Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận cơ sở lý luận báo chí khảo sát thông tin về các vấn đề toàn cầu trên báo chí để làm rõ khả năng can thiệp xã hội của báo chí trong việc tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.73 KB, 23 trang )

BÀI TẬP LỚN
MƠN: CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ

Đề tài:
để làm rõ khả năng can thiệp xã hội của báo chí trong việc tham gia giải
quyết các vấn đề tồn cầu


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA BÁO CHÍ
TRUYỀN THƠNG VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG TRONG
BỐI CẢNH TỒN CẦU HĨA......................................................................3
1.1. Vai trị của báo chí Truyền thơng với các vấn đề xã hội.......................3
1.2. Vấn đề mơi trường trong bối cảnh tồn cầu hóa...................................6
Chương 2. BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP................................................9
2.1. Thực trạng.................................................................................................9
2.2. Giải pháp kiến nghị................................................................................13
KẾT LUẬN....................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21


MỞ ĐẦU
Báo chí ngày nay, với các chức năng cơ bản của mình ngày càng có vai
trị quan trọng trong giải quyết, can thiệp vào các vấn đề toàn cầu, như biến
đổi khí hậu, thất nghiêp, dịch bệnh, đói nghèo, an sinh xã hội...đặc biệt là vấn
đề bảo vệ môi trường. Trước sức ép của tồn cầu hóa về kinh tế đã đặt ra
những nguy cơ ô nhiễm môi trường sinh thái, nhất là đối với những nước
nghèo, nước chậm phát triển và những nước đang phát triển. Do đón nhận làn


sóng dịch chuyển các cơng xưởng sản xuất từ các nước phát triển, đã mang lại
những lợi ích về kinh tế nhưng cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng về
môi trường.
Đối với nước ta, cũng như cộng đồng quốc tế, bảo vệ môi trường là
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, cần sự chung tay và nhiệt tâm của cả cộng
đồng xã hội, cả nhân loại trên toàn cầu. Để giữ gìn, bảo vệ được mơi trường,
có rất nhiều nhiệm vụ và thách thức đặt. Trong đó truyền thơng về bảo vệ mơi
trường ln giữ một vai trị quan trọng, là mắt xích khơng thể thiếu để việc
bảo vệ, gìn giữ môi trường trở nên hiệu quả nhờ sự thống nhất ý chí và hành
động trên phạm vi rộng rãi nhất. Trong đó Báo chí là phương tiện truyền
thơng chủ lực. Với lực lượng vô cùng to lớn, hùng hậu lại có đủ loại phương
tiện từ báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử, mạng xã hội, báo chí
truyền thơng tồn thế giới và trong phạm vi mỗi nước, mỗi vùng miền đều
đồng hành cùng tất cả các sự kiện và thực hiện chức năng cao cả của mình:
phản ánh, phản biện, cổ vũ khích lệ, định hướng dư luận và dẫn dắt hành
động. Không chỉ thực hiện tốt chức năng biểu dương, phê phán, phản biện,
báo chí truyền thơng cịn dẫn dắt dư luận để cộng đồng xã hội cùng vào cuộc
và thúc đẩy các giới chức lãnh đạo ở các nước và tổ chức quốc tế có hành
động kịp thời để khắc phục hậu quả do các vấn đề tồn cầu gây ra.
Chính vì vậy tơi đã chọn đề tài “Khảo sát thông tin về các vấn đề tồn
cầu trên báo chí để làm rõ khả năng can thiệp xã hội của báo chí trong việc
tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu” để làm đề tài nghiên cứu cho môn
1


học của mình. Tuy nhiên do mảng đề tài quá rộng nên trong phạm vi tiểu luận
này tác giả chỉ đề cập đến vai trị của báo chí trong vấn đề bảo vệ môi trường.

2



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN
THƠNG VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG TRONG BỐI CẢNH
TỒN CẦU HĨA
1.1. Vai trị của báo chí Truyền thơng với các vấn đề xã hội
Sau Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp thì từ trước tới giờ báo chí vẫn
được xem là cơ quan quyền lực thứ 4 ở nước ta. Khi nền kinh tế càng phát
triển thì báo chí cũng khơng ngừng đổi mới, năng động và sáng tạo hơn trong
tác nghiệp. Báo chí nước ta ngày càng bám sát đời sống xã hội, thông tin
nhanh chóng các tin tức sự kiện, đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ
tới quần chúng, góp phần củng cố, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Báo chí đang ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn những nhân tố
tích cực và nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất và chiến đấu, góp phần
đưa kinh tế đất nước phát triển cùng với sự phát triển chung của thế giới. Báo
chí là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp và nhà quản lý, hoạch định chính
sách giúp Nhà nước điều chỉnh những chủ trương, đường lối cho phù hợp với
thực tiễn. Báo chí cịn tham gia một cách đồng cảm trên mặt trận đấu tranh
tham những, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội. Với số lượng báo ngày càng
tăng và chất lượng ngày càng tốt đã tạo niềm tin và tạo thành một nhu cầu cần
thiết cho nhân dân.
Sứ mạng của báo chí trước hết là để thỏa mãn nhu cầu thông tin của xã
hội. Xã hội càng hiện đại, việc phổ biến thông tin trên quy mơ đại chúng càng
trở nên quan trọng và vì vậy, sự phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng trở nên chặt chẽ. Trong thời
đại bùng nổ thông tin ngày nay, vai trị tích cực của cộng đồng truyền thơng
đã thúc đẩy q trình xã hội hóa các hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
Thơng qua báo chí, người dân có thể phát biểu ý kiến, nguyện vọng
của mình về các vấn đề trong đời sống xã hội, qua đó, thể hiện sự giám sát và
3



