Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

TƯ TƯỞNG LÃO TRANG TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ CỦA BỒ TÙNG LINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.35 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------

HỒ LÊ HỒNG NGÂN
MSSV: B2006462

TƯ TƯỞNG LÃO TRANG TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ
CỦA BỒ TÙNG LINH

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Văn học

Cán bộ hướng dẫn: TS. Bùi Thị Thúy Minh

Cần Thơ, 2023


TƯ TƯỞNG LÃO TRANG TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ
CỦA BỒ TÙNG LINH
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Văn học Trung Quốc thời Minh Thanh
1.1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.2 Tình hình văn học


1.1.3 Tiểu thuyết Minh Thanh
1.2 Đôi nét về tư tưởng Lão Trang
1.2.1 Nguồn gốc và sự phát triển của tư tưởng Lão Trang
1.2.2 Những nội dung chính của tư tưởng Lão Trang
1.2.3 Tư tưởng Lão Trang trong đời sống và văn chương
1.3 Tác giả Bồ Tùng Linh và tác phẩm Liêu trai chí dị
1.3.1 Tác giả Bồ Tùng Linh
1.3.1.1 Cuộc đời
1.3.1.2 Sự nghiệp sáng tác


1.3.2 Tác phẩm Liêu trai chí dị
1.3.2.1 Hồn cảnh ra đời
1.3.2.2 Nội dung của tác phẩm
CHƯƠNG 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TƯ TƯỞNG LÃO TRANG TRONG
LIÊU TRAI CHÍ DỊ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Lối sống tiêu dao, vô vi
2.1.1 Thuận theo tự nhiên
2.1.2 Hòa hợp với tự nhiên
2.2. Lý tưởng dưỡng sinh
2.2.1 Sống siêu thoát, thoải mái
2.2.2 Sống, chết là lẽ tự nhiên
2.3 Thuật luyện đan
2.3.1 Thuật nội đan
2.3.2 Thuật ngoại đan
CHƯƠNG 3. TƯ TƯỞNG LÃO TRANG TRONG LIÊU TRAI CHÍ DỊ NHÌN
TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1 Khơng gian nghệ thuật
3.1.1 Không gian thần tiên
3.1.2 Không gian âm phủ

3.2 Thời gian nghệ thuật
3.2.1 Thời gian đêm tối
3.2.2 Thời gian luân hồi chuyển kiếp


3.3 Nghệ thuật khắc họa nhân vật
3.3.1 Khắc họa nhân vật thơng qua ngoại hình đặc biệt
3.3.2 Khắc họa nhân vật thông qua hành động


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Trung Quốc là một trong những nền văn học lâu đời và có nhiều
thành tựu của thế giới. Văn học Trung Quốc khơng chỉ có những tác phẩm lớn như
Kinh Thi, Luận Ngữ mà cịn có thơ đời Đường, từ thời Tống. Bên cạnh đó, tiểu
thuyết cũng là một trong những thể loại tiêu biểu của văn học Trung Quốc. Tiểu
thuyết Trung Quốc để có thể được cả thế giới cơng nhận như ngày nay đã trải qua
biết bao thời kì thăng trầm. Đời Đường, bọn Trưởng Tôn Vô Kỵ làm Tùy thư, phần
Kinh tịch chí được soạn từ Ngụy Trưng phỏng theo Trung Kính bạ có thay đổi chút
ít, được chia làm bộ kinh, sử, tử, tập, tiểu thuyết được xếp vào bộ tử. Nội dung là
những câu chuyện ứng đối, các vật cùng vui chơi, kể lại các nghệ thuật. Thời Thạch
Tấn, tiểu thuyết được chép lại bỏ bớt những sách đã mất và không khác nhiều so với
với Kinh tịch chí của Tùy thư. Đến nhà Tống, tiểu thuyết thêm nhiều các trước tác
từ đời Tần đến Tùy. Nhà Tống đưa các sách trước đây được xếp ở loại tạp truyện
của sử vào thể loại tiểu thuyết. Đời Nguyên tu sửa lại của đời Tống khơng có nhiều
thay đổi, chỉ làm cho thêm phức tạp. Tiểu thuyết dường như trải dài xuyên suốt theo
các triều đại của Trung Quốc, chính vì vậy mà thể loại này có nhiều tác phẩm nhận
được sự đón nhận từ nhiều độc giả, như là Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây du
ký, Hồng lâu mộng…
Khơng chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh là một

trong những tác phẩm tiêu biểu cho thể loại này. Liêu trai chí dị thành cơng về nội
dung, tư tưởng bởi nó chứa đựng nhiều giá trị tư tưởng Lão Trang và mang nhiều
bài học ý nghĩa, cả mặt nghệ thuật cũng thành công bởi tài năng nghệ thuật khéo léo
của Bồ Tùng Linh. Từ đó, tác phẩm khơng chỉ mang giá trị giải trí nữa mà cịn là
tiếng nói phản ánh thời đại, tố cáo một xã hội phong kiến thối nát. Đặc biệt, tư
tưởng Lão Trang trong tác phẩm đã mang đến cho người đọc nhiều chiêm nghiệm
về cuộc đời, con người và cả chính bản thân mình.
Văn học Trung Quốc không chỉ được yêu mến tại Việt Nam mà cịn ảnh
hưởng đến khơng ít tác giả Việt Nam. Một số cây bút Việt Nam như Thế Lữ,

1


Nguyễn Tuân cũng chịu ảnh hưởng từ Liêu trai chí dị để tạo nên những tác phẩm
cho riêng mình. Những yếu tố kỳ ảo, ma mị của Liêu trai chí dị đã khơi dậy nguồn
cảm hứng cho nhiều tác giả Việt Nam để tạo nên các sáng tác mang đậm chất huyền
hoặc. Từ đó, đã góp phần tạo ra một khuynh hướng mới cho văn học Việt Nam
Từ các lý do trên, đề tài “Tư tưởng Lão Trang trong Liêu trai chí dị của Bồ
Tùng Linh” từ góc độ những tư tưởng Lão Trang thấy được những giá trị cao đẹp
mà tác phẩm mang lại. Ngoài ra, thấy rằng Bồ Tùng Linh am hiểu và sử dụng tư
tưởng Lão Trang trong sáng tác của mình.

