầu tư vào trái
phiếu ngắn hạn hoặc các tài sản tương đương tiền mặt và tăng tỷ trọng vào
trái phiếu dài hạn hoặc cổ phiếu trả cổ tức.
- Đường cong lãi suất tăng có thể là dấu hiệu của việc kỳ vọng về lạm phát
tăng, từ đó thúc đẩy nhà đầu tư đi vay nhiều hơn.
- Nhà đầu tư có thể đầu tư vào chứng khoán khi triển vọng kinh tế cải thiện.
Chứng khoán thường được coi là hấp dẫn hơn trong một nền kinh tế phát
triển, và lãi suất cao hơn có thể khơng ngăn cản sự hứng thú nếu nó là kết
quả của điều kiện kinh tế tích cực. (388)
3.
Ngang giá sức mua trong tiếng Anh là Purchasing Power Parity, viết tắt là
PPP.
Ngang giá sức mua là một thước đo phân tích vĩ mô so sánh khả năng sản
xuất và mức sống giữa các quốc gia. Ngang giá sức mua là học thuyết kinh
tế so sánh tiền tệ của các quốc gia thông qua cách tiếp cận về giỏ tiền tệ.
Theo khái niệm này, hai loại tiền tệ đang ở trạng thái cân bằng được gọi là
hai loại tiền tệ ngang giá khi một giỏ hàng hóa có giá như nhau ở cả hai quốc
gia, có tính đến tỉ giá hối đối.
Chi phí vận chuyển
Hàng hóa khơng có sẵn trong nội địa phải được nhập khẩu, làm phát sinh chi
phí vận chuyển. Những chi phí này khơng chỉ bao gồm tiền nhiên liệu mà
cịn cả thuế nhập khẩu. Do đó, hàng hóa nhập khẩu sẽ bán với giá tương đối
cao hơn so với hàng hóa có nguồn gốc nội địa giống hệt nhau.
Khác biệt thuế
Thuế đánh vào hàng hóa của chính phủ như thuế giá trị gia tăng có thể cao
hơn ở một quốc gia so với các quốc gia khác.
Sự can thiệp của chính phủ
Thuế quan có thể làm giá hàng hóa nhập khẩu tăng đáng kể, dẫn tới các sản
phẩm tương tự ở những nước khác sẽ rẻ hơn tương đối.
Các chi phí khác



Các yếu tố chi phí đầu vào của hàng hóa như chi phí bảo hiểm, vệ sinh và
lao động ở các quốc gia là rất khác nhau và khó có thể so sánh ngang giá
giữa các quốc gia
Cạnh tranh
Hàng hóa có thể được cố tình định giá cao hơn trong một quốc gia. Trong
một số trường hợp, giá cao hơn là do một cơng ty có thể có lợi thế cạnh
tranh so với những nhà cung cấp khác, giữ thế độc quyền riêng hoặc là một
phần của một tập đoàn độc quyền. (347)
1.


2.


3.


4.


5.


6.


7.



Chi phí Vận chuyển và Chi phí Giao dịch:
PPP giả định rằng thương mại quốc tế diễn ra mượt mà mà khơng có chi
phí vận chuyển hoặc chi phí giao dịch khác. Trên thực tế, có chi phí vận chuyển,
thuế quan và các chi phí giao dịch khác. Những chi phí này có thể tạo ra sự
chênh lệch về giá của các hàng hóa giống nhau ở các quốc gia khác nhau, ảnh
hưởng đến sức mạnh mua sắm tương đối của các đồng tiền.
Chất lượng của Hàng hóa và Dịch vụ:
PPP giả định rằng hàng hóa và dịch vụ trong giỏ hàng là giống nhau ở mọi
quốc gia. Trong thực tế, sự chênh lệch về chất lượng sản phẩm, thương hiệu và
sở thích của người tiêu dùng có thể dẫn đến sự chênh lệch về giá. PPP không tính
đến những khác biệt này về chất lượng, có thể ảnh hưởng đến sự chính xác của
dự đốn về tỷ giá hối đối.
Phân phối Thu nhập và Mơ hình Tiêu thụ:
PPP giả định rằng mơ hình tiêu thụ là như nhau giữa những người ở các
quốc gia khác nhau. Trong thực tế, phân phối thu nhập thay đổi và những người
có thu nhập khác nhau có thể phân phối chi tiêu khác nhau. Điều này có thể dẫn
đến sự chênh lệch về nhu cầu tương đối cho hàng hóa và dịch vụ, ảnh hưởng đến
sức mạnh mua sắm và tỷ giá hối đối.
Hàng hóa và Dịch vụ Khơng Thương mại:
PPP chủ yếu tập trung vào hàng hóa và dịch vụ có thể thương mại. Tuy
nhiên, một phần lớn của sản lượng kinh tế có thể là hàng hóa và dịch vụ không
thương mại, như nhà ở và các dịch vụ địa phương. Sự thay đổi giá của những mặt
hàng không thương mại này có thể ảnh hưởng đến giá cả tổng thể trong một
quốc gia mà không nhất thiết ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
Động lực Thị trường Ngắn hạn:
PPP là một khái niệm cân bằng dài hạn và khơng tính đến động lực thị
trường ngắn hạn. Tỷ giá hối đối có thể bị ảnh hưởng bởi các hoạt động đầu cơ,
tâm lý của thị trường và sự kiện bất ngờ, những yếu tố này không được xem xét
trong PPP.

Chính sách và Can thiệp của Chính phủ:
PPP giả định rằng can thiệp của chính phủ là ít. Tuy nhiên, các chính sách
như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và can thiệp của ngân hàng trung
ương có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Những hành động này không được
PPP xem xét một cách rõ ràng.
Sự Khác Biệt về Tỉ Lệ Lạm phát:
Mặc dù PPP tính đến sự chênh lệch về tỷ lệ lạm phát trong dài hạn, nhưng
nó có thể khơng chính xác khi dự báo sự biến động ngắn hạn do sự thay đổi đột
ngột trong tỷ lệ lạm phát. Sự thay đổi nhanh chóng trong kỳ vọng về lạm phát
hoặc các cú sốc cung cấp có thể dẫn đến sự chệch lệch so với PPP trong thời gian
ngắn.




×