phản biện xã hội của mình. Bám sát sự kiện, thơng tin nhanh nhạy, phân tích
trúng vấn đề trọng điểm và định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận rõ ràng,
các cơ quan thơng tấn, báo chí đã thực hiện tốt chức năng phản biện, mang lại
hiệu quả xã hội rõ rệt. Bởi thế, vai trò, chức năng phản biện của báo chí ngày
càng được khẳng định và niềm tin của công chúng đối với cơ quan truyền
thông cũng được nâng lên.
Tính chân thật, khách quan là đặc trưng, đặc điểm, là yêu cầu tồn tại
của bản thân báo chí và là nguyên tắc đầu tiên để báo chí thực hiện vai trị
quản lý xã hội thơng qua hoạt động phản biện và giám sát xã hội. V.I.Lê-nin
đã nhấn mạnh: Sự thật là sức mạnh của báo chí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường căn dặn các nhà báo phải ln trung thực, coi đó là một trong
những tiêu chuẩn đạo đức số một của người làm báo cách mạng. Với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng yêu cầu
báo chí phản ánh mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thật,
khách quan, đúng bản chất. Nhìn thẳng vào sự thật để giám sát và phản biện
xã hội có nghĩa là báo chí phải đưa tin cả về những thành cơng cũng như
những hạn chế, khó khăn, thất bại. Đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật địi
hỏi người viết phải có phương hướng và năng lực tư duy để có thể trình bày
một cách chân thực và đi đến bản chất của thông tin sự việc. Có thể nói, nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật là sự cụ thể hóa chức năng giám sát
và phản biện xã hội của báo chí.
Tính công khai, công cộng là một xu thế tất yếu, là biểu hiện quan
trọng của nền dân chủ, trong đó có quyền được thơng tin và tự do ngơn luận
được khẳng định rất rõ tại Lời mở đầu của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Báo chí (năm 1999). Ý kiến trên báo chí có thể được nhiều người
thảo luận, bàn cãi từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, vì báo chí có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ, rộng lớn và nhanh chóng trong việc hình thành dư
luận xã hội, nên tính cơng khai cần được lưu ý trên 2 khía cạnh: một là, nói rõ

sự thật sau khi đã đánh giá đúng bản chất; hai là, nói rõ sự thật để góp phần
4


xây dựng dư luận xã hội lành mạnh. Báo chí khơng được cơng khai dẫn tới
lộ bí mật quốc gia, tạo nên mối hồi nghi cho cơng chúng, hay tạo kẽ hở
cho các thế lực thù địch lợi dụng. Nhưng cũng không thể chấp nhận việc
vin vào lý do “muốn dư luận xã hội lành mạnh, yên ổn” để hạn chế tính cơng
khai của báo chí.
Tính đại chúng của báo chí được thể hiện ở việc, thơng tin báo chí tác
động tới xã hội rộng rãi, bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau,
nhu cầu thơng tin của công chúng được ưu tiên bảo đảm và là thước đo trình
độ, năng lực của hoạt động thơng tin báo chí. Đồng thời, báo chí cũng là diễn
đàn của nhân dân và phải phù hợp với trình độ của công chúng tiếp nhận.
Công chúng không chỉ muốn tiếp nhận thơng tin từ báo chí một cách thụ
động, mà cịn tương tác, phản hồi thông tin mạnh mẽ. Chức năng giáo dục của
báo chí ngày càng được đề cao, giáo dục để góp phần nâng cao dân trí; nâng
cao trình độ tương tác và tính chính xác của thơng tin phản hồi; từ đó, mơi
trường của sự giám sát, phản biện xã hội trong báo chí và dư luận xã hội sẽ
trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn.
Tính chiến đấu là một trong những nguyên tắc quan trọng của báo chí
Việt Nam. Tính chiến đấu của báo chí được thể hiện trên cả hai mặt: biểu
dương và phê bình. Báo chí ủng hộ chủ trương xóa bỏ quan liêu bao cấp, cải
cách hành chính, ủng hộ lối sống có lý tưởng lành mạnh, sáng tạo, năng động,
có ý thức xây dựng tập thể và đất nước đồng thời đấu tranh chống lại cách
làm thụ động, trì trệ, hình thức chủ nghĩa, hiệu quả thấp, đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội.
Báo chí là nhân tố, là phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong
việc định hướng nhận thức, hình thành dư luận xã hội. Báo chí là một lực
lượng rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của phản biện xã hội trong

tiến trình xây dựng một xã hội thực sự dân chủ. Tuy nhiên, trong quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, mỗi thơng tin trên báo chí đều có thể ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị thế, diện mạo của quốc gia, dân tộc. Do
5