2. Lịch sử vấn đề
Liêu trai chí dị là một trong những tác phẩm có dung lượng tương đối lớn
nên nhận được nhiều nhận xét, đánh giá của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, với đề tài
“Tư tưởng Lão Trang trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh” thì đây là một đề tài
mới mẻ và chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về khía cạnh này.
Về mặt dịch thuật, Liêu trai chí dị đã phổ biến ở nước ta rất sớm dưới dạng
truyền khẩu, sau đó có một số tác giả dịch ra và được in bởi các nhà xuất bản khác
nhau. Đáng chú ý nhất là bản dịch ra chữ Quốc ngữ lần đầu tiên năm 1916 của

Nguyễn Chánh Sắt. Theo như quyển Liêu trai chí dị trọn bộ của tác giả Nguyễn
Đức Lân dịch, có khái qt lại q trình dịch thuật của Liêu trai chí dị như sau:
Cuối thế kỷ XIX, nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của
đã tập hợp những truyện cổ, truyện khôi hài trong dân gian chép lại thành sách.
Phần lớn những câu truyện này đều có nguồn gốc từ Liêu trai chí dị, nhưng đây lại
khơng phải là bản dịch chính thức bởi đây chỉ là những câu truyện mà tác giả nghe
biết rồi đem thuật lại vào sách. Đến đầu thế kỷ XX, báo chí phát triển, một số truyện
trong Liêu trai tiếp tục được dịch và in trên báo, sau đó được tập hợp lại xuất bản
thành sách do nhà Josepb Viết phát hành. Nhưng hiện nay những bộ sách này hầu
như không ai biết tới. Từ cuối thập niên 1930 đến đầu thập niên 1940 xuất hiện hai
nhà dịch giả xuất sắc đó là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Quán Chi Đào Trinh
Nhất. Sách của Tản Đà được in năm 1938 do nhà xuất bản Tân Dân, sách của Đào
Trinh in năm 1942. Đến khoảng năm 1955- 1956, trên báo chí tiếp tục xuất hiện

2


những bản dịch của Nguyễn Hoạt. Tuy nhiên, ông chỉ dịch những truyện Liêu trai
mới, không trùng với bản dịch của Tản Đà, Quán Chi. Năm 2006 bản dịch toàn bộ
do tác giả Nguyễn Đức Lân được in bởi nhà xuất bản Văn học.
Các cây bút của Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều từ Liêu trai chí dị của Bồ
Tùng Linh đó là Thế Lữ và Nguyễn Tuân. Trong tác phẩm Vàng và máu và tác
phẩm Một đêm trắng của mình, Thế Lữ đã lấy cảm hứng về một thế giới huyễn
hoặc ma mị từ Liêu trai chí dị để viết nên. Đặc biệt, trong tác phẩm Trại Bồ Tùng
Linh được viết theo phong cách huyền bí cũng được Thế Lữ lấy cảm hứng từ Liêu
trai chí dị. Nguyễn Tuân cũng là một trong những tác giả chịu ảnh hưởng từ Liêu
trai chí dị của Bồ Tùng Linh. Nguyễn Tuân không rập khuôn theo hơi hướng của
Liêu trai mà thay vào đó ơng kết hợp giữa sự sáng tạo mới lạ của riêng mình và yếu
tố kì ảo của Liêu trai được sử dụng một cách hạn chế để viết nên Báo oán và Trên
đỉnh non Tản khiến cho người đọc cảm thấy rùng rợn mà vẫn mê hoặc theo từng

câu chữ. Bên cạnh Nguyễn Tuân và Thế Lữ còn có một số tác giả cũng chịu ảnh
hưởng từ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh như Tchya Đái Đức Tuấn với Thần hổ,
Ai hát giữa rừng khuya, Bùi Hiển với Nằm vạ, Đỗ Huy Nhiệm với Tiền kiếp, Thanh
Tịnh và tác phẩm Ngậm ngải tìm trầm, Cung Khanh và tác phẩm Cách ba nghìn
dặm. Đây được xem như là một sự gần gũi trong quan niệm nghệ thuật, sự sáng tạo
dựa trên cái kỳ ảo và cái thực tại, đằng sau thế giới kì ảo ma mị ấy mang đầy giá trị
nhân văn và giàu sức cuốn hút người đọc. Những điều ấy đã góp phần tạo nên một
phong cách mới lạ, mở ra khuynh hướng Tân truyền kỳ trong văn xuôi Việt Nam.
Việc nghiên cứu về tác phẩm Liêu trai chí dị thì được một vài tác giả nghiên
cứu. Trong Văn học Trung Quốc, tác giả nói về tác phẩm này “Liêu Trai chịu ảnh
hưởng rõ rệt chí qi thời Ngụy Tấn và truyền kì Đường. Cũng có người như Kỉ
Quân (thời Kiền Long) cho đó là nhược điểm của Liêu Trai vì một tác phẩm mà hai
văn phong. Nhưng thực ra Bồ Tùng Linh đã tiếp thu chỗ mạnh, hạn chế chỗ yếu của
chí quái lẫn truyền kì. So với chí qi thì miêu tả tường tận hơn, tỉ mỉ hơn; so với
truyền kì thì cơ đọng hàm súc hơn.” [10, tr.66]. Tác giả Bồ Tùng Linh đã tiếp thu
những điểm mạnh từ các dòng văn học ở các giai đoạn trước để tạo nên một Liêu
trai chí dị có thể trường tồn với dịng chảy thời gian “Liêu trai ra đời đến nay đã

3


trên ba thế kỉ. Nó đem đến cho người đọc một phong cách mới mẻ, hấp dẫn. Người
đọc có được niềm vui nhờ sự hóa thân kì diệu trong chốc lát để thoát khỏi cảnh đời
ngang ngược, để thực hiện những ước mơ.” [10, tr.67].
Khi dịch Liêu trai chí dị, Tản Đà có những lời bình dành cho tác phẩm này
“Ông Bồ Tùng Linh viết “Liêu Trai”, hay bao nhiêu chuyện dài, ngắn, mà không
chuyện nào phảng phất với chuyện nào, điển tích dẫn dùng, lời lẽ gọt chuốt, đều
hồnh bác mà tinh công.” [4, tr.5]. Bồ Tùng Linh bằng tài năng nghệ thuật của
mình đã tạo nên một Liêu trai chí dị mà đến ngày nay khi đọc ai cũng phải tấm tắc
khen ngợi.