đó, mọi sự phản biện xã hội trên báo chí, phải xuất phát từ cái tâm trong sáng
của nhà báo Việt Nam vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì quyền lợi chính đáng
của nhân dân và phải nhằm tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội. Báo chí
cần thực hiện nhiệm vụ là kênh thơng tin hữu ích giúp Đảng, Chính phủ lãnh
đạo, điều hành và quản lý tốt hơn mọi lĩnh vực trong cuộc sống, lấy mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và xây dựng một xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm phương châm hành
động và điều này cần thể hiện ở mọi nội dung đăng tải trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
1.2. Vấn đề mơi trường trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Tồn cầu hoá là thuật ngữ xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XX,
nhưng nó có nguồn gốc từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Tuy đánh giá và tiếp cận
tồn cầu hố ở các góc độ khác nhau nhưng tựu trung lại, tồn cầu hố là q
trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hướng, tác động lẫn nhau, phụ
thuộc vào nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới,
làm nổi bật lên hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó phát sinh một
loạt điều kiện mới. Ngày nay, thuật ngữ này trở nên rất phố biến trên báo chí
cũng như trong các nghiên cứa về quan hệ quốc tế và về kinh tế. Một trong
những lý do dân đến điều này là do sự ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của tồn
cầu hố đến mọi mặt của đời sống, từ kinh tế, chính trị đặc biệt là văn hố, Tồn
cầu hố thường được nhìn nhận từ góc độ phát triển kinh tế, thương mại và tài
chính nhờ sự tiến bộ của khoa học và cơng nghệ. Từ kinh tế, tồn cầu hố lan
rộng ra các lĩnh vực khác trong cuộc sống, toàn cầu hố là " một tiến trình lịch
sử, là kết quả của những tiến bộ về công nghệ và đổi mới của lồi người. Tồn

cầu hố hàm ý sự gia tăng hội nhập của các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là
thông qua thương mại và các nguồn tài chính
Tồn cầu hố là q trình phổ biến trên phạm vi tồn cầu những giá trị
hoạt động, mơ hình kinh tế, văn hố, chính trị, xã hội....Nó là xu hướng vận
động tất yếu khách quan của lịch sử và mang đậm dấu ấn chủ quan của con
6


người. Tồn cầu hố cịn thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia
dưới sức mạnh của làn sóng của cách mạng khoa học và cơng nghệ trong
quan hệ quốc tế hiện đại
Trong tác phẩm "Thế giới phẳng", tác giả là Nhà báo Thomas
Friedman, phóng viên The New York Times, đã miêu tả tồn cầu hố là một
q trình tất yếu của lịch sử với động lực cơ bản là kinh tế và có một sức
mạnh ghê gớm được thúc đay bởi những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực
cơng nghệ, truyền thơng, tài chính giao thơng vận tải...Tồn cầu hố cho phép
con người, hàng hố, thơng tin và các dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới
quốc gia với qui mô chưa từng thấy. Điều này làm thay đổi vị trí, vai trị của
từng con người, tổ chức, của quốc gia và của toàn bộ hệ thống thế giới. Thế
giới đang trở nên thống nhất và phụ thuộc nhau hơn.
Hiện nay, tồn cầu hố đang là một sự thật hiển nhiên trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội mà khơng một ai có thể nghi ngờ. Tồn cầu hố
gắn liền với những thành tựu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ như:
thông tin cáp, kinh tế số, Intemet... Tồn cầu hố tạo ra các luồng hàng hoá, tư
bản xuyên quốc gia và làm cho các không gian của các nền kinh tế, văn hố
đang lồng vào nhau.Dưới tác động của tồn cầu hố, các dân tộc và các cá
nhân buộc phải xích lại gần nhau, liên kết với nhau trong sự tương tác và phụ
thuộc lẫn nhau cùng phát triển.
Thực hiện đường lối đổi mới và hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa đất
nước, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế.

Ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều có các khu cơng nghiệp với quy mô phong
phú, nhiều làng nghề phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy Việt Nam cũng như các
quốc gia khác đang gặp nhiều thách thức liên quan đến sức khỏe nghề nghiệp
và bảo vệ môi trường. Một trong những ảnh hưởng to lớn nhất của tồn cầu
hóa tới mơi trường sinh thái chính là sự cạn kiệt các nguồn năng lượng diễn ra
với tốc độ khơng thể kiểm sốt do 80% thế giới thuộc các nước đang phát
triển áp dụng mơ hình cơng nghiệp hóa lãng phí năng lượng của các nước
7