Trong cuốn Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, tác giả Lỗ Tấn có viết
“Các sách chí quái cuối đời Minh, đại để đều sơ lược, lại lắm điều hoang đường
qi đản. Khơng ra tình người, chỉ một mình Liêu Trai chí dị là tường tận mà lại
bình thường, khiến cho yêu hoa tinh cáo đều giống người ta, hiền hòa, giản dị dễ
thân, quên mình là giống khác, mà nếu tình cờ thấy hồ đồ, ngớ ngẩn, thì cũng biết
là khơng phải người.” [12, tr.273]. Ngồi ra, khi nói về Liêu trai chí dị, ông đưa ra
các ưu, nhược điểm sau đây “1/ Miêu tả rõ ràng mà thấu đáo, văn viết có biến rõ,
nhuần nhị mà đạt ý, 2/ Nói chuyện yêu quái mà thường thấy đầy đủ tình người,
thơng suốt việc đời, làm cho người ta thấy gần gũi được, không phải đáng sợ lắm,
chỉ dùng điển cũ quá nhiều, làm cho một hạng người nào đó khơng dễ mà hiểu
được.” [12, tr.444]. Liêu trai chí dị đa phần là những câu truyện huyền ảo, kì bí
nhưng khơng gây ra cảm giác ghê sợ cho người đọc mà trái lại khiến cho người đọc
cảm thấy thú vị và có thêm cái nhìn mới về các thế lực không phải là người trần
gian.
Bên cạnh đó, những bài báo cáo khoa học về Liêu trai chí dị thường nghiên
cứu về các khía cạnh khác nhau của tác phẩm. Bài viết “Một số mơ típ tiêu biểu
trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh dưới góc nhìn huyền thoại học” của tác giả
Hồng Thị Thùy Dương, trong tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Báo cáo
nghiên cứu khoa học của Nguyễn Thị Tịnh Thy, trường Đại học Sư Phạm, Đại học
Huế với đề tài “Thời gian kì ảo trong Liêu trai chí dị.” Bài viết được đăng trong
trong tạp chí khoa học Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh của Hoàng Thị
4


Thùy Dương“Giải mã thời gian ban đêm trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh
dưới góc nhìn huyền thoại học.”
Trên cơ sở những cơng trình nghiên cứu của người đi trước đạt được hy vọng
đề tài này được hoàn thành tốt nhất có thể và được đóng góp thêm vào cơng trình
nghiên cứu về Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.


3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Tư tưởng Lão Trang trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh”, muốn
hướng đến các mục đích sau:
Tìm hiểu bối cảnh lịch sử giai đoạn, tiểu thuyết Minh Thanh, tác giả, tác
phẩm để thấy được sự quan trọng của của thể loại trong văn học Trung Quốc.
Tìm hiểu những tư tưởng Lão Trang như lối sống tiêu dao vô vi, lý tưởng
dưỡng sinh, thuật luyện đan được thể hiện thông qua nội dung của tác phẩm. Qua đó
thấy được tác giả đã phản ánh xã hội đương thời và những khát vọng chính đáng
của con người trong xã hội ấy.
Tìm hiểu các nghệ thuật được sử dụng để thể hiện tư tưởng Lão Trang có
trong tác phẩm Liêu trai chí dị.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Lão Trang có trong Liêu trai chí dị
và những nghệ thuật đặc sắc được sử dụng để thể hiện tư tưởng Lão Trang.
Hiện nay, có nhiều bản dịch của Liêu trai chí dị do nhiều nhà xuất bản khác
nhau. Người viết chọn nghiên cứu văn bản Liêu trai chí dị, nhiều tác giả dịch của
nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2018. Do tác phẩm có dung lượng khá lớn nên người
viết giới hạn phạm vi nghiên cứu trong Luận văn gồm các truyện có chứa đựng yếu
tố tư tưởng Lão Trang. Bao gồm các truyện sau đây: Nam nam thành thần (Vương
Lục Lang); Thụy Vân; Hoa sen mùa lạnh (Hàn nguyệt phù cừ); Chuyện ở đảo thần
tiên (Phấn Điệp); Đạo sĩ núi Lao (Lao Sơn đạo sĩ); Đảo tiên (Tiên nhân đảo); Xấu
người đẹp nết (Kiều nữ); Bộ da vẽ (Họa bì); Báo ứng trước mắt (A Hà); Thay tim

5


đổi mặt (Lục phán quan); Duyên tiên âm phủ (Cầm Sắt); Thư sinh họ Đổng (Đổng
sinh); Liên Tỏa; Cô Tư họ Hồ (Hồ Tứ Thư); Con gái nhà trời (Bạch Vu Ngọc);
Chồn quỷ tranh chồng (Liên Hương); Lên chơi trên trời (Lơi Tào); Tịch Phương

Bình; Ba ngày làm Diêm Vương (Lý Bá Ngôn); Con trai người lái buôn (Cổ Nhi);
Bạch Thu Luyện; Ba ông tiên; Hồ gả con (Hồ giá nữ); Bà chúa Tây Hồ (Tây Hồ
chúa). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nghiên cứu thêm trong quyển Liêu trai chí dị
trọn bộ, do Nguyễn Đức Lân dịch của nhà xuất bản Văn học, 2006. Gồm hai truyện:
Ba kiếp làm súc vật và Mối thù ba kiếp.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể hồn thành đề tài nghiên cứu này người viết đã vận dụng các
phương pháp sau đây để thực hiện:
Phương pháp phân tích- tổng hợp: đây được xem như phương pháp chính
được chúng tơi vận dụng để thực hiện đề tài này, phương pháp này được dùng để
phân tích sau đó tổng hợp lại tất cả và rút ra kết luận khái quát nhất có thể. Dùng
phương pháp này nhằm giúp cho người đọc dễ dàng nắm được nội dung chính của
bài nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử- xã hội: được dùng để giới thiệu một cách khái quát
nhất có thể về bối cảnh xã hội ra đời những tư tưởng Lão Trang cũng như tác phẩm
Liêu trai chí dị. Phương pháp này được chúng tơi dùng nhằm tìm hiểu mối liên hệ,
ảnh hưởng, tác động của bối cảnh lịch sử xã hội đến giai đoạn văn học này.
Phương pháp hệ thống: người viết dùng phương pháp này để xem xét tác
phẩm trong hệ thống tư tưởng Lão Trang, thống nhất các vấn đề có liên quan lại với
nhau. Dùng phương pháp này nhằm rút ra những nhận xét khách quan và bài nghiên
cứu trở nên khoa học hơn.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Văn học Trung Quốc thời Minh Thanh
1.1.1 Bối cảnh lịch sử