thuộc 20% thế giới phát triển. Việc tiêu hao các nguồn năng lượng này (như
dầu lửa, than đá) cũng đồng nghĩa với việc gia tăng các khí hiệu ứng vào bầu
khí quyển là ngun nhân của những vấn đề mơi trường tồn cầu, như suy
giảm tầng ơ-zơn và thay đổi khí hậu tồn cầu trong đó có sự ấm lên của trái
đất. Có thể, một số nhà nghiên cứu biện hộ cho tồn cầu hóa bằng các giải
pháp về những nguồn năng lượng tái tạo như: năng lượng mặt trời, năng
lượng từ gió và năng lượng địa nhiệt v.v… Tuy nhiên, những nguồn năng
lượng này không thể thay thế kịp thời các nguồn năng lượng rẻ tiền như dầu
lửa và than đá với tốc độ sử dụng của toàn cầu hóa. Đó chỉ là một ví dụ về
ảnh hưởng của tồn cầu hóa đến mơi trường sinh thái. Trên thực tế, tồn cầu
hóa đang và sẽ ảnh hưởng rất sâu rộng đến tất cả các hệ sinh thái từ hệ sinh
thái rừng đến hệ sinh thái biển, và từ hệ sinh thái ở nông thôn đến các hệ sinh
thái ở đơ thị. Ngồi ra, tồn cầu hóa có thể làm gia tăng sự bất bình đẳng
trong từng quốc gia, giữa các quốc gia, và có nguy cơ biến một số nước kém
phát triển trở thành những "thùng" chứa đựng các công nghệ phế thải của các
nước giàu.
Một trong những thách thức mục tiêu phát triển bền vững ở nước ta
hiện nay đó là vấn đề mơi trường với biến đổi khí hậu: Việt Nam được cho là
một trong số rất ít quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu. Trong thời gian qua, biến đổi khí hậu đã hiện hữu ngày càng

rõ rệt, nhất là sự gia tăng thiên tai và đã gây nhiều thiệt hại về người và của
cho nhiều khu vực, đặc biệt là ở ven biển miền Trung. Tổng số hàng năm toàn
quốc mất mát do thiên tai khoảng 1,5% GDP và hơn 450 tính mạng.
Tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt: do những nguyên nhân
khác nhau, tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên nước, tài nguyên sinh
vật bị suy thoái nghiêm trọng. Trong một số địa phương, tài nguyên đất, tài
nguyên khoáng sản đã bị khai thác đến mức cạn kiệt hoặc rất lãng phí.

8


Chương 2
BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng
Vừa qua Bộ Tài ngun và Mơi trường vừa có Quyết định về việc tổ
chức Giải thưởng Báo chí Tài ngun và Mơi trường lần thứ VI. Theo 4
chuyên đề cụ thể như:
- Tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, cơ chế,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về tài nguyên và môi trường; kết quả tổ
chức thực hiện các mục tiêu về tài nguyên và môi trường tại Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021
– 2025; các kế hoạch theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
- Tuyên truyền về việc đổi mới, nâng cao hiệu quả cơng tác xây dựng,
hồn thiện đồng bộ thể chế chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng tài
ngun thiên, bảo vệ mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tập trung tháo
gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính và cải thiện mơi trường đầu tư kinh
doanh; thực hiện chuyển đổi số; phát triển Chính phủ số, Chính phủ điện tử
ngành tài ngun và mơi trường, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin,

hiện đại hóa trong cơng tác chỉ đạo điều hành, kết nối liên thông giữa các cấp
ngành, phục vụ người dân và cộng đồng doanh nghiệp; góp phần nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
- Tuyên truyền các tấm gương, các điển hình tiên tiến, mơ hình, sáng
kiến, giải pháp, kinh nghiệm trong nước và quốc tế về tài ngun và mơi
trường; q trình hình thành, đổi mới, hội nhập, phát triển của Bộ Tài nguyên
và Mơi trường (2002 – 2022) và vị trí, vai trị, đóng góp của ngành tài ngun
và mơi trường thời gian qua.
9


- Tuyên truyền, phản ánh thực trạng, khó khăn, bất cập, những biểu
hiện tiêu cực, các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội; đề xuất giải pháp
trong công tác quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài ngun thiên nhiên, bảo
vệ mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Theo đó giải thưởng được trao cho 4 loại hình báo chí và các thể loại
báo in, báo điện tử, báo phát thanh, truyền hình.
Qua đó cho thấy, cơng tác bảo vệ mơi trường, truyền thông là một trong
những phương tiện hữu hiệu không chỉ đã vạch trần các hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ mơi trường mà cịn nêu bật những gương người tốt, việc tốt đã
đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ mơi trường chung, qua đó dần hình thành
những nhóm người có cùng ý tưởng chung tay bảo vệ môi trường.
Các nội dung tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng tập
trung vào phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường; các vấn đề môi trường nổi
cộm, bức xúc, các “điểm nóng” về mơi trường nhằm nâng cao ý thức, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ môi
trường; công khai thông tin về cơ sở gây ô nhiễm, vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường để tạo áp lực xã hội, sức ép dư luận buộc các cơ sở này phải
nhanh chóng thực hiện các biện pháp khắc phục và xử lý mơi trường.
Qua đó đã nâng nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các

ngành và nhân dân ngày càng được nâng lên, mức độ gia tăng ơ nhiễm, suy
thối và sự cố môi trường từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên
nhiên và đa dạng sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Những thông tin phản ảnh về các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên sức ép của dư
luận đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; tạo định hướng và tư duy mới
trong xã hội về về công tác bảo vệ mơi trường. Từ đó, các doanh nghiệp đã
dần ý thức được trách nhiệm của mình về việc thực hiện nghiêm túc các quy
định về bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngày 24/05/2022 báo Tài nguyên và Mơi trường có bài “Nhà máy BộtGiấy VNT19 tự ý đặt đường ống xả thải khi chưa có phép” của nhà báo Hà
10