Chu Nguyên Chương là người đã lật đổ vương triều Mông Nguyên lập nên
nhà Minh sau gần một thế kỉ bị người Mông Cổ thống trị. Để bắt đầu cho công cuộc
quản lý đất nước, bước đầu Chu Nguyên Chương thi hành một số chính sách để vực
dậy đất nước sau một thời gian dài bị thống trị như phát triển thủy lợi, nông nghiệp,
khôi phục công thương nghiệp, thủ công nghiệp. Nhờ thế mà kinh tế, xã hội dần
được ổn định và ngày càng phồn vinh hơn. Tuy nhiên, càng về sau thì triều đại ngày
càng sa sút, quan lại thì mải mê ăn chơi phung phí, hoang dâm vơ độ. Để có thể
củng cố quyền thống trị và mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua cũng như triều
đình bọn quan lại ấy đã chặt hết mọi tay chân thân tín, khơng tin người có tài đức
mà chỉ tin dùng con cháu hoàng tộc. Chúng áp bức bốc lột nhân dân một cách tàn
bạo, khơng chỉ vậy chúng cịn bành trướng lãnh thổ bằng cách xâm chiếm các nước
như Mông Cổ, Indonexia và Việt Nam. Nhà Minh từ một đế chế đưa người dân
thốt khỏi sự đơ hộ gần một thế kỉ của người Mông Cổ, đưa đất nước thoát khỏi sự
suy tàn về kinh tế. Dần dần lại trở thành vương triều quân chủ chuyên chế cực đoan,
kìm hãm sự phát triển cả về kinh tế lẫn xã hội.
Sau khi nhà Minh sụp đổ thì nhà Thanh được hình thành, đây là một vương
triều ngoại quốc cai trị Trung Quốc và cũng là triều đại phong kiến cuối cùng. Bởi
vì chỉ là một vương quốc nhỏ, lạc hậu nhưng để có thể cai quản được một đất nước
to lớn và phát triển về văn hóa mà nhà Thanh khơng ngần ngại thi hành chính sách
trấn áp nơ dịch vô cùng ác độc. Nhà Thanh bắt người Hán phải theo tục người Mãn
như gióc đi sam, mặc áo kỳ bào. Chính những chính sách cai trị tàn bạo và cực
đoan này mà những năm đầu của triều Thanh đã đẩy đất nước rơi vào cảnh tăm tối
ngập trong đau thương. Để có thể xoa dịu tình hình này, bọn cai trị quyết định thi
hành các chính sách nhượng bộ để khôi phục kinh tế cũng như xã hội. Mọi thứ dần

7


trở nên khởi sắc hơn, nông nghiệp hoạt động sôi nổi trở lại sau một thời gian đình
đốn. Cũng giống như bao triều đại khác, nhà Thanh cũng có tham vọng muốn bành

trướng lãnh thổ. Chính sự tham vọng này một lần nữa khiến cho mâu thuẫn xã hội
giai cấp ngày càng trở nên nghiêm trọng và phức tạp hơn. “Nó trở thành triều đại
chuyên chế phản động, nhất là khi những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa có từ
Nguyên Minh đã phát triển mạnh mẽ và chế độ phong kiến thì đã bước vào buổi xế
chiều.” [10, tr.5].
Cả hai triều đại Minh và Thanh tuy ở hai thời điểm khác nhau nhưng đều
phải trải qua vòng lặp của vương triều đó là hưng thịnh rồi dần suy vong. Sự suy tàn
này khiến cho tình hình chính trị xã hội của hai triều đại này có những điểm chung
với nhau. Nhà Minh giai cấp cầm quyền chỉ lo ăn chơi ức hiếp dân lành, ưa lời nịnh
hót của bọn gian thần. Chính bởi vì sự lơ là chính sự này mà bọn gian thần dần trở
nên thao túng cả triều đình, cậy có nhà vua chống đỡ mà bọn chúng ngày càng lộng
hành. Bọn chúng thẳng tay loại bỏ những nhân tài biết lo nghĩ cho đất nước bởi vì
những người này khơng cùng chí hướng với chúng. Lúc này chính quyền từ trung
ương đến địa phương tưởng chừng như đều tập trung vào vua nhưng chỉ là vỏ bọc
bên ngoài, thực tế mọi thứ đều nằm trong tay một nhóm người. “Đó là một chế độ
chuyên chế phản động và lỗi thời khi mà trong lòng xã hội đã phát triển những
mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa và song song với nó, những tư tưởng dân chủ
chống phong kiến đang được truyền bá rộng rãi.” [10, tr.6].
Khi nhà Thanh được thành lập một mặt vẫn tiếp tục kế thừa những chế độ
chuyên chế này và một mặt tập trung mọi quyền lực vào tay vua Thanh nhưng đây
cũng chỉ là hình thức bên ngồi. Bởi vì là một triều đại ngoại tộc nên để có thể cai
trị được Trung Quốc, nhà Thanh đã thi hành các chính sách hết sức tàn bạo đó là lấy
Hán trị Hán, lấy Hán trị Di. Người dân Trung Quốc lúc bấy giờ phải chịu sự áp bức
trên cả hai phương diện đó là phong kiến và chủng tộc, kết quả của sự thống trị này
là xã hội Trung Quốc bị kìm hãm trong sự trì trệ nặng nề về mọi mặt.
Cả triều Minh lẫn Thanh tất cả mọi ruộng đất đều rơi vào tay địa chủ, quan
lại mặc dù đây là tài sản và phương tiện để sống của người dân. Người dân bị áp
bức một cách tàn bạo trắng trợn như thế là do pháp luật lỏng lẻo đã bao che cho bọn
8



thống trị. Kết hợp cùng kinh tế tư bản thương nghiệp đang thâm nhập một cách
nhanh chóng khiến cho nơng dân nhanh chóng trở nên nghèo khó hơn nữa. Những
điều này đã hình thành nên mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt và dẫn đến các cuộc
khởi nghĩa với quy mô lớn bùng nổ ra ngày càng dày đặc để chống lại giai cấp
thống trị. Minh- Thanh cũng là hai triều đại có chiến tranh xâm lược lãnh thổ nổ ra
liên tục. Những cuộc chiến tranh này đều xuất phát từ lòng ham muốn bành trướng
lãnh thổ và tham vọng làm bá chủ của các đế vương. Dù cho các cuộc chiến tranh
này xuất phát từ mục đích ban đầu nào đi chăng nữa thì đều mang lại sự đau khổ cả
về thể xác lẫn tinh thần cho người dân lương thiện quanh năm suốt tháng đều phải
gánh chịu mọi áp bức bốc lột. Nó cũng khiến cho mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở
nên gay gắt và phức tạp hơn nữa.
Về mặt văn hóa, để củng cố chế độ phong kiến và triệt để tinh thần phản
kháng đấu tranh của người dân thì cả triều Minh lẫn Thanh đều ra sức đề cao Lí
học. Những điều này đều nhằm mục đích củng cố chế độ phong kiến tập quyền. Lí
giáo khuyên con người sống một cách an phận thủ thường, sống khép mình tn thủ
theo mọi khn phép. Đây được xem như một phương tiện để đào tạo thuần dân
một cách hiệu quả. Nhằm khống chế khả năng sáng tạo và hạn chế số lượng người
tài ra cống hiến cho đất nước nhà Minh- Thanh đã đề xướng văn bát cổ dùng để thi
cử, rút ra luận điểm trong Tứ Thư, Ngũ Kinh để làm đề thi. Ngoài ra, chính sách
“văn tự ngục” đã khiến cho biết bao tác giả kết thúc sự nghiệp cầm bút của mình chỉ
bởi vì dám vạch trần mỉa mai chế độ. Khơng ít tác giả đã phải bỏ cả mạng chỉ vì
một từ, một câu bị cho là đang nói đến chế độ chính trị.
Một vương triều được hình thành rồi kết thúc, vương triều khác lại được hình
thành là một điều khó có thể tránh khỏi trong lịch sử. Nhà Minh được thành lập rồi
sụp đổ tiếp đến nhà Thanh ra đời, mặc dù cả hai triều đại có khơng ít đóng góp vào
q trình lịch sử của Trung Quốc nhưng những chính sách cực đoan và tàn bạo đã
khiến cho mâu thuẫn giữa chính quyền và người dân khơng thể giải quyết một cách
ơn hịa được. Chính những chính sách và cách cai trị của nhà Minh lẫn nhà Thanh
đều khiến cho xã hội Trung Quốc thay đổi khơng ít kèm theo đó văn học cũng có

những đổi thay khơng kém.

9


1.1.2 Tình hình văn học
Văn học Minh Thanh đã góp một phần không hề nhỏ vào lịch sử phát triển
văn học của Trung Quốc. Văn học đời Minh có hai phong trào lớn đó là phục cổ và
lãng mạn. Phái phục cổ có chủ trương lời lẽ phải cổ nhã, ý phải hưng và phải dùng
rất nhiều thực tự. Phái lãng mạn thì lãng mạn một cách quá độ nên chỉ viết ra những
bài có giọng cuồng loạn. Một phái thì có q nhiều quy tắc khắt khe, một phái thì
lãng mạn một cách thái quá nên cả hai trường phái này đều không mang lại nhiều
dấu ấn cho văn học thời Minh. Giai đoạn này văn học chính thống như thơ, từ, tản
văn với nội dung ca tụng công đức của vua chúa dần mất chỗ đứng thì tuồng và tiểu
thuyết từng bị coi là văn học khơng chính thống đang dần trở nên phổ biến. Thời
Minh sơ tuồng dần bước vào thời kì đỉnh cao đến giữa đời Minh thì càng có thêm
nhiều văn nhân bắt đầu soạn tuồng nên chất lượng ngày càng được nâng cao hơn
nữa. Giai đoạn này tuồng mang trong mình những lời lẽ chân chất mộc mạc dễ hiểu
nên càng phát triển mạnh mẽ và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt. Tuy nhiên, đến
cuối đời Minh thì các tác giả lại quá chú trọng lời văn nhưng lại không chú trọng
đến nội dung nên dần đánh mất sự mộc mạc ban đầu và ngày càng rời xa quần
chúng. Vì lẽ đó mà giai đoạn này tuồng ngày càng suy yếu khơng cịn giữ vị trí cao
như trước nữa. Đời Minh là thời kì tiểu thuyết được thể hiện đầy đủ tư tưởng phong
phú, tình tiết được miêu tả một cách khéo léo tỉ mỉ. Thời kì này tiểu thuyết dần
được đón nhận hơn nhưng đây được coi là văn học khơng chính thống nên một vài
tiểu thuyết không rõ tác giả và được truyền lại qua nhiều giai đoạn nên sẽ mang
nhiều màu sắc văn phong khác nhau của nhiều cây bút.
Văn học đời Thanh phát triển không kém so với văn học đời Minh. Đời
Thanh là thời kỳ phục hưng và hưng thịnh của văn học, các thể loại từ thơ cho đến
tiểu thuyết đều phát triển về cả số lượng lẫn chất lượng. Thời Thanh sơ chưa có

khuynh hướng nào rõ rệt xuất hiện, tuy nhiên nhờ có tinh thần tự do mà văn học
thời kì này trở nên rực rỡ muôn màu muôn vẻ. Đến cuối đời Thanh những thay đổi
về xã hội cũng đã khiến cho văn học có những chuyển biến mới. Những ảnh hưởng
từ phương Tây cũng đã khiến cho văn học thời kì này có những thay đổi khơng nhỏ,
họ bắt đầu bài xích lối học từ chương và cổ xúy văn học thực tiễn. Tuồng và tiểu