Anh. Theo nội dung phản ánh của bài báo “Dù chưa được cơ quan chức năng
cấp phép nhưng Nhà máy Bột - Giấy VNT19 ở Bình Sơn (Quảng Ngãi) đã thi
công đường ống xả thải hướng ra vịnh Việt Thanh”. Ông Nguyễn Đức Sơn –

Chủ tịch UBND xã Bình Phước, huyện Bình Sơn khẳng định, việc Nhà
máy Bột – Giấy VNT19 đặt đường ống xả nước thải từ ngày 20/5 đến nay
là chưa được cơ quan nhà nước cấp phép. Trước sự can thiệp kịp thời của
báo chí, ngày 6/4 vừa qua, tại UBND huyện Bình Sơn diễn ra buổi “Tư
vấn, phản biện hệ thống xử lý nước thải, tuyến đường ống xả thải của dự án
Nhà máy bột giấy VNT19".
Tình trạng ơ nhiễm mơi trường ngày càng gia tăng gây bức xúc trong
xã hội, nhiều trường hợp người dân không biết phản ánh thế nào, kiến nghị ra
sao và ai đứng lên giải quyết. Trong bối cảnh đó, báo chí đã vào cuộc và trở
thành phương tiện hữu hiệu trong công tác bảo vệ, phát hiện, lên tiếng vạch
trần các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Thông tin về tài nguyên môi trường đã luôn được thể hiện thường
xuyên, liên tục cập nhật, đa dạng trên các loại hình báo chí như báo in, báo

phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử với lưu lượng, dung lượng khá lớn,
phương thức truyền tải và cách thức thể hiện sinh động, hấp dẫn. Qua thống
kê, trung bình mỗi tháng trên các phương tiện thông tin đại chúng có hơn
1.000 tin, bài về tài ngun mơi trường, riêng lĩnh vực mơi trường có trên 300
tin, bài. Rất nhiều báo in, điện tử đã xây dựng các chương trình, chuyên trang
chuyên mục định kỳ về môi trường.
Hay những vụ việc nổi cộm trong những năm qua như vụ việc vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường của Công ty TNHH Vedan Việt Nam, Công ty
Miwon Phú Thọ xả nước thải chưa qua xử lý gây ô nhiễm môi trường sơng,
vấn đề ơ nhiễm kênh Ba Bị, vụ vi phạm nhập khẩu rác thải của Công ty
Tung Kuang (Hải Dương)...Vai trị của báo chí được thể hiện rất rõ qua những

11


bài phản ánh, phóng sự điều tra, đã giúp các cơ quan quản lý Nhà nước xử lý
những doanh nghiệp, tổ chức vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Những thông tin phản ảnh về các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng đã tạo nên sức ép của dư
luận đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; tạo định hướng và tư duy mới
trong xã hội về về công tác bảo vệ môi trường. Từ đó, các doanh nghiệp đã
dần ý thức được trách nhiệm của mình về việc thực hiện nghiêm túc các quy
định về bảo vệ mơi trường trong q trình sản xuất kinh doanh.
Những minh chứng đó đã khẳng định, báo chí là phương tiện tuyên
truyền, phổ biến thông tin, kiến thức, cơ chế chính sách pháp luật về tài
ngun và mơi trường đến với từng người dân, các tổ chức, góp phần nâng
cao nhận thức cho cộng đồng xã hội. Đồng thời, báo chí góp phần tun
truyền, cổ vũ các gương điển hình tiên tiến, nhân tố mới có nhiều đóng góp
trong cơng tác bảo vệ mơi trường. Thơng tin về những hành vi vi phạm pháp
luật về môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng được nhân dân

ủng hộ, tạo ngọn cờ tập hợp ý chí, tiếng nói, mong muốn của nhân dân.
Vai trò của các cơ quan truyền thơng, báo chí trong cơng tác tun
truyền, phản ánh thông tin đa chiều về các lĩnh vực quản lý Nhà nước là
không thể phủ nhận.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của báo chí, truyền thơng với cơng
tác bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 41/NQ-TW về bảo vệ mơi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định việc
đẩy mạnh cơng tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm
bảo vệ môi trường là giải pháp hàng đầu. Trong đó, đa dạng hóa các hình thức
tun truyền, phổ biến chính sách, pháp luật và các thơng tin về môi trường
cho cộng đồng; đồng thời lên án nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường… tăng cường giáo dục đạo đức môi trường
cho mọi tầng lớp nhân dân.

12


Điều này, một lần nữa đã được khẳng định trong Nghị quyết số 24-NQ/
TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ mơi trường; Nghị quyết số
35/NQ-CP của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường vừa mới được ban hành gần đây.
Các nội dung tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng tập
trung vào phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường; các vấn đề môi trường nổi
cộm, bức xúc, các “điểm nóng” về mơi trường nhằm nâng cao ý thức, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đối với công tác bảo vệ môi
trường; công khai thông tin về cơ sở gây ô nhiễm, vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường để tạo áp lực xã hội, sức ép dư luận buộc các cơ sở này phải
nhanh chóng thực hiện các biện pháp khắc phục và xử lý mơi trường. Qua
đó, nhận thức về bảo vệ mơi trường của các cá nhân và tổ chức được nâng

lên rõ rệt.
2.2. Giải pháp kiến nghị
Báo chí cung cấp thơng tin, tạo cơ sở xây dựng đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước Thực tế cho thấy, hoạt động hoạch định chính sách là
hoạt động cần phải nắm bắt thông tin sâu, rộng, hằng ngày, hằng giờ, nhất là
việc cập nhật thơng tin báo chí. Bởi lẽ, hoạt động này có ý nghĩa, tác động tới
nhiều đối tượng, chủ yếu liên quan đến lợi ích của cơng đồng, cho nên trước
khi ra một chính sách, cần phải xem xét thấu đáo, cẩn thận, sàng lọc qua
nhiều phương diện. Thông tin báo chí chính là nguồn thơng tin dồi dào, khách
quan, chân thật nhất. Thơng tin đó nhiều khi được bàn luận, đánh giá qua việc
vận động ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học,…nhờ đó nắm bắt được sự
kiện và vấn đề báo chí tức là nắm bắt được “kho tàng” trí lực của nhiều
người. Những năm qua, báo chí đã thơng tin về mọi mặt của đời sống xã
hội, cung cấp một nguồn tư liệu phong phú, đa diện để các nhà hoạch định
đường lối, chính sách nghiên cứu, tham khảo, tìm hiểu, từ đó có cơ sở để
có các quyết định phù hợp. Báo chí đóng vai trị là kênh thơng tin nhanh
13


chóng và kịp thời đưa những diễn biến, biểu hiện của các vấn đề, sự kiện
mới đến mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó có đội ngũ những người lãnh
đạo, qua đó thu hút sức mạnh, trí tuệ vào việc giải quyết những vấn đề đặt
ra trong thực tiễn cuộc sống.
Tuy nhiên, khi thực hiện nhiệm vụ này, báo chí cần chú ý một số điểm
sau đây:
Thứ nhất, nhấn mạnh lợi ích và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Truyền thơng phải nhấn mạnh khía cạnh lợi ích. Con người ln quan
tâm đến lợi ích của cá nhân mình, của tập thể, cộng đồng mình là đại diện. Do
đó, có thể nhấn mạnh mấy khía cạnh sau về lợi ích:

Cá nhân con người sống phải có trách nhiệm với cộng đồng, với tương
lai con cháu. Đó là danh dự, là lẽ sống ở đời. Là người Việt Nam, nếu không
bảo vệ mơi trường đất nước mình thì đó là điều xấu hổ, là sai lầm không thể
sửa chữa, là lỗi lầm với mn đời hậu thế. Giữ gìn mơi trường vì thế vừa là
đạo đức, vừa là văn hóa và trí tuệ con người trong thời đại văn minh.
Với các doanh nhân, bảo vệ môi trường đi đôi với lợi nhuận doanh
nghiệp. Tăng chi phí cho bảo vệ mơi trường nhưng bù lại doanh nghiệp có cơ
hội bán được số lượng hàng hóa lớn hơn. Người tiêu dùng trong xã hội văn
minh khơng chỉ muốn có hàng hóa có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, điều kiện
giao hàng thuận lợi… mà hàng hóa đó cịn phải thân thiện với mơi trường.
Ngược lại, hàng hóa của những doanh nghiệp gây ơ nhiễm mơi trường sẽ
có nguy cơ bị tẩy chay. Ở các nước phát triển, nơi mà người tiêu dùng có ý
thức cao trong việc bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp có ý thức bảo vệ
mơi trường thường giành được cảm tình của khách hàng. Sản phẩm của các
cơng ty đạt chứng nhận môi trường ISO:14.000 được khách hàng ưa thích
và lựa chọn, mặc dù những sản phẩm đó có thể có giá bán cao hơn sản
phẩm cùng loại. Đón bắt quy luật phát triển tất yếu của xã hội, doanh