10


thuyết ở đời Thanh được đón nhận khơng hề thua kém đời Minh, tuồng toàn thịnh
sắp lấn át cả tuồng của đời Minh. Đời Thanh là thời kì hồng kim của tiểu thuyết, đa
dạng về cả số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết Thanh mang dấu ấn cá nhân và
mang màu sắc hiện đại hơn bởi các tác giả không cịn ẩn mình khi sáng tác nữa và ít
bị ràng buộc bởi sử sách. Ở giai đoạn này tiểu thuyết đạt cực thịnh nên cũng có
nhiều cách chia tiểu thuyết thành các loại khác nhau. Số lượng tiểu thuyết ra đời ở
thời kì này khơng hề nhỏ, bên cạnh những tiểu thuyết vừa và dài thì đoản thiên tiểu
thuyết cũng phát triển khơng kém, tiêu biểu là Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Nhìn chung văn học đời Minh và Thanh có thể ghép vào cũng một giai đoạn
văn học bởi cơ sở kinh tế, chế độ chính trị hoạt động văn học tương đối giống nhau.
Văn học giai đoạn Minh Thanh phong phú đa dạng cả về nghệ thuật lẫn nội dung,
đặc biệt đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự chuyển mình sang khuynh hướng hiện
đại của văn học Trung Quốc. Cả hai thời kì đều có đặc điểm chung đó là sự suy tàn
của văn học chính thống và sự phát triển vượt bậc của văn học khơng chính thống.
Trong lúc văn học chính thống đang dần đánh mất vị thế ban đầu của mình và luôn
nổ ra cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng phục cổ và sáng tạo, thì văn học được cho
là khơng chính thống ngày càng trỗi dậy mạnh mẽ trong đời sống quần chúng. Đặc
biệt là tiểu thuyết dần trở thành nét tiêu biểu cho cả giai đoạn văn học này, bởi có sự
kế thừa trực tiếp từ truyền thống của các thời đại trước đó kết hợp cùng sự sáng tạo
phản ánh xã hội tương thời. Văn học Minh Thanh bên cạnh những nét khác nhau thì
vẫn đan xen những nét tương đồng, những điều đó đã tạo nên một giai đoạn văn học

vô cũng phong phú đa dạng và mang nhiều ý nghĩa đối với văn học Trung Quốc.

1.1.3 Tiểu thuyết Minh Thanh
Đời Minh Thanh là một trong những giai đoạn tiểu thuyết phát triển mạnh
mẽ. Có thể xem văn học đời Minh Thanh vào cùng một giai đoạn văn học nhưng
tiểu thuyết ở hai thời kì này vẫn có những nét khác biệt với nhau. Tiểu thuyết đời
Minh có thể được chia thành hai trào lưu lớn và chủ yếu đó là thần ma và nhân tình
thế thái. Tơn giáo và các phương sĩ khơng chỉ có những ảnh hưởng, tác động lên đời
sống mà còn ảnh hưởng đến văn học. Do chịu ảnh hưởng từ đó nên trào lưu thần ma
ngày càng nổi lên, tiêu biểu cho trào lưu này chính là ba bộ tiểu thuyết Tây Du Ký,

11


Phong Thần truyện và Tam Bảo Thái Giám Tây Dương truyện. Ngay lúc trào lưu
tiểu thuyết thần ma đang thịnh thì trào lưu tiểu thuyết nhân tình thế thái xuất hiện và
dần nổi lên không kém. Do chịu ảnh hưởng từ tầng lớp phương sĩ và tình hình xã
hội lúc bấy giờ mà trào lưu này ngày càng nở rộ. Loại tiểu thuyết này chủ yếu thuật
lại những chuyện phong lưu, tả thói đời thơng thường vui buồn tan hợp. Nổi tiếng
nhất cho loại tiểu thuyết này chính là Kim Bình Mai, ngồi ra cịn có Ngọc Kiều Lý.
Tiểu thuyết thế tình đã có một phen biến đổi lớn trở thành tiểu thuyết nói về nhân
quả, mặt khác lại dấy lên mối phản động khác, đó là tiểu thuyết nói về ơn nhu đơn
hậu, tiêu biểu là Bình Sơn Lãnh Yến, Hảo Cầu truyện, Ngọc Kiều Lê. Đây đều là
những tác phẩm tiêu biểu cho hai trào lưu lớn của tiểu thuyết đời Minh, nhưng
Ngọc Kiều Lý đến đời Thanh khơng cịn nữa, Bình Sơn Lãnh Yến, Hảo Cầu truyện
và Ngọc Kiều Lê thì lại nổi tiếng ở nước ngồi bởi chúng đều có bản dịch sang các
thứ tiếng khác.
Đến đời Thanh có nhiều sự thay đổi hơn nên tiểu thuyết được chia làm bốn
dịng phái chính, đó là phái nghị cổ, phái phúng thích, phái nhân tình, phái hiệp
nghĩa. Được gọi là phái nghị cổ bởi vì các tiểu thuyết này thường dựa vào chí quái

đời Lục triều hoặc truyền kỳ đời Đường để sáng tạo nên. Các tiểu thuyết được xếp
vào dịng phái này thường được đón nhận bởi nó mới lạ, có lời đẹp. Chính vì thế mà
ngày càng có nhiều người sáng tác theo thể loại này. Tiêu biểu cho tiểu thuyết phái
nghị cổ chính là Liêu trai chí dị, chủ yếu là những chuyện thần tiên, ma hồ, tuy
khơng có nhiều khác biệt so với các sáng tác lúc bấy giờ nhưng nhờ vào lời văn rõ
ràng và mang nhiều bài học ý nghĩa, đầy tình người nên được mọi người u mến.
Phái phúng thích là tập hợp những tiểu thuyết có ngụ ý chê cười, thể loại này đã có
từ đời Tấn, đến đời Minh thì càng nhiều, nhưng đến đời Thanh lại ít đi. Nổi tiếng
nhất cho phái này chính là cuốn Nho lâm ngoại sử, sau đó thì có bộ Quan trường
hiện hình ký và Nhị thập niên mục đỗ chi quái hiện trạng. Hai bộ sau cũng được
thịnh hành nhưng lại bị đánh giá thua xa so với Nho lâm ngoại sử. Phái nhân tình có
tác phẩm nổi tiếng bậc nhất đó là Hồng lâu mộng bởi đây là một tiểu thuyết dám
miêu tả thực không tô vẽ màu hồng so với những tiểu thuyết khác. Sau này, có
nhiều tiểu thuyết ra đời dựa theo Hồng lâu mộng nhưng đều không nhận được nhiều
sự quan tâm từ người đọc. Phái hiệp nghĩa, tiêu biểu cho phái này chính là cuốn tiểu
12


thuyết Tam hiệp ngũ nghĩa, tiểu thuyết này nhanh chóng này nổi tiếng kéo theo cả
dòng phái này cũng ngày càng thịnh.
Một trào lưu thịnh rồi suy là một điều bình thường trong dịng chảy văn học.
Tiểu thuyết Minh Thanh cũng thế, tuy có lúc phát triển được mọi người đón nhận
rồi phai mờ đi, có cách phân loại khác nhau, nhưng nhìn chung tiểu thuyết của thời
kì này vẫn rất phát triển và có nhiều đóng góp cho văn học Trung Quốc.