14


nghiệp muốn phát triển bền vững không thể không quan tâm đến tâm lý này
của người tiêu dùng.
Hàng rào kỹ thuật với rất nhiều quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo
lường, an tồn lao động, bao bì, đóng gói; tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm,
về bảo vệ môi trường sinh thái… nhằm bảo đảm sức khỏe cộng đồng người
tiêu dùng. Khách hàng sẽ ngày càng chú ý đến mức độ sạch của sản phẩm,
trong đó có sạch về môi trường. Việc bảo vệ môi trường sẽ giúp các doanh
nghiệp vượt qua các rào cản kỹ thuật, thâm nhập vào thị trường quốc tế, nâng
cao khả năng cạnh tranh sản phẩm. Nếu chỉ vì lợi nhuận trước mắt mà xao

lãng, quay lưng hoặc phá hủy môi trường, các doanh nghiệp sẽ tự đào thải
trên con đường phát triển hội nhập của đất nước.
Thứ hai, tập trung truyền thông về khía cạnh pháp lý
Doanh nghiệp, cá nhân vi phạm mơi trường khơng chỉ bị xử phạt hành
chính mà cịn phải đối diện với các chế tài nghiêm khắc của pháp luật như:
Bồi thường nếu gây hại môi trường: Theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2005, bên đòi bồi thường thiệt hại phải chứng minh thiệt hại của
mình. Tuy nhiên, do đây là giai đoạn thương lượng nên người dân có thể đưa
ra một con số thiệt hại nào đó gần sát thực tế để thương lượng. Nếu q trình
thương lượng khơng thành, người dân có thể trực tiếp hoặc thơng qua ủy
quyền khởi kiện tại tịa án. Lúc đó, tồ án sẽ giúp đỡ xác định mức thiệt hại
thông qua trưng cầu giám định thiệt hại.
Nghị định 117/2009/NĐ –CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường và Luật Bảo vệ mơi trường cũng đã có quy định đóng cửa
nhà máy, doanh nghiệp vi phạm pháp luật môi trường nghiêm trọng.
Trong trách nhiệm dân sự nếu xử lý hành chính cũng phải nâng cao
mức xử phạt, mức phạt phải tương xứng với lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp
thu được. Cần sửa đổi chương 17 Bộ luật Hình sự, phần về tội phạm mơi
trường theo hướng xử lý hình sự cả đối với pháp nhân có hành vi vi phạm
pháp luật mơi trường nghiêm trọng – thay vì chỉ xử lý hành chính như hiện
15


nay. Đương nhiên, hành vi nào thì áp dụng trách nhiệm hình sự, hành vi nào
thì xử lý hành chính cũng cần phải phân định rất rõ.
Thứ ba, biểu dương điển hình tiên tiến đi đơi với phê phán những tiêu
cực, sai phạm của cá nhân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường
Nhiều cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến bảo vệ môi
trường đã phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả. Nhiều
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi với lợi thế về vốn, khoa học

công nghệ và kinh nghiệm quản lý, đã áp dụng các biện pháp xử lý chất thải
trước khi thải ra môi trường được các Bộ, ban, ngành của Việt Nam cũng như
xã hội công nhận … Một số doanh nghiệp trong nước đã chủ động áp dụng
các giải pháp xử lý chất thải và đầu tư đổi mới cơng nghệ trong sản xuất.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã nâng cao được sức cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế và trong nước, xây dựng được một thương
hiệu “sản phẩm xanh”… Sau khi thay đổi quy trình sản xuất, cải tiến đổi mới
cơng nghệ, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch, sản phẩm của các công ty
không những chiếm lĩnh thị phần trong nước mà còn tăng nhanh về khối
lượng xuất khẩu, được bạn hàng quốc tế đánh giá cao, đồng thời đem lại niềm
tin cho xã hội và cộng đồng dân cư.
Nhiều doanh nghiệp xử lý triệt để chất thải phát sinh trong q trình
sản xuất, nghiên cứu cải tiến cơng nghệ, tiết kiệm năng lượng, sử dụng
nguyên liệu sản xuất có lợi cho môi trường. Giải thưởng “Doanh nghiệp
xanh” đã được trao tặng cho 11 doanh nghiệp năm 2006, 15 doanh nghiệp
năm 2008. Giải thưởng này sẽ làm cho người tiêu dùng trong nước và quốc tế
an tâm khi sử dụng sản phẩm do doanh nghiệp làm ra. Uy tín của doanh
nghiệp từ đó được nâng cao. Các doanh nghiệp này đã giải quyết rất tốt bài
toán: vừa BảO bảo vệ môi trường, vừa tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bảo vệ môi trường trong hoạt động của các cá nhân, doanh nghiệp còn
là một chặng đường dài, nhiều gian khổ. Trong xu thế hội nhập, đặc biệt nước
ta đã là thành viên WTO, áp lực cạnh tranh hàng hóa trên thị trường ngày
16


càng quyết liệt đã đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều thách thức có ý nghĩa
sống cịn. Trước xu thế hội nhập mạnh mẽ đó, những doanh nghiệp “xanh”,
với những sản phẩm “xanh” sẽ là những doanh nghiệp chiếm ưu thế trên thị
trường.
Bên cạnh những doanh nghiệp, doanh nhân làm tốt bảo vệ mơi trường

thì sai phạm mơi trường của doanh nghiệp cũng là điều đáng chú ý. Hầu như
không có ngày nào, báo chí khơng đưa tin về các hành vi xâm hại mơi trường,
trong đó phần nhiều là vi phạm của các doanh nghiệp: xả thải ra sông ngịi,
gây ơ nhiễm khói bui q mức cho phép, sử dụng công nghệ quá cũ, quá lạc
hậu, ảnh hưởng đến cộng đồng…
Chỉ cần gõ chữ “lấp sông Đồng Nai” đã cho 588.000 kết quả trên
Google. Tương tự với cụm từ “doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường” đã cho
48.600 kết quả.
Sự lên án mạnh mẽ của dư luận một một mặt cho thấy tác dụng của báo
chí truyền thơng trong đấu tranh trước các hành vi vi phạm môi trường, mặt
khác cũng cảnh tỉnh ngăn ngừa hiệu quả những hành vi vi phạm tiếp theo có
thể phát sinh. Ở đây đặc biệt đề cao vai trò của báo mạng điện tử- một loại
hình báo chí rất được giới doanh nhân ưa chuộng. Những hình ảnh trực quan
sinh động có ý nghĩa mạnh mẽ tới suy nghĩ và hành động của những người
điều hành và chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp, làm thay đổi
đáng kể thực trạng hành vi ứng xử với mơi trường.
Tuy vậy, khi phê bình cũng cần quan tâm đến yếu tố tâm lý nhận thức
của đối tượng: khen không tán dương, chê không vùi dập. Tuyệt đối tránh có
bé xé ra to làm thay đổi bản chất vấn đề, khiến doanh nhân bức xúc, ”dị ứng”
với thơng tin phê bình của báo chí.
Vụ bưởi chứa chất gây ung thư vẫn còn là bài học nóng hổi về
nghiệp vụ báo chí trong nhận thức về tầm quan trọng của DLXH đến đâu.
Chưa kể đến sự thiếu hiểu biết về mặt khoa học của những nhà báo đưa tin
khi nhầm lẫn tên bưởi có-và khơng chứa chất gây ung thư, đề cập đến tâm lí
17


tiếp nhận của cơng chúng khơng thơi, thì sẽ thấy tất cả các đơn vị quả mang
tên bưởi đều bị đánh đồng gây K hết. Đó là nguyên do cho sự lao đao của
nông dân trồng bưởi, không những gặp khó khăn trên đường xuất khẩu mà

cịn bị “mất điểm”, tẩy chay ngay trên “sân nhà”.
Đặc biệt là những thông tin trên báo mạng điện tử, với tốc độ lan truyền
rất nhanh có thể tạo nên đủ mọi thứ dư luận trái chiều, dễ khơi gợi những suy
luận sai lệch, thật giả úp mở, khơng có ích cho nhận thức chung, và định
hướng dư luận. Một thông tin không sai nhưng đưa quá chi tiết, khắc sâu vào
những mặt xấu theo “thiên kiến” người viết có thể tạo nên làn sóng dư luận
phức tạp. Gần đây, trường hợp báo Đất Việt, đưa tin về tỉ lệ rau quả độc hại
lên tới 24,5%, nói là nguồn thơng tin từ WHO, khiến tổ chức này bất bình,
yêu cầu báo phải xin lỗi. Kết quả giải trình cho thấy phóng viên báo này “chỉ
nghe một người bạn nói lại từ một hội thảo tổ chức từ tháng 11/2007”, tức là
trước đó đã… một năm đã đưa lên báo, dẫn đến sai lầm như đã nói ở trên!
Những thơng tin giật gân, thiếu trách nhiệm được đề cập thường có
mấy cấp độ sau: Thứ nhất, thơng tin bịa đặt hồn tồn, với dụng ý và mục
đích cá nhân cụ thể. Thứ hai là thơng tin chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng
bị đẩy lên cho “trịn trịa”, tỉa tót cho “hồn thiện”, kiểu “vẽ rắn thêm chân”,
đáp ứng nhu cầu suy diễn, lệch lạc. Thứ ba, thơng tin là có thật, nhưng bị nhìn
nhận, đánh giá, phán xét phiến diện, chỉ nhăm nhăm khai thác mặt trái, mặt
xấu… Xu hướng thơng tin giật gân, kích động nhiều khi không chỉ là hiên
hướng, nhãn quan cá nhân một nhà báo, mà nó là “định hướng” của một vài
cơ quan báo chí muốn giành cơng chúng bằng mọi giá, bất chấp những hậu
quả và hệ luỵ có thể xảy ra. Theo GS, TS Phạm Xuân Hằng, qua khảo sát, có
tờ báo đưa tới 155 “tin xấu”, trong khi chỉ có 5 tin bài “có xu hướng tích cực”.
Cán cân này rõ ràng là có vấn đề, và cơng chúng khơng thể có cái nhìn tích
cực khi bị ảnh hưởng bới những sản phẩm báo chí đầy thiên kiến và nghiêng
hẳn về “mảng tối” như vậy.
Một số đề xuất, khuyến nghị
18




×