1.2 Đôi nét về tư tưởng Lão Trang
1.2.1 Nguồn gốc và sự phát triển của tư tưởng Lão Trang
Trung Quốc vốn là một đất nước có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, vì thế mà
hệ thống tư tưởng triết học vô cùng phong phú, phức tạp và ln mang lại nhiều giá
trị bổ ích cho đến ngày nay. Một trong những tư tưởng triết học ra đời từ sớm của

Trung Quốc chính là đạo Lão. Đạo Lão được cho là do Lão Tử sáng lập ra. Lão Tử
là một nhà triết học với học thuyết về “Đạo” nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Ông
được coi là người đã sáng lập ra trường phái triết học Đạo gia, một trong ba trường
phái triết học lớn thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Lão Tử sống ở thời đại nào cho đến
nay vẫn là một ẩn số và đang được nghiên cứu. Có quan điểm cho rằng ơng sinh
trước Khổng Tử, khơn hơn Đặng Tích. Có quan điểm cho rằng ông sống cùng thời
với Khổng Tử và có dạy lễ cho Khổng Tử. Lại có quan điểm cho rằng Lão Tử sống
sau Khổng Tử hàng trăm năm, vào thời Chiến Quốc. Cuộc đời và sự nghiệp của Lão
Tử mang đầy huyền thoại và cũng thấp thoáng sự mập mờ, nửa hư nửa thật nên khá
khó cho việc xác định chính xác. Quan điểm nhận được nhiều sự thống nhất về xuất
thân của Lão Tử đó là Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam, còn gọi
là Lão Đam, vốn người huyện Khổ, Hưng Lệ, làng Khúc Nhân, nước Sở. Ông làm
quan sử, giữ kho chứa sách thời nhà Chu. Có giai thoại về Lão Tử đó là khi chán
ngán về tư cách đê tiện của các chính khách, về chức thủ tạng thất của nhà Chu, ơng
quyết tâm rời khỏi Trung Hoa để tìm đến nơi vắng vẻ để ẩn thân. Khi đi đến cửa ải,
viên quan giữ ải Dỗn Hỉ đã bảo ơng “Ơng sắp đi ẩn, vậy xin ơng vì tơi mà để lại
một bộ sách.” Thế là ông viết một cuốn trên năm ngàn chữ gồm hai phần Đạo và
Đức, sau đó thì bỏ đi và khơng ai biết ơng đã đi đến đâu và mất khi nào. Tác phẩm

13


Đạo Đức Kinh của ông gồm tám mươi mốt chương, chia làm hai thiên Thượng và
Hạ là toàn bộ tư tưởng của ơng được trình bày một cách ngắn gọn và xúc tích. Tuy
nhiên, niên đại của Đạo Đức Kinh các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm
được các môn đệ của trường phái Đạo gia viết về sau này, ghi lại tư tưởng của Lão
Tử, chứ không phải là trước tác của chính Lão Tử. Dù cho là như thế nào đi chăng
nữa thì vẫn khơng thể phủ nhận Đạo Đức Kinh chính là tác phẩm quan trọng nhất
của triết lí đạo Lão, sau Lão Tử vẫn có nhiều nhà triết học theo, những triết lý trong
ấy khơng chỉ hấp dẫn lí thú mà cịn răn dạy người đời nhiều điều.

Một trong những nhà triết học nổi bật tiếp nối những tư tưởng triết lý của
Lão Tử đó chính là Trang Tử. Trang Tử được xem như là người có đủ cơng mài
giũa viên ngọc “Đạo” của Lão Tử để hiện lên đầy đủ vẻ lấp lánh huyền hoặc của nó.
Trang Tử sống vào thời kỳ đảo lộn dữ dội trong lịch sử Trung Quốc cổ đại- thời
Chiến Quốc. Trang Tử là người gốc xứ Mông nước Tống, tên thật là Trang Chu,
ông sống vào khoảng những năm 369 286 trước Cơng Ngun. Ơng từng làm quan
Tất viên ở xứ Mơng và nổi danh tài trí nhưng về sau cũng về ở ẩn như Lão Tử. Ông
là người viết Nam Hoa Kinh, nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão Tử mới
được phổ biến mạnh. Tên ông gắn liền với tên của Lão Tử và cả hai có cơng làm
cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn,
khống đạt hơn. Đến nay thì Nam Hoa Kinh được lưu truyền với ba mươi ba thiên
được chia làm ba phần lớn gọi là Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. Những tư
tưởng, triết lý của Lão Tử và Trang Tử đã góp phần tạo nên tư tưởng Lão Trang
vững chắc cho người đời sau noi theo để có thể hướng đến những giá trị tốt đẹp.

1.2.2 Những nội dung chính của tư tưởng Lão Trang
Để có thể hình thành nên những tư tưởng triết lý không phải là chuyện ngày
một ngày hai mà phải trải qua biết bao thế hệ và có sự góp nhặt của nhiều nhà triết
học. Một trong những tư tưởng tạo nên giá trị cốt lõi của tư tưởng Lão Trang đó là
“Đạo”; “Đức” và “vơ vi”, Lão Tử và Trang Tử chính là hai người có đóng góp to
lớn cho việc hình thành nên những quan niệm triết lý này. Trong Đạo Đức Kinh
Lão Tử bàn luận về hai chữ Đạo và Đức, về sự hình thành Trời Đất, hóa sinh vạn
vật. Vạn vật khi đã sinh thành rồi thì mỗi vật đều tích lũy Đạo và Đức nơi mình để
14


sống và tiến hóa. Quan niệm về Vũ trụ và Nhân sinh như thế nên Lão Tử theo đó
mà lập thành giáo lý của mình. Lão Tử trình bày “Đạo” theo ba mặt, đó là thể,
tướng và dụng. Mặt thể của “Đạo” theo quan niệm của Lão Tử là để chỉ nguồn gốc
tối sơ, nguyên thủy của vũ trụ vạn vật, là cái “tổng nguyên lý” chi phối sự sinh

thành và biến hóa của trời đất, là cái cực diệu cực huyền cho vạn vật noi theo. Mặt
thể của “Đạo” được Lão Tử dùng nhiều thuật ngữ để diễn đạt, nhưng nhìn chung thì
các thuật ngữ này đều đồng nhất với nhau, đều chỉ những tính chất khác nhau của
“Đạo”. Đặc biệt là tính chất khách quan, tự nhiên, thuần phác, đây cũng là tính chất
được Lão Tử đưa lên hàng đầu. Tính khách quan, tự nhiên của “Đạo” là sự mộc
mạc, đơn thuần vốn có của nó khơng bị sự tác động của con người hay bất cứ thứ gì
và nó hồn tồn độc lập với ý muốn, nguyện vọng của con người. Nó sinh ra vạn
vật nhưng khơng có ý chí, mục đích và cả dục vọng. “Đạo” sinh ra vạn vật nhưng
không cho vạn vật là của mình.
Mặt tướng của “Đạo” được Lão Tử dùng rất nhiều từ ngữ, hình ảnh để làm
nổi bật lên hình dáng, trạng thái của nó. Theo ơng thì “Đạo” khơng có hình dáng cụ
thể, khơng thể nhìn thấy, khơng thể nghe thấy, nhưng nó ln tồn tại một cách thấp
thống, sâu kín và nó là một thể thống nhất hịa hợp không thể phân chia hay tách
rời. Không thể thấy được, không thể chạm vào nhưng “Đạo” không bao giờ mất đi
mà vẫn luôn tồn tại hiện hữu dưới một dạng thức nào đó ở khắp cả vũ trụ, là đầu
của đất, là mẹ của mn vật. Vì thế mà “Đạo” vừa duy nhất vừa mn hình vạn
trạng, vừa bất biến, vừa biến hóa khơn lường.
Mặt dụng của “Đạo” chính là cơng dụng, năng lực của nó. Đó là trạng thái
vận động, biến đổi với năng lực sản sinh và huyền đồng vạn vật. “Đạo” bao trùm
mọi vật, luôn tồn tại ở xung quanh khắp mọi nơi nhưng nó ln thản nhiên như
khơng làm gì. Năng lực của “Đạo” chính là ở chỗ này, nó ln tĩnh lặng như khơng
làm nhưng thực ra khơng có gì mà “Đạo” khơng làm, khơng có gì mà khơng cần cậy
đến “Đạo” để tồn tại và nuôi dưỡng phát triển.
Mặt thể và dụng của “Đạo” là Lão Tử đang muốn nói đến “Đạo” và “Đức”,
bởi vì “Đạo” là thể của “Đức” và ngược lại “Đức” là dụng của “Đạo”. Từ ban đầu
Lão Tử đã cho rằng “Đạo” khơng có tên gọi cũng khơng có hình dáng cụ thể, đến
15


“Đức” mới bắt đầu có tên. Đạo sinh ra vạn vật, Đức xúc tích vạn vật, làm cho vạn

vật lớn, làm cho vạn vật sống, làm cho vạn vật hiện ra hình, làm cho vạn vật thành
ra chất, và ni nấng che chở vạn vật.
Để mở rộng tư tưởng về “Đạo” về mặt tư tưởng đời sống xã hội Lão Tử đã
đề xướng học thuyết “vô vi”. Theo Lão Tử “vơ vi” khơng có nghĩa là khơng làm gì
hết mà là hoạt động một cách tự nhiên, không làm trái với quy luật tự nhiên, khơng
hoạt động có tính gị ép, khơng thái q và bất cập. “Vơ vi” cịn có nghĩa là khơng
làm mất cái đức tự nhiên, thuần khiết vốn có của vạn vật, khơng ham muốn những
gì trái với tự nhiên trái với vạn vật mà phải bảo vệ giữ gìn bản tính tự nhiên của
mình, của vật. Ngồi ra, Lão Tử cịn đề cao lối trị nước theo “đạo vơ vi”, bởi theo
ơng thì dùng vơ vi để trị nước sẽ có được thiên hạ. Trong tư tưởng “vô vi”, Lão Tử
kịch liệt lên án bạo lực chiến tranh, ông coi chiến tranh là trái với đạo tự nhiên sẽ
gây ra tai họa vô cùng to lớn cho nhân loại. Theo Lão Tử đạt tới “vô vi” thì con
người có thể trở nên vơ cùng tuyệt vời, họ sẽ biết cách làm cho bản thân mình và cả
mọi người xung quanh cùng tỏa sáng, đạt được “vơ vi” thì con người đã vươn tới
chân thiện.
Bên cạnh Lão Tử thì Trang Tử cũng là một người góp công to lớn vào sự
phát triển của tư tưởng này. Trang Tử đã kế thừa và có những bước tiến mới với
những tư tưởng của Lão Tử. Theo quan niệm của Trang Tử thì “Đạo” là hư khơng,
mơ hồ, hỗn độn, chưa có hình thù, bản sắc và tính chất. Ngồi ra, với ơng “Đạo” là
vơ thường, đây cũng là nội dung cốt lõi về “Đạo” của Trang Tử. “Đạo” vơ thường
là một biến hóa khơn lường của vũ trụ, là sự vận động, biến đổi không ngừng nghỉ
của vạn vật. Ơng đã tuyệt đối hóa sự vận động, bỏ qua sự đứng im, sự tồn tại tương
đối của vạn vật, đây cũng là nét khác biệt về “Đạo” của Trang Tử và Lão Tử. Trang
Tử còn cho rằng “Đạo” là một sự biến đổi linh hoạt, nó cịn là quy luật chi phối mọi
sự biến đổi của vũ trụ nhưng không hề lộn xộn bừa bãi mà tất cả luôn theo nguyên
tắc một cách chặt chẽ, ông thường gọi đây là khn trời hoặc tạo hóa. Quan niệm về
“Đức” của Trang Tử là năng lực phát triển tự do có ở bản tính tự nhiên của mọi
người, mọi vật. “Đức” là một trạng thái tất yếu của vạn vật được quy định bởi bản
tính tự nhiên của nó. Nếu xem “Đức” có bản tính tự nhiên ở mọi người, mọi vật thì


16